Sau khi những người Da Đỏ đi khỏi, yên bình trở lại trên đồng cỏ. Một buổi sáng, khắp vùng trải một màu xanh.
“Cỏ mọc từ lúc nào nhỉ?” má sửng sốt hỏi. “Cứ tưởng khắp vùng đều đen kịt, ai ngờ bây giờ lại mọc đầy cỏ xanh xa tít.”
Bầu trời ngập đầy vịt hoang và ngỗng tròi đang bay về hưđng bắc. Quạ kêu quàng quạc trên những tàn cây dọc con rạch. Gió rì rào trong bụi cỏ, mang theo hương của đất và sự sống đâm chồi.
Vào những buổi sáng, bầy sơn ca líu lo bay vút lên trời cao. Suốt ngày, bầy chim mỏ nhát, chim choi choi, chim dẽ cát líu lo dưới bãi bồi quanh con rạch. Thường thì bầy chim nhại đến xế chiều mới cất tiếng líu lo.
Một buối tối, ba, Mary và Laura ngồi trên thềm cửa, ngắm nhìn những chú thỏ con nô đùa trong đám cỏ dưới ánh sao. Ba con thỏ mẹ cũng đang nhảy nhót chung quanh với đôi tai rũ, canh chừng đám thỏ con.
Ban ngày mọi người ai cũng bận rộn. Ba tất bật với cái cày, Mary và Laura giúp má gieo hạt đầu mùa. Má cuốc những lỗ nhỏ trên mớ rễ cỏ mà lưỡi cày đã lật xới lên, Laura và Mary cẩn thận gieo hạt. Rồi má lấp khít đất lên. Họ trồng hành tây, cà rốt, đậu bi, đậu đũa, và củ cải. Cả nhà đều hân hoan vì mùa xuân đã đến và chẳng bao lâu nữa họ sẽ có rau tươi để ăn. Giờ đây, ai cũng ngán ăn bánh mì và mớ thịt thà.
Một buổi chiều, ba trở về từ cánh đồng trước khi mặt trời lặn để giúp má trồng mớ cây giống cải bắp và khoai lang. Trước đó, má đã gieo hạt cải bắp trong một cái hộp dẹp để trong nhà. Má cẩn thận tưới nước, mỗi ngày đặt hộp cây giống bên cửa sổ cho hấp thụ nắng từ sáng đến chiều. Má cũng đã để dành được một củ khoai lang từ hôm Giáng Sinh và đã vùi nó vào trong một cái hộp khác. Hạt giống bắp cải giờ đây đã nảy thành những mầm cây nhỏ màu xanh xám, còn củ khoai lang cũng đã trổ đầy mầm, mọc lên những cây non có lá.
Ba má cẩn thận trồng rễ những cái cây bé xíu đó xuống lỗ đất họ đã cuốc. Ba má tưới nước và nén đất lên trên. Khi ba má trồng xong cây cuối cùng thì trời cũng đã tối và cả hai đã mệt nhoài. Nhưng ai cũng hớn hở vì nghĩ mùa vụ năm nay cả nhà sẽ có bắp cải và khoai lang.
Mỗi ngày, họ đều ngắm nghía khu vườn. Lớp đất còn cằn cỗi và cỏ còn mọc dày vì đầy là đất thảo nguyên, nhưng những cái cây bé xíu vẫn đang lớn dần. Những chiếc lá đậu bi nhỏ quăn queo trồi lên, những cọng hành bé xíu cũng đang lớn. Những hạt đậu nhú lên dưới mặt đất. Nhưng chính những cọng đậu vàng bé xíu, uốn cong như lò xo, đã đẩy những vỏ hạt đậu trồi lên. Rồi vỏ đậu tách ra, rũ xuống bên cạnh hai chiếc lá mầm đậu non bé xíu, những chiếc lá nằm thẳng, phơi thân dưới ánh nắng.
Chẳng bao lâu, cả nhà sẽ sống như vua.
Mỗi buổi sáng, ba vui vẻ huýt sáo ra ngoài đồng. Ba đã trồng một ít khoai tây đầu mùa và dành lại một số làm giống cho đợt sau. Giờ thì ba đang đeo một túi ngô dắt ngang thắt lưng, trong lúc cày bừa, ba gieo một vài hạt vào luống đất mới xới bên cạnh mũi cày. Lưỡi cày lật úp một luống đất ngay bên trên hạt ngô. Nhưng đám ngô phải cố gắng mọc vươn lên khỏi lớp rễ cỏ dày thì cả nhà mới có được một cánh đồng ngô.
Sẽ có ngô tươi cho bữa ăn tối. Mùa đông năm sau, sẽ có ngô chín cho Pet và Patty ăn.
Sáng hôm ấy, Mary và Laura vừa rửa bát đĩa vừa bàn bạc về khu vưòn, má dọn giường và hát khe khẽ. Laura thích đậu bi còn Mary thì thích đậu đũa hơn. Bỗng nhiên, họ nghe tiếng kêu lớn, đầy giận dữ của ba.
Má bình tĩnh ra ngoài cửa, còn Laura và Mary thì nhìn trộm từ hai bên thân hình má. Ba đang dẫn Pet và Patty về từ ngoài đồng, kéo theo lưỡi cày ở đằng sau. Ông Scott và chú Edwards đang đi cùng ba, ông Scott
Sốt sang nói.
“Không đâu anh Scott!” ba đáp lời. “Tôi sẽ không ở lại đây để quân lính đến bắt đi như kẻ phạm tội! Nếu đám chính trị gia thánh vật ở Washington không ban lệnh tôi có quyền định cư ở đây, thì tôi đã không bao giờ chọn ở sâu ba dặm vào lãnh thổ người Da Đỏ. Nhưng tôi sẽ không bao giờ để đám lính đến ép tôi đi. Chúng tôi đi bây giờ!”
“Chuyện gì thế Charles? Chúng ta sẽ đi đâu?” má hỏi.
“Thiệt tình, anh cũng không biết! Nhưng chúng ta sẽ đi. Chúng ta phải rời khỏi chỗ này!” ba nói “Scott và Edwards nói rằng chính phủ sẽ đưa quân đến để xua những người định cư ra khỏi lãnh thổ của người Da Đỏ.”
Mặt ba đỏ bừng, đôi mắt lóe tia lửa xanh. Laura hoảng sợ; cô bé chưa bao giờ nhìn thấy ba giận dữ như thế. Cô bé ép sát vào má, đứng im, nhìn ba.
Ông Scott bắt đầu nói tiếp nhưng ba ngăn lời ông. “Đừng tốn hơi nữa, Scott ạ. Nói thêm nữa cũng vô ích. Anh có thể ở lại cho đến khi đám lính đến nếu anh muốn. Còn tôi thì đi ngay bây giờ.”
Chú Edwards nói chú cũng sẽ ra đi. Chú không muốn ở lại để bị xua qua ranh giới như một con chó săn vàng bướng bỉnh.
“Hãy tới Independence cùng chúng tôi đi Edwards,” ba nói, nhưng chú Edwards không muốn đi về hướng bắc. Chú sẽ làm một con thuyền rồi xuôi theo dòng sông đến một nơi định cư nào đó theo hướng nam.
“Tốt hơn hết là hãy đi cùng chúng tôi,” ba cố thuyết phục chú, “Rồi theo đường bộ xuyên qua Missouri.
Một người trên một chiếc thuyền, một mình xuôi dòng Verdigris nằm giữa nhiều bộ lạc da đỏ man rợ thật là quá nguy hiểm.”
Nhưng chú Edwards nói chú biết rõ vùng Missouri, vả lại chú cũng còn nhiều thuốc súng và chì.
Rồi ba bảo ông Scott hãy lấy con bò cái và con bê đi. “Chúng tôi cũng không thể mang chúng theo,” ba nói. “Anh là một hàng xóm tốt, Scott ạ, và tôi rất tiếc phải chia tay với anh. Sáng mai chúng tôi sẽ đi.”
Laura nghe được cả câu chuyện nhưng cô bé không dám tin cho đến khi cô bé trông thấy ông Scott lùa con bò cái bước. Con bò hiền lành ngoan ngoãn đi theo sợi dây thừng quấn quanh cặp sừng dài, con bê thì nhảy nhót nô đùa ở đằng sau. Thế là không còn sữa và bơ.
Chú Edwards bảo chú sẽ bận rộn nên không còn dịp gặp lại họ nữa. Chú bắt tay ba rồi nói, “Tạm biệt, cả nhà Ingalls, chúc may mắn.” Chú bắt tay má rồi nói, “Chào chị. Dù tôi không gặp lại mọi người nữa nhưng chắc chắn tôi sẽ không bao giờ quên lòng tử tế của mọi người.”
Rồi chú quay sang Mary và Laura, chú bắt tay hai chị em như thể họ là ngưòi lớn.
“Tạm biệt,” chú nói.
Mary lễ phép nói, “Tạm biệt, chú Edwards.”
Nhưng Laura quên bẵng việc phải lễ phép. Cô bé kêu lên: “Ôi chú Edwards. Cháu ước gì chú đừng đi! Ôi chú Edwards, cám ơn chú, cám ơn chú đã lặn lội đến Independence để tìm ông già Noel cho chúng cháu.”
Đôi mắt chú Edwards ánh lên, chú bước đi không nói thêm một lời nào.
Ba bắt đầu tháo dây cột Pet và Patty ngay giữa buối sáng, lúc ấy Laura và Mary biết đó là sự thật: cả nhà sẽ phải đi khỏi nơi này. Má không nói một lời nào. Má vào nhà, nhìn quanh, nhìn bát đĩa chưa rửa, giường chỉ mới dọn được phân nửa, má đưa hai tay lên trời rồi ngồi xuống.
Mary và Laura tiếp tục rửa bát đĩa. Hai đứa cẩn thận không dám gây nên một tiếng động nào. Họ quay lại thật nhanh nhìn ba khi ba bước vào nhà.
Ba đã bình tĩnh lại, ba đang đeo túi khoai tây.
“Đây này Caroline!” ba nói, giọng thản nhiên. “Hãy nấu một bữa ăn chiều thật xôm tụ! Lâu rồi chúng ta không ăn khoai tây vì để dành gieo giống. Giờ thì chúng ta hãy ăn thả dàn!”
Bữa chiều hôm ấy, cả nhà ăn mớ khoai tâ y giống. Món ăn thật ngon và Laura đã hiểu ba rất đúng khi nói “không có mất mát lớn lao nào mà không đem lại một bù đắp nho nhỏ.”
Sau bữa ăn chiều, ba dỡ dàn mui xe khỏi cột móc trong chuồng ngựa. Ba cắm khung lên cỗ xe, một đầu cọng khung mui vào thùng xe, đầu kia cắm vào chấu sắt phía bên kia xe. Khi cả dàn khung mui đã dựng đúng vị trí, ba má phủ tấm mui bạt lên trên rồi buộc thật chặt. Khi ba kéo đầu dây thì tấm bạt rút sát lại chỉ còn hở một lỗ tròn nhỏ xíu ở đằng sau.
Cỗ xe đã phủ kín, sẵn sàng để chất đồ đạc vào sáng hôm sau.
Đêm đó, mọi người đều lặng lẽ. Ngay cả Jack cũng cảm giác điều bất thường, nó nằm sát bên cạnh Laura khi cô bé vào giường ngủ.
Lúc này thời tiết ấm áp nên không cần đốt lửa, nhưng ba má vẫn ngồi nhìn tàn tro trong lò sưởi.
Má khẽ thở dài rồi nói, “Một năm tròn đã qua đi Charles ạ.” Nhưng ba vui vẻ đáp lời: “Một năm mà đáng chi? Chúng ta còn biết bao nhiêu thời gian.”
Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc !