Thừa quân tuy đánh đến thành Càn Bình, nhưng vì chính phủ nước ngoài ra mặt, nên không thể không tạm đình chiến, chỉ bao vây Càn Bình, cuộc điều đình do chính phủ nước ngoài bắt đầu đàm phán. Vì nước bạn chuyển qua ủng hộ chính phủ Xương Nghiệp, nên Mộ Dung Phong rất đau đầu, tình hình đàm phán cũng bị mắc ở đó. Tuy Càn Bình đã nắm trong tay, nhưng vì chịu sự kìm hãm trong ngoài, Thừa quân không thể động đậy được. Không chỉ tuyến Nam, chiến sự giữa tuyến Bắc và nước Nga cũng vì có một số nước uy hiếp phải liên quân, không thể không kiêng kỵ vài phần.
Cho nên không chỉ Mộ Dung Phong, ngay cả đám trợ lý cũng rất sốt ruột, hôm đó sau khi cuộc họp kết thúc, các thư ký ai cũng bận rộn, chỉ có Hà Tự An và Chu Cử Luân chưa đi. Mộ Dung Phong vốn không thích ngồi lâu, lúc này nửa ngồi nửa nằm trên sofa, gác chân lên bàn trà hút thuốc, điếu hút chưa được một nửa đã vứt đi, lúc sau lại châm một điếu khác, lúc sau lại dúi vào chiếc gạt tàn thủy tinh, trong đó đã chứa đầy đầu mẩu thuốc lá. Hà Tự An ho một tiếng nói: “Cậu Sáu, Tự An có mấy câu, không biết nên nói hay không?”.
Mộ Dung Phong nói: “Tôi thấy mấy hôm nay cậu cứ ấp a ấp úng, rốt cuộc có chuyện gì?”. Hà Tự An nói: “Bây giờ tình hình tuy không xấu lắm, nhưng cứ mắc kẹt thế này quả thật sẽ bất lợi cho chúng ta. Cho dù giành được Càn Bình, đại cục vẫn phải nghe theo sự sắp đặt của chính phủ Xương Nghiệp, quả thật rất vô vị”. Mộ Dung Phong “ừ” một tiếng, nói: “Nội các Xương Nghiệp do Lý Trọng Niên nắm giữ, cái tên đó có thù với chúng ta đã lâu, bây giờ chắc đang cười trên nỗi đau của người khác”. Trong lòng anh phiền não, cứ dùng chân đá mấy cái chụp bằng sa tanh thêu hoa trắng trên bàn trà, đôi giày quân đội bằng da trên chân anh đã bị sa tanh chà sáng bóng, đám chụp bằng sa tanh đã bị nhuốm vết bẩn lớn, biến thành màu nâu đất. Chu Cử Luân là một người nghiện thuốc, chỉ ngồi bên hút thuốc, không hề nói gì.
Hà Tự An nói: “Nội các tuy là của Lý Trọng Niên, nhưng không nắm tiền và lương thực, hắn ta cũng khó mà đi được một bước. Nếu Trình gia Ủng Nam chịu ủng hộ Cậu Sáu, không chỉ nguy cơ trước mắt được giải quyết mà đại sự sau này càng xuôi chèo mát mái”. Mộ Dung Phong vốn đã buồn phiền, đá mạnh vào bàn trà, phát ra tiếng “lạch cạch”: “Đừng vòng vo, cậu có cách gì hả, thuyết phục Trình Doãn Chi ủng hộ tôi?”.
Hà Tự An hơi nhướn người về phía trước, trong mắt thấp thoáng tia nhìn kỳ lạ: “Cậu Sáu, Trình gia có một tiểu thư khuê nữ, nghe nói tuy từ nhỏ lớn lên ở nước ngoài, nhưng nhân phẩm tướng mạo đều rất xuất sắc, hơn nữa rất có tài, Trình gia có bốn anh em, Trình Doãn Chi gọi vị tiểu thư trẻ tuổi tài năng này là Trình gia nhất kiệt...”. Hà Tự An còn chưa nói xong, đã thấy ánh mắt Mộ Dung Phong sắc nhọn, như băng như tuyết phóng tới, anh ta không hề chần chừ, nói tiếp: “Cậu Sáu, kết thông gia là cách nhanh gọn nhất hiện giờ, nếu kết t hông gia với Trình gia, thiên hạ này không phải đều thuộc về Cậu Sáu sao?”.
Khóe miệng Mộ Dung Phong hơi chùng xuống: “Nếu Mộ Dung Phong tôi tiến thân nhờ phụ nữ, không phải sẽ khiến thiên hạ chê cười sao?”.
Giọng điệu anh đã cực kỳ gay gắt, Hà Tự An không hề do dự chút nào: “Đây là kế sách tạm thời, đại trượng phu thức thời mới là tuấn kiệt, Cậu Sáu xưa nay không phải là người bảo thủ, hôm nay sao lại nói vậy?”. Mộ Dung Phong im lặng một lúc, cười lạnh một tiếng: “Kế sách tạm thời, không phải là cậu giấu đầu hở đuôi sao?”.
Hà Tự An nói: “Kẻ làm đại sự không câu nệ tiểu tiết”. Chỉ nghe “rầm” một tiếng, Mộ Dung Phong đá chiếc bàn trà đi xa mấy tấc: “Đây là tiểu tiết sao, hôn nhân là chuyện đại sự, muốn tôi lấy ra để giao dịch, không đời nào”.
Hà Tự An dù sao cũng trẻ tuổi, huống hồ xưa nay chuyện công tư của Mộ Dung Phong đều hay tham gia, tuy thấy anh đang tức giận, anh ta vẫn cứng đầu nói: “Cậu Sáu nói đây là giao dịch, không sai, là giao dịch số một, cái đem ra giao dịch, chính là thiên hạ. Tình hình hiện nay tuy chúng ta thắng chắc Dĩnh quân trận này, nhưng chiến tranh với Nga ở phía Bắc đã bị siết chặt, chính phủ Xương Nghiệp của Lý Trọng Niên lại là chính phủ được quốc tế công nhận hợp pháp. Cho dù giải quyết được chiến sự tuyến bắc, Tống Thái Tổ từng nói: “Cạnh giường của ta sao có thể để cho người khác ngủ?”. Chẳng lẽ Cậu Sáu thật sự cam tâm chia giang sơn với chính phủ Xương Nghiệp? Nếu tiếp tục dùng binh đối phó Xương Nghiệp, một là không có thời cơ mượn cớ hợp lý, khó tránh khỏi miệng lưỡi bọn nước ngoài, có khi còn xảy ra biến cố. Hai là sau trận chiến này, nhiều năm qua quân ta không đủ thực lực đối đầu với Xương Nghiệp, về sau sao biết được cục diện thế nào? Ba là chiến tranh không tốt lành, hiện nay trong và ngoài nước đều đang hô hào hòa bình, phản đối chiến tranh, Cậu Sáu xưa nay yêu quân như con, có thể nhẫn tâm nhìn hàng vạn binh lính lại lao vào biển lửa, chết ở sa trường sao?”. Hà Tự An nói một thôi một hồi, dừng một lát lại nói: “Trình Doãn Chi là người thông minh, nhất định có thể hiểu được nỗi khổ của Cậu Sáu. Cậu Sáu và Trình gia đều có thứ mình muốn, làm sao Trình gia không chấp nhận chứ? Không mất một binh một tốt mà có thể bình định Giang Nam, không gây chiến tranh, muôn dân thiên hạ còn gì may mắn bằng?”.
Mộ Dung Phong yên lặng không nói, Hà Tự An thấy anh không nói gì, cảm thấy nắm chắc thêm mấy phần, liền nói: “Trình tiểu thư xuất thân cao quý, nhất định thông tình đạt lý, còn ở chỗ Doãn tiểu thư, thứ mất đi chỉ là danh phận, sau này Cậu Sáu yêu thương cô ấy nhiều hơn một chút, Doãn tiểu thư nhất định có thể hiểu được”.
Mộ Dung Phong cảm thấy huyệt Thái Dương giật giật, càng lúc càng dữ dội, đau đầu như búa bổ, nói: “Tôi muốn nghỉ một lát”. Hà Tự An đứng dậy nói: “Vậy Tự An cáo từ trước”.
Trong phòng chỉ bật một chiếc đèn điện, chút ánh sáng xanh chiếu trong căn phòng rộng lớn, ghế sofa màu tím, trải nệm gấm rất dày, chiếc nệm gấm đó cũng màu hồng thêu kim tuyến, dưới ánh đèn nhợt nhạt màu tím giống như máu đọng, ngay cả hoa văn kim tuyến rực rỡ như thế cũng giống như một lớp bụi. Mộ Dung Phong vốn phiền lòng, mở hộp thuốc bằng bạc “cạch” một tiếng, sau đó đóng lại, một lúc sau lại “cạch” một tiếng mở ra. Chu Cử Luân nãy giờ không nói gì, lúc này vẫn ung dung hút thuốc, Mộ Dung Phong cuối cùng không chịu được, vứt hộp thuốc lên bàn trà, khoanh tay đi lại mấy bước trong phòng. Chu Cử Luân giờ mới chậm rãi gõ chiếc tẩu thuốc hai lần, nói: “Thiên hạ đã nằm trong tay, sao Cậu Sáu lại do dự chứ?”.
Vẻ mặt Mộ Dung Phong phức tạp khó đoán, dừng chân đứng đó, rất lâu sau chỉ thở dài một tiếng.
Tĩnh Uyển xưa nay ham ngủ, hai ngày nay vì tinh thần mệt mỏi, cho nên chưa tới mười giờ đã lên giường nghỉ ngơi. Cô đang ngủ rất say, bỗng mơ hồ thấy đôi môi ấm nóng áp lên môi mình, hơi thở phả trên cổ ngưa ngứa, liền co mình lại: “Đừng đùa”. Anh cứ hôn triền miên không chịu thôi, cô chỉ mơ màng mở mắt ra: “Sao tối nay về sớm thế?”. Mộ Dung Phong “ừ” một tiếng, dịu dàng nói: “Mai anh không có việc gì, đưa em đi xem lá đỏ nhé? Nghe nói lá đỏ ở núi Nguyệt Hoàn đã đỏ hết rồi”. Tĩnh Uyển cười nói: “Không có việc gì tự dưng ân cần thế?”. Anh cười ha ha, ôm cô vào lòng qua một lần chăn: “Vậy anh nhất định sẽ nghĩ việc gì đó”. Cô ngủ rất ấm, hai má ửng hồng, tuy trừng mắt nhìn anh, nhưng ánh mắt lại lấp lánh như ánh nước, anh hôn cô say sưa, trong môi miệng chỉ có sự ngọt ngào của cô, hơi thở cô dần dần rối loạn, đưa tay ra nắm lấy tà áo anh. Cuối cùng anh bỏ cô ra, anh đã thay quần áo ngủ, tóc cũng hơi rối. Anh rất ít khi bình tĩnh ôn hòa như thế, khiến cô có cảm giác yên bình kỳ lạ. Anh chống người chăm chú quan sát cô, giống như mấy ngày liền không gặp, lại giống như muốn nhìn kỹ xem cô có gì khác ngày thường hay không.
Chăn bông quá ấm, cô hơi nóng, trách móc nói: “Sao nhìn người ta thế, như là muốn ăn thịt ấy. Hiếm khi về sớm thế này, ngủ sớm thì hơn”. Mộ Dung Phong cười: “Anh không quen ngủ sớm”. Tĩnh Uyển đẩy anh: “Dù sao cũng kệ anh, em phải ngủ rồi”. Mộ Dung Phong nói: “Vậy anh cũng ngủ”. Tĩnh Uyển cuốn chăn, nhưng không giữ được bị anh kéo ra, cô “hừ” một tiếng: “Anh đắp chăn của anh ấy…”. Những lời phía sau đều bị vùi trong nụ hôn nóng bỏng. Anh kẹp chặt lấy cô, dường như muốn ép cô vào bản thân mình, cô hơi khó thở, anh cắn lấy da thịt mềm mại của cô, tình cảm dường như bộc phát không thể khống chế, anh làm cô đau, cô khẽ rên một tiếng, anh lại coi như không biết, chỉ điên cuồng muốn nuốt gọn cô.
Đêm yên tĩnh đến cực điểm, có thể lờ mờ nghe thấy tiếng bước chân cảnh vệ bên ngoài tường, xa xa vẳng lên một, hai tiếng chó sủa, tiếng tích tắc nhỏ bên cạnh nghe quen thuộc mà gần gũi, lúc tỉnh dậy anh thẫn thờ một lúc mới nhận ra, hóa ra là chiếc đồng hồ đó của mình. Sau khi đưa nó cho cô, cô luôn đem theo bên người, cô đã quen đặt chiếc đồng hồ đó ở dưới gối, anh muốn lấy ra xem giờ, nhưng lại chạm phải kim loại lạnh lẽo, hóa ra là khẩu súng ngắn của mình. Anh đặt súng xuống dưới gối, đưa tay ra như thế vô tình chạm vào tóc cô, trơn mượt mà thật dày, có mùi hoa nhài nhàn nhạt, là mùi hương dầu gội đầu Paris.
Cô ngủ rất say, như một đứa trẻ vô tri, hơi thở đều đều. Anh nhổm người lên nhìn cô, chăn bông hơi tuột ra, lộ ra bờ vai trắng nõn, mềm mại như ngọc. Anh chầm chậm hôn lên vai cô, cằm anh lún phún râu, chọc vào khiến cô hơi động đậy, cô sợ ngứa nên sợ nhất là anh dùng râu chọc cô. Từ rất xa truyền đến tiếng chim kêu lách chách, trời đã sắp sáng rồi.
Hôm nay anh không bận việc gì nên ngủ rất muộn mới dậy, ăn trưa với Tĩnh Uyển xong liền đến núi Nguyệt Hoàn ngắm lá đỏ. Buổi sáng trời vốn âm u, đến gần trưa màu trời vẫn ảm đạm như hoàng hôn. Trên núi chỉ có một con đường đá, xe lái đến lưng chừng núi thì họ xuống xe. Gió trên núi rất to, thổi thốc lông cổ chiếc áo da rái cá quét vào mặt cô, ngưa ngứa khiến cô phải dùng tay để giữ. Cảnh vệ đã được bố trí vác súng đứng hai bên đường núi ngoằn ngoèo, từ xa trông như những chấm đen nhạt nhòa.
Khắp núi lá đỏ đã chuyển sang màu đỏ ối, xung quanh đều cháy lên như một ngọn lửa rực rỡ, lá cây phong và cây thích rơi đầy đất, lá rụng tích thành một lớp dày trên mặt đường, giẫm lên êm ru, không phát ra tiếng động. Anh nắm tay cô, hai người lặng lẽ đi về phía trước, các cảnh vệ đương nhiên rất biết điều, chỉ theo sau từ xa. Một bên đường có một cây rẻ quạt rất lớn, những chiếc lá rẻ quạt nhỏ, vàng rực rụng kín gốc cây, cô cúi xuống nhặt một chiếc lá, lại ngẩng đầu lên nhìn ngọn cây chọc trời đó, xung quanh là một trời lá đỏ, chỉ có một cây rẻ quạt này lẻ loi lá vàng, bỗng nhiên ngẩn ngơ nói: “Một cây to như vậy lại cô độc ở đây, thật đáng thương”.
Mộ Dung Phong vốn không cảm thấy gì, bỗng nghe cô nói một câu như thế, chỉ thấy trong lòng như sóng động, anh quay mặt đi nhìn lên núi: “Ở đó không phải có một ngôi miếu sao?”. Tĩnh Uyển thấy một góc tường màu vàng nhạt ẩn hiện sau tán cây, nói: “Hình như là một ngôi miếu, chúng ta đi xem xem”.
Tuy cô đi một đôi giày đế bằng nhưng đi một lúc đã cảm thấy không nhấc nổi chân, cứ lê từng bước một, cảm thấy hai chân như nặng ngàn cân. Anh thấy cô đi lại vất vả, nói: “Anh cõng em nhé”. Cô quở trách nói: “Vậy ra cái gì chứ?”. Anh cười nói: “Không phải Trư Bát Giới còn cõng cô dâu sao?”. Cô tươi cười hớn hở: “Anh còn thích làm Trư Bát Giới à, em không cản anh đâu”. Anh cũng không kìm được: “Em là đồ xấu xa, không chú ý nói một câu liền bị em bắt được”. Anh đã quỳ xuống: “Nào”. Cô do dự một lát, cảnh vệ phía trước đã lên miếu, cảnh vệ phía sau còn ở con đường núi phía dưới, trong rừng chỉ có tiếng chim muông véo von, xa xa lờ mờ hình bóng cảnh vệ lướt qua, cô vốn ham vui, cười dựa vào lưng anh, ôm lấy cổ anh.
Anh cõng cô lên từng bậc, những bậc thang lát đá xanh uốn lượn từ trong rừng đi lên cao, cô ôm chặt lấy cổ anh, trên đầu là những cây lá đỏ đỏ rực, vừa giống như vô số ngọn lửa cháy giữa không trung, lại vừa giống n hư hoa mùa xuân, nở rực rỡ tươi thắm. Màu trời ảm đạm âm u, trông như sắp mưa, những đám mây xám xịt như sắp ập xuống. Anh đi từng bước lên bậc thang, mỗi bước đều hơi lắc lư, nhưng vai anh rộng phẳng, có thể để cô dựa dẫm như thế. Cô hỏi: “Trước đây anh từng cõng ai chưa?”. Anh nói: “Chưa, hôm nay là lần đầu đấy”. Cô ôm anh càng chặt hơn: “Vậy anh phải cõng em cả đời”.
Cô ở phía sau không nhìn được vẻ mặt anh, anh đi từng bước trên bậc đá, chắc khó đi hơn, cho nên giọng nói hơi kỳ lạ: “Được, anh cõng em cả đời”.
Trên núi có một ngôi miếu Quan Âm, không hề có người xuất gia làm trụ trì, chỉ có người trong núi mỗi dịp lễ tết đến thắp hương mà thôi. Các cảnh vệ đã kiểm tra trong và ngoài miếu xong liền lui ra xa, anh nắm tay cô vào miếu, bên trong tượng Bồ Tát tôn nghiêm, tuy nước sơn vàng đã bị bong ra nhưng khuôn mặt từ bi của Bồ Tát vẫn vậy. Cô tiện tay lấy một cây hương, cắm vào trong lư hương đá, thành khẩn vái ba vái. Anh nói: “Không ngờ em còn tin cái này?”.
Mặt cô chợt đỏ bừng: “Em vốn không tin, bây giờ bỗng hơi tin rồi”.
Anh hỏi: “Vậy em nguyện ước điều gì, đến lúc đó anh còn đưa em đi trả nguyện”. Mặt cô lại hơi đỏ: “Em không nói cho anh biết”. Anh “ồ” một tiếng, nói: “Vậy anh biết rồi, em nhất định là cầu xin Bồ Tát phù hộ cho hai chúng ta”. Mặt cô đỏ rần rần, lườm anh trách móc: “Vậy anh cũng nên vái lạy đi”. Anh nói: “Anh không tin cái này, vái làm gì?”. Cô kéo nhẹ gấu áo anh: “Thấy Phật thì vái, cũng là điều nên làm”. Hôm nay anh thật sự không nỡ làm phật ý cô, thấy cô nói vậy liền quỳ xuống chiếc đệm bụi bặm, vừa cúi đầu xuống, liền thấy cô cũng cúi đầu xuống vái, giọng cầu khấn tuy nhỏ, nhưng truyền đến tai anh rất rõ ràng: “Mong Bồ Tát phù hộ, con và Bái Lâm không bao giờ rời xa”.
Bụi trên đất xộc lên, anh ho một tiếng, đưa tay ra nắm lấy tay cô, tay cô mềm mại ấm áp, cô hỏi: “Anh sao thế, tay lạnh vậy? Bảo anh mặc áo khoác lại không chịu, nhất định vứt ở trên xe”. Anh nói: “Anh không lạnh”. Anh lại cúi người xuống phủi bụi trên chiếc sườn xám của cô, rồi đứng dậy nói: “Đi thôi”.
Sau miếu là một khoảng sân lát đá xanh, mấy căn phòng cho tăng ni đã xiêu vẹo từ lâu, vô cùng đổ nát, có một cây hoa cúc dại trong khe hở dưới bậc thang đá, nở ra mấy bông hoa màu vàng nho nhỏ, lay động trong gió, khiến người ta thấy thương xót. Vì gió lớn cô kéo chặt áo khoác, anh ôm chặt lấy eo cô, chỉ nghe thấy gió ào ào, khí lạnh thấu xương. Cô không kìm được dựa vào anh, anh ôm cô trong lòng, mùi tóc cô nhàn nhạt, lẩn vào áo anh. Anh nói nhỏ: “Tĩnh Uyển, có một việc anh muốn thương lượng với em”.
Cô ngẩng đầu lên nhìn anh: “Việc gì thế?”. Cảm thấy hơi lạnh trên mặt, những bông tuyết đang lác đác rơi xuống, cô “a” lên một tiếng: “Tuyết rơi rồi”.
Những bông tuyết lác đác bị gió cuốn đi tạt vào người, anh khẽ hôn lên tóc cô, gió trong núi thổi mạnh, môi anh cũng lạnh buốt. Anh nói: “Tình hình không tốt, đánh xong với Dĩnh quân, anh định tuyên chiến với Xương Nghiệp”. Cô “hả” một tiếng nho nhỏ, anh nói: “Em đừng lo, tuy không nắm chắc nhưng anh rất có lòng tin, chỉ cần tuyến Bắc ổn định lại, Xương Nghiệp chỉ là vấn đề sớm muộn”. Cô biết rõ hoài bão của anh, tuy rất lo lắng, nhưng không hề khuyên can, chỉ quay mặt đi nhìn tuyết lặng lẽ rơi xuống cành lá.
Anh nói: “Trận chiến này với Xương Nghiệp... Tĩnh Uyển... Anh muốn tạm thời đưa em ra nước ngoài, đợi tình hình ổn định lại, rồi đón em về”. Cô không nghĩ ngợi gì nhiều: “Em không đi, em muốn ở bên cạnh anh”. Tay anh lạnh lẽo, gần như không chút ấm áp: “Tĩnh Uyển, anh biết ý của em, nhưng anh không yên tâm. Em ở bên anh đương nhiên là tốt, nhưng anh hy vọng em để anh yên tâm”.
Tuyết rơi dày thành tiếng, rơi càng lúc càng nhiều trên cành lá cây, rơi vào mặt hơi đau đau, anh bỗng ôm lấy cô thật chặt: “Tĩnh Uyển, em đồng ý với anh, cho anh chút thời gian, đợi tình hình ổn định lại, anh lập tức đón em về”. Trong lòng cô vạn phần không nỡ, biết rõ sự nguy hiểm anh phải đối mặt sau này, nhưng có lẽ đúng như anh nói, mình ở trong quân đội luôn khiến anh nhớ nhung, khi cô bình yên rồi, có lẽ sẽ khiến anh yên tâm. Huống hồ... mặt cô lại hơi đỏ lên, nói: “Được rồi, vậy em về nhà”.
Anh mới hiểu ra “nhà” cô nói là chỉ nhà mình ở Thừa Châu, thấy đôi mắt như nước hồ thu của cô đang nhìn mình, sự chân thật nồng cháy trong ánh mắt như một con dao, chậm rãi từ tốn róc anh ra, từng nhát, từng nhát một. Anh gần như muốn trốn tránh ánh mắt đó: “Tĩnh Uyển, em về Thừa Châu không tiện lắm... dù sao cũng chưa chính thức cưới hỏi, tình hình trong nhà em cũng biết, anh không muốn em chịu ấm ức. Anh cho người đưa em đến Nhật Bản, đợi tình hình ổn định, anh lập tức đi đón em về”.
Cô biết Mộ Dung phủ là gia đình kiểu cũ, quy tắc nhiều, thị phi cũng lắm, bản thân mình chưa chính thức cưới gả, đến Thừa Châu dù sao cũng không tiện. Nếu sống ở bên ngoài thị phi càng nhiều, có lẽ tránh ở nước ngoài lại tốt hơn. Nghĩ đi nghĩ lại, thấy anh chăm chú nhìn mình với vẻ thương yêu vô hạn, dáng vẻ đó tham lam gần như muốn dùng ánh mắt khắc cô lại, cô bản tính dịu dàng, không nỡ làm khó anh nữa, nói: “Được thôi, nhưng anh phải đồng ý với em một việc”.
Tim anh thắt lại, buột miệng hỏi: “Việc gì?”.
Cô mỉm cười nói: “Hôm nay anh phải hát một bài cho em nghe”.
Khóe miệng anh hơi cong lên, dáng vẻ đó giống như mỉm cười, nhưng trong mắt lại ánh lên vẻ thê lương: “Anh không biết hát”. Nơi mềm yếu nhất trong tim cô hơi đau đớn. Một con người mạnh mẽ như anh, lại không che giấu được sự vô vọng của ly biệt trước mắt, sau này vạn trùng hiểm nguy, việc bản thân cô có thể làm, cũng chỉ là để anh yên tâm. Cô gượng cười, lắc nhẹ cánh tay anh: “Em mặc kệ, hôm nay anh phải hát một bài cho em nghe”. Anh nghe tiếng tuyết rơi rả rích như gõ vào trong tim mình. Chỉ thấy đôi mắt đen láy trong sáng của cô phản chiếu hình bóng của mình, trong nụ cười tràn ngập sự say đắm, khiến anh nhớ đến rất lâu r t lâu trước đây, vào cuối xuân cả vườn đều là cánh hoa bay, giống như tuyết, bệnh của mẹ rất nghiêm trọng. Anh đi thăm bà, hôm đó tinh thần bà còn tốt, dưới cửa sổ phía Nam vô số cánh hoa bay qua, từng bông từng đám, tình cờ bay vào trong cửa sổ, trong phòng sực mùi thuốc, chỉ nghe thấy mẹ ho vài tiếng, lúc đó bà đã rất gầy, những ngón tay khẳng khiu, bà dịu dàng hỏi anh vài chuyện. Anh học được một khúc nhạc từ mấy người cảnh vệ, hát cho bà nghe, bà tựa trên chiếc gối lớn, cười nghe anh hát hết bài, ai ngờ, đó là lần đầu tiên mẹ nghe anh hát, và cũng là lần cuối cùng.
Đã nhiều năm như vậy, anh không còn hát cho người khác nghe nữa, anh nói: “Anh thật sự không biết hát”. Cô lại không chịu buông tha: “Em sắp đi rồi, ngay cả chút việc nhỏ này anh cũng không chịu đồng ý với em?”. Anh thấy cô tuy cười nhưng trong mắt vẫn là sự hoảng hốt bất lực, cuối cùng anh mềm lòng, cười nói: “Em muốn anh hát, vậy anh sẽ hát”.
Tuyết rơi càng lúc càng dày, trắng xóa như rắc muối, bồng bềnh bồng bềnh, gió đem theo bông tuyết đập vào hai người. Anh ôm chặt lấy cô, dường như muốn dùng hơi ấm của mình để che chắn gió lạnh cho cô, hát nhỏ bên tai cô: “Ra khỏi Nghi Sơn có một con đường nhỏ, cây đào trồng đối diện cây liễu. Chàng trồng cây đào nàng trồng liễu, cô gái nhỏ, cây đào không nở hoa cây liễu nở hoa”. Gió lạnh ù ù, xộc thẳng vào trong miệng, giọng anh tan đi trong gió: “Nước sông dâng nhấn chìm mỏm đá, đứng trên đài cao trên đỉnh mỏm đá. Đứng trên đài cao trông xa, cô gái nhỏ, cô gái nhỏ sao nàng không đến…”.
Trong tiếng gió, vô số bông tuyết đang rơi, như kết thành một tấm rèm tuyết giữa trời đất, giọng anh dần dần nhỏ đi, anh cứ ôm chặt lấy cô như thế, trong mắt Tĩnh Uyển ngấn lệ, cô nói: “Anh nhất định phải sớm sai người đi đón em... đến lúc đó em...”. Câu nói nghẹn trong miệng, cuối cùng không nỡ để anh lưu luyến hơn trước khi đi, cô chỉ nói: “Em đợi anh đến đón em”.