Lằn Ranh Sinh Tử Chương 7

Chương 7
Vào đầu mùa thu, vừa lúc những đợt sóng nhồi lớn từ miền nam đổ về thì Loonie bị gãy cánh tay. Chúng tôi đã chơi trò dại dột ở một nơi có tên là Lỗ Trũng nằm ở nửa đường đi tới Old Smoky. Cả buổi sáng hôm ấy, Loonie cứ lằng nhằng kích động tôi thách nó phóng người qua một cái lỗ hổng, giống như những gã mạo hiểm khùng khùng trong một cuốn sách mà tôi đã đọc. Loonie có biệt tài nói dai. Nó vận động một cách kiên trì đến nỗi bạn phát bực và điên lên, buộc phải thách nó làm một điều mà bạn chẳng muốn nó làm. Hơn thế nữa, bạn sẽ đâm ra thách thức một cách hăng say đến mức khiến cho nó thấy bị xúc phạm thực sự, và sự tức khí ấy sẽ thúc đẩy nó làm điều dại dột và nguy hiểm hơn cả dự tính của nó nữa.
Phóng mình qua lỗ hổng là một điều ngu ngốc chứ không phải khó khăn, và nỗ lực của chúng tôi chẳng giá trị gì. Cũng may là không có một lỗ trống nào đủ lớn để Loonie leo vào, nó đành phải ngồi ngang phía trên một lỗ hở chỉ rộng bằng bàn chân để xem những gì xảy ra. Dọc theo thềm đá basalt bên trên mực biển, các lỗ hổng phì phò, ùng ục xung quanh chúng tôi, và mỗi lần sóng đập vào chân vách đá thì có một sự lặng im trước khi tất cả mọi khe nứt và lỗ hổng rì rào trở lại. Khi một làn sóng lớn va vào phần dưới của vách đá thì những đám bọt nước có thể đẩy bạn bật ngửa ra sau. Hơi nước có một mùi rất ghê sợ. Tôi đứng khá xa, vì sợ luồng gió thổi ngược. Tôi không chịu nổi ý tưởng bị cuốn hút xuống một cái họng đen ngòm để đi thẳng vào trong hang sâu bên dưới. Tôi nghĩ thà bị cá mập Barney ăn thịt còn hơn.
Cuối cùng thì bất hạnh đến với Loonie là do sự dại dột hơn là do sự xem thường sống chết. Nó khởi đầu với một nụ cười nham nhở, và thay vì được kéo lên cao, nó lại bị xô ngang vào các vách đá. Nó lao thẳng đến chỗ tôi, hai chân quẫy đạp, chiếc áo phồng ra như chiếc phao cứu sinh, và với mớ tóc loà xoà trong mắt, nó chẳng thấy được nơi mình đang hướng tới. Tôi bị ngã xuốngế Bàn chân nó móc vào trong ống quần soóc của tôi và nó bị té ập lên trên hòn đá thật mạnh. Khi Loonie đứng dậy thì cánh tay nó bị đau dữ dội. Chúng tôi vất vả lắm mới về tới Mũi đất.
May mắn là đang có bà Eva ở nhà. Nhờ có bà mà tôi khỏi phải đèo Loonie suốt quãng đường trở về thành phố trên chiếc xe đạp của mìnhề Nó bị xỉu hai lần trên chiếc Volkswagen và bà Eva phải cố gắng lắm để không có vẻ chiêm ngưỡng những nét hấp dẫn của nó.
Suốt ba tuần lễ sau đó, chỗ gãy xương này đã khiến Loonie không đi lướt sóng ở Old Smoky được. Điều này làm thay đổi những gì giữa chúng tôi theo cách chúng tôi không thể dự đoán hoặc hiểu được.
Mùa hè vừa đi qua, trong khi chúng tôi nôn nóng muốn chứng tỏ mình thì đại dương lại phẳng lặng. Chúng tôi đi lặn cùng với ông Sando nhiều hơn là đi lướt sóng với ông. Vào những ngày nóng bức ngột ngạt, ông dẫn chúng tôi đến tận các hang cá groper hẻo lánh dọc theo các ghềnh đá ngoài Mũi đất. Những chuyến đi này có thể nói là để trắc nghiệm dung tích phổi của chúng tôi hơn là bất cứ điều gì khác, nhưng chúng tôi thích nhân đó để săn tìm hải sản làm thực phẩm. Chúng tôi bơi vào những khe đá hoa cương sâu để gỡ bào ngư với ông Sando bên cạnh, càng lúc càng lặn sâu hơn, và nhiều khi chúng tôi vượt quá ông Sando. Tôi không chắc có phải là ông Sando để cho chúng tôi vượt qua ông vì những lý do riêng của ông hay không, nhưng Loonie và tôi đã thực sự rèn luyện mình để thấy được cái lợi ích của một buồng phổi đầy hơi. Khi cần lặn xuống thì chúng tôi biết là mình đang làm gì, và đi gỡ bào ngư vui thích hơn là nằm trong đáy sông u tối với những rễ cây đầy bùn quấn trên tay bạn. Đại dương chứa đầy những thứ giúp bạn quên đi sự tức ngực của mình. Dù có bị hoa mắt hay nghe râm ran trong đầu cũng đáng công khi ta có thể săn đuổi một con cá groper lớn màu xanh vào tới tận hang của nó. Có ngày chúng tôi lội bộ ngang qua gò đất trở về với một con cá hơn hai mươi ký và một túi bào ngư rồi dành cả buổi chiều để lóc xương cá và lột bào ngư dưới bóng cây trong vườn nhà ông Sando. Trong lúc làm việc, chúng tôi năn nỉ ông kể cho chúng tôi nghe về Old Smoky. Lúc đầu, ông cứ lảng tránh câu chuyện về vùng đá ngầm này, nhưng chúng tôi cứ bám theo mãi cho đến khi ông chịu tiết lộ một vài thông tin lý thú qua cách nói bí hiểm, tỉnh lược của ông, điều này khiến chúng tôi thấy khó chịu nhưng say mê.
Ngay từ đầu, Loonie đã khao khát được lướt sóng ở Old Smoky. Nó nghĩ là nó đã sẵn sàng. Tôi không dám chắc là mình có đủ khả năng không. Vỉa đá này nhô ra ngoài xa một dặm, trên một bờ biển cô quạnh, hoang vắng, và theo những gì tôi được thấy thì sóng ở đây rất lớn. Mỗi khi có một đợt sóng nhồi đủ lớn để làm vỡ xuồng thì người ta không thể hạ xuồng xuống trong phạm vi hai mươi hải lí, thế nên cách duy nhất để tiếp cận nó là băng ngang qua con đường lùm bụi từ Mũi đất đến các ghềnh đá, rồi bò trên mặt đá cho tới chỗ nhảy xuống. Chúng tôi buộc phải lao mình khỏi ghềnh đá hứng nhiều bão tố. Rồi từ đó chèo khoảng một dặm ra ngoài biển. Tôi sợ lắm, nhưng được kích thích vì triển vọng này, cho nên ông Sando càng nói nghe thật đáng sợ thì chúng tôi càng khó cưỡng lại được cái ý tưởng kia.
Khi biết chúng tôi đã cắn câu thì ông Sando không còn tỏ ra e dè nữa. Ông mang ra những hải đồ của khu vực này để cho thấy là nền biển đã nhô cao khỏi thềm lục địa, độ sâu ở Old Smoky rất ghê gớm, và nước ở đây chồm đứng lên trên bãi đất ngầm rồi lộn ngược từ trong ra ngoài. Ông vẽ cho tôi xem sơ đồ của những cơ cấu, những dấu mốc hàng hải để tìm ra vùng ảnh hưởng và sự an toàn của dòng nước sâu bên cạnh đó. Ông nói thực ra đây là một công việc đơn giản. Một khi chọn được ngọn sóng đúng thì bạn đã về đến nhà được nửa đường, nhưng nếu phán đoán sai, phóng đi quá xa ngang qua vỉa đá ngầm thì bạn sẽ gặp rắc rối lớn.
Sau đó ông Sando đưa chúng tôi đến Old Smoky. Hôm ấy là một ngày tháng hai nóng bức. Mặt biển như một tấm gương. Từ một nơi ở ngay phía dưới Sando, chúng tôi bơi xuồng đi xuống cửa sông, kéo chiếc xuồng gác lên trên đập chắn rồi lao mình vào trong vịnh nước phẳng lặng, tại đây chúng tôi trượt nước xung quanh Mũi đất rồi hướng về phía tây để đến bờ biển vách đá bên kia. Phần dưới chân những vách đá bị biển bào mòn khá tĩnh lặng, các lỗ thông như đang im ngủ.
Khi chúng tôi ra đến Old Smoky thì tình hình ở đây khá yên vắng cho nên không thấy được gì nhiều từ trên thuyền. Ông Sando chỉ cho chúng tôi cách xác định các dấu mốc – làm sao để các lùm cây trong đất liền thẳng hàng với một dải đá vôi bên dưới vách đá ven biển. Vỉa đá ngầm chỉ là một cái bóng mờ bên dưới.
- Sâu thật – Tôi lẩm bẩm.
- Không có vẻ sâu cho lắm nếu đứng trên một nơi cao hai mươi bộ – Ông Sando nói. Để xem nó sâu bao nhiêu nhé. Đây cũng có thể là bài tập của chúng ta đây.
Chúng tôi ném cái neo vào trong vùng nước màu lam đỏ của eo biển và thấy phải mất đến mười sải dây mới đến được đáy. Chúng tôi chỉ có mặt nạ chứ không có bộ phận thăng bằng. Chúng tôi nhìn ông Sando lao xuống và bơi phía trên vỉa đá ngầm. Loonie và tôi một lúc sau mới xuống nước.
Ông này xem ông Sando và bà Eva như những kẻ vô công rỗi nghề, những tay híp-pi nghiện ngập, nên đã cấm con trai mình đến nhà ông ta, nhưng Loonie – luôn khéo che giấu hành động của mình và còn là tay nói dối đại tài – chẳng bao giờ là thứ con trai bị buộc phải làm những gì người khác bảo. Nó thường đến ngủ ở nhà tôi vào những dịp cuối tuầnề Qua những nụ cười ranh mãnh của nó, tôi biết nó thích lối sống chất phác thật thà của cha mẹ tôi. Nó thậm chí cũng thích cái kiểu khổ hạnh của mẹ tôi nhiều đêm đi vào phòng tôi để xếp chỗ chúng tôi trên giường. Tôi nghĩ đây có lẽ là một nếp sống gia đình mà nó thấy thiếu, dù có lúc nó có vẻ như đóng kịch. Đến ở với chúng tôi vài ngày mỗi tuần, có nghĩa là nó trốn tránh tính khí hung bạo của cha nó, nhưng cũng có nghĩa là để né tránh sự theo dõi, vì ông Sando từ lâu đã có thói quen đến tận nhà tôi để đón chúng tôi.
Nếu như biết được những gì mà ông Sando đã dạy cho tôi thì tôi không chắc là cha mẹ tôi đã tỏ ra tin tưởng đến thế. Từ trước đến nay, ý nghĩ một người lớn dành nhiều thì giờ như thế cho những đứa tuổi choai choai vẫn không khiến cho họ hay bất cứ ai khác thấy khó hiểu, bởi lo lắng hoảng sợ là việc sau này, nhưng khi biết được ông ta đang tập cho chúng tôi ra biển để từ trên ghềnh đá nhảy xuống một đợt sóng nhồi dữ dội và tự đặt mình vào trong hoàn cảnh hiểm nghèo thì đó hẳn là chuyện hoàn toàn khác đối với họ. Có thể ông Sando đã thiếu trách nhiệm khi đưa chúng tôi vào một tình huống như vậy. Ở tuổi ấy, chúng tôi chưa phát triển đủ về mặt thể chất, quá nhỏ để xử lý an toàn những việc mình làm, và ông ta đã làm thế mà không có sự thoả thuận của cha mẹ tôi. Tôi tin chắc rằng trong thời đại sau này, ông ta có thể bị xem là người liều lĩnh, bất cẩn, thế nhưng xét vào thời ấy và theo những hành động được nhà trường hay chính quyền cho phép, những chuyến đi xa với ông Sando chẳng phải là chuyện lớn. Lẽ ra chúng tôi có thể ở lại nhà trường để học tập với tư cách học viên sĩ quan, học bắn đại bác và súng máy, cài các bãi mìn và đánh xáp lá cà như những đứa bạn chúng tôi, để chuẩn bị cho tuổi trưởng thành khi không ai tin vào một sự chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Ông Sando hấp dẫn đối với một lớp người đầu óc trẻ con và sự tình này khiến cho một số kẻ bị lợi dụng. Bà Eva đã nói đúng – chúng tôi chỉ là những đệ tử ngây thơ của ông Sando – nhưng trong những năm sáu mươi và bảy mươi – khi chúng tôi còn là trẻ con thì có rất nhiều những kiểu sùng bái để mình ngả theo, những sự sùng bái đầy rẫy.
Từ nơi đáy biển dựng đứng thẳng lên, bãi đất cạn của Old Smoky giống như một toà nhà bị lún, với những ô cửa mở toang, lúc nhúc nhiều loại cá. Trong cột nước dựng đứng bên trên, những đàn cá tráp không ngớt quần đảo thành những vòng tròn. Dưới sự theo dõi của ông Sando, chúng tôi vượt qua ông lặn sâu xuống dưới đáy để biết chắc chắn hơn về địa điểm này cùng các câu chuyện đã được nghe. Chúng tôi để chân trần lặn xuống và thoả thích len lách, bơi lượn. Nơi miệng các hang hầm có những con tôm lớn bằng con chó fox conế Xuống đến ba mươi bộ, tôi bám tay vào trong đá và nhìn lại ông Sando chỉ còn là một chấm đen ở trên mặt nước. Loonie cũng lặn xuống bên cạnh tôi và bám vào bờ đá.
Hai đứa chúng tôi treo mình ở đó một lúc thật lâu, thi gan với nhau, mỉm cười điên rồ, dựa vào cái ống thông hơi, trong khi nước biển róc rách, lạch cạch quanh mìnhể Những đàn cá chạy đến, ban đầu tò mò, rồi sau lo sợ vì thấy chúng tôi không có dấu hiệu di chuyển. Một lát sau, chúng lẩn vào trong vùng đốm sáng bên ngoài tầm nhìn của chúng tôi.
 
Những luồng hơi lạnh dữ dội đầu tiên đổ về khi mặt nước biển hãy còn hơi ấm. Trong suốt gần nửa tháng, chúng tôi chỉ nghiền ngẫm các bản đồ dự báo thời tiết, theo dõi một loạt các trận bão cận Nam cực, hy vọng sẽ có một trận lang thang đi về hướng bắc đến chỗ chúng tôi, hoặc hai trận bão sẽ hội tụ lại rồi cùng nhau kéo về phía chúng tôi tạo nên một thứ thời tiết cần thiết để làm cho Old Smoky dậy sóng. Ông Sando cho chúng tôi biết rằng cơn sóng đáy lớn nhất sẽ kéo đến trước khi có các trận bão, rằng sóng biển gần như chỉ là những dòng năng lượng sinh ra từ các tình huống bên kia chân trời. Tôi cô hình dung ra chúng, những xao động lan toả này, trong khi chúng lăn cuộn về phía chúng tôi giống như những người đưa tin cho một phiền phức mà chúng tôi chưa nhìn thấy được. Tôi và Loonie cùng thấy kích thích, bồn chồn, dù vẫn còn có một cái gì đó không có thực trong các thủ tục chuẩn bị, khi chính những cơn bão vẫn còn có vẻ hết sức trừu tượng.
Trong những tuần lễ trước ngày Phục Sinh, ông Sando có vẻ nghiêm nghị và trầm tư. Chúng tôi đạp xe đến chỗ của ông chỉ để ngồi trên bậc cấp hàng giờ trong khi ông thực hành bài tập yoga hàng ngày của ông, còn bà Eva thì trừng mắt nhìn chúng tôi từ nơi khuôn cửa để mở. Tôi và Loonie cố hết sức để không quấy rầy ông. Chúng tôi biết rằng ngày nào ông cũng lấy ống nhòm nhìn ra các lườn đất ngoài kia, ông đang trông ngóng chờ đợi trong lúc chúng tôi đi học, và chúng tôi nhìn thấy những tầm ván lướt dềnh dàng, chịu sóng lớn nằm chờ sẵn sàng bên dưới nhà ông. Chẳng có gì khác để làm ngoài việc chờ đợi.
Cha mẹ tôi hẳn đã không có một ý nghĩ gì về những điều mà tôi đang chuẩn bị làm. Tôi chỉ có thể nghĩ rằng họ đã chấp nhận những chuyện tôi kể về ông Sando. Ông này theo tôi nói, chỉ là một người thỉnh thoảng cho Loonie và tôi đi nhờ xe, thỉnh thoảng cho chúng tôi làm những việc lặt vặtể Không biết cha mẹ tôi có tin vào những câu chuyện ấy hay không, nhưng họ chẳng bao giờ hạch hỏi tôi về việc này. Họ không đa nghi như ông bố của Loonie.
 
Ông Sando đến đón chúng tôi trong lúc cánh tay Loonie hãy còn bó bột.
Đêm qua chúng tôi thức giấc vì tiếng sóng gầm nhưng hai đứa chúng tôi chẳng ai nói gì. Nếu ngày mai là ngày đi lướt sóng thì chỉ có một đứa trong chúng tôi có thể chèo ra với ông Sando. Sau khi thức giấc, chúng tôi đã nằm lặng im nhiều giờ, và khi nghe tiếng xe Volkswagen của ông Sando chạy rào rào trên con đường vào nhà thì chúng tôi nhanh chóng mặc quần áo và rón rén đi ra khỏi nhà. Nhưng đến khi đi hết khúc đường sình lầy, nơi chiếc xe đang lụp bụp nổ máy thì Loonie rẽ quặt vào một con đường tối.
- Nó làm sao vậy – Ông Sando la lớn và quay cánh cửa xe xuống.
Tôi nhún vai, nhưng tôi đã hiểu vì sao.
- Thế ra nó không muốn đi, dù chỉ để xem thôi sao?
- Không – Tôi nói – Nó không muốn đâuể
- Thôi, vào xe đi.
Chúng tôi chạy rà rà theo sau Loonie, cửa xe vẫn còn hạ xuống. Không khí lạnh buốt và chẳng thấy một người dân Sawyer nào ra đường cả.
- Này, Loonie, ông Sando nói trong khi chúng tôi chạy xe chầm chậm theo bên cạnh nó. Cậu không muốn đi ra ngồi xem bạn mình tập hay sao?
- Xem cái gì? Loonie nói. Để làm hỏng mất giờ phút bí mật độc đáo của ông à?
- Đừng có ba gai nữa. Lên xe đi, ra xem và học hỏi.
- Thôi đừng có lo. Tôi thích thế mà.
- Nhưng ít ra cậu cũng có thể bày tỏ sự ủng hộ đối với bạn mình chứ.
- Cái gì? Nó nhát như cáy ấy mà.
- Thôi nào, đừng có làm chuyện kỳ cục nữa.
- Đếch cần, ông xếp.
Ông Sando cất tiếng cười cay đắng, thất vọng, nhưng Loonie vẫn cứ lội đi. Tôi nghĩ là ông Sando sẽ kiên trì thêm chút nữa để dỗ dành nó, nhưng ông đã quay cánh cửa xe lên và phóng đi. Lúc đầu tôi thấy bực tức, nhưng sau vài giây, sự sỉ nhục đã lắng xuống. Loonie đã có lý. Nó biết tôi không đủ trình độ làm như thế. Thế nhưng tôi không thể tin được là nó lại nói ra điều ấy trước mặt ông Sando. Tôi ngoái cổ ra sau liếc nhìn mái tóc màu trắng
của nó, nhưng nó đã đi lẩn vào trong bóng tối. Có ba tấm ván chất trên thùng sau chiếc xe. Đó là những tấm ván Brewer, to lớn và đẹp mắt. Có vẻ như ông Sando đã mang theo một tấm để dành cho Loonie.
- Tôi nhát gan lắm, tôi nói.
- 0, ăn thua gì, ông Sando nói. Ai cũng nhát cả. Vì thế cho nên chúng ta mới làm cái trò quái quỷ này.
- Ông muốn nói là…?
- Phải, chúng ta đối diện với nó. Chúng ta nếm, chúng ta ăn, rồi chúng ta ỉa nó ra và hát bài thánh ca.
Ông ta phá lên cười. Tôi cũng cười vì thấy ông cười, nhằm che đậy cái sợ của mình.
Khi chúng tôi chạy qua khỏi Mũi đất thì trong vịnh đã dậy sóng, những ngọn sóng sủi bọt và phủ đầy hơi nước. Những con sóng vỗ bờ dâng cao tràn qua các tường chắn và tuôn vào cửa sông. Đại dương giống như một bãi chiến trường, tiếng lao xao không ngớt nghe rõ hơn cả tiếng xe chạy.

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/t104226-lan-ranh-sinh-tu-chuong-7.html


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận