*
Đôi khi, chỉ là đôi khi, tôi không hiểu thật rõ bản thân đang mong muốn điều gì. Có lúc tôi muốn có ai đó đứng về phía tôi khi chúng tôi tranh nhau xếp hàng trong giờ ăn trưa, ai đó mở sẵn nắp chai nước cho tôi sau khi tôi hoàn tất bài thi chạy đường dài, một người cùng tôi trốn giờ tự học buổi chiều và cùng tôi ra vườn bắt những con bọ cánh cam. Lại cũng có lúc tôi chẳng muốn có thêm bất kì ai đến trong đời, những lúc như vậy tôi đâm ra ghét con người, tôi tự nhủ mình có thể sống rất tốt mà chẳng cần đến một ai. Thi thoảng khi tôi ngắm bầu trời, những đụn mây đang trôi dần về phía tây dường như đung đưa một lúc thật lâu rồi chậm lại. Mọi thứ trong mắt tôi trở nên xanh trong hơn và có phần uể oải. Mùa hè mà, Tang nói, cô nhìn tôi rồi cùng tôi trông ra khoảng không bao la bên ngoài cửa sổ, nơi mặt đất dày đặc và hiển hiện rõ ràng hơn so với màu rêu non mọc tít tận chân trời. Tang là người bạn duy nhất của tôi trong trường, hai chúng tôi vô tình quen nhau nhân một chuyến dã ngoại thường niên. Chúng tôi ngồi cạnh nhau trên xe, cùng ăn bánh mì ngọt rồi cô hỏi, có muốn nghe nhạc không, tôi trả lời là có. Tôi quen Tang như thế, trên xe, mùa hè trải dài bên ngoài đặc quánh chảy xuống mắt mũi chúng tôi, âm nhạc của Paddy Sun và mùi thơm của bánh Scooter hết hạn. Tang thích nghe nhạc hơn đọc sách, cô hoàn toàn ngược lại với tôi. Thực ra tôi cũng thích nghe nhạc, nhưng việc có được một cái máy nghe nhạc xịn xịn là chuyện hết sức bất khả thi. Tôi không biết làm thế nào Tang có được cái máy màu hồng xinh xinh ấy, có lần cô bảo tôi cô nhặt được nó ngoài cổng trường, và khi tôi nói tôi không tin, cô bĩu môi bỏ đi một nước. Lúc khác khi chúng tôi đang nằm dài trong phòng cô, nghe Paddy Sun, tự nhiên cô nói, cái máy này là của bố mẹ mua cho mình khi họ đưa mình vào đây, và tôi bảo, đấy, nghe thật hơn rõ ràng. Tang chỉ mỉm cười. Vào mùa hè, khoảng thời gian tôi thích nhất là nằm lười nhác trên chiếc giường nhỏ trong phòng Tang, uống nước quả mua từ nhà ăn của trường và lắng nghe những bản tình ca, hay những bản đàn của Paddy, tay guitar cô yêu thích nhất. Tang may mắn là một người biết nghe nhạc và có khiếu kể chuyện rất hài. Đám học sinh lớp Lớn lúc rảnh rỗi đứa nào đứa nấy chẳng có việc gì làm đều vây quanh Tang, nghe cô kể những câu chuyện cô nghe được đâu đó hồi còn nhỏ, những câu chuyện lạ kì về thế giới bên ngoài, về những món cô đã từng ăn, những con ma trốn đâu đó dưới gầm giường của mỗi người và bò ra ngoài vào ban đêm chỉ để chạm vào đầu ngón tay hay gót chân chúng ta rồi bò lui trở lại. Tôi xa Tang dần. Lên lớp Vừa, tôi trở về thời kì ban đầu, không có bạn. Cho đến khi, vào một ngày thứ Sáu mưa to, Chal chuyển đến trường tôi.
Chal cao lớn, có mái tóc màu vàng rực và đôi mắt xanh lơ, chiếc áo sơ mi màu trắng ướt rượt, từ đầu đến chân cậu nồng mùi tanh của mưa và mùi gây của đất. Thầy giáo Lịch sử của chúng tôi, thầy Pan, liền mau chóng đứng sang một bên để thầy hiệu trưởng dẫn cậu vào.
“em tự giới thiệu đi” – thầy hiệu trưởng nói, nở một nụ cười về phía Chal và chúng tôi cùng một lúc, một kĩ nghệ mà theo tôi là rất khó và hình như chỉ có thầy làm được. Đám học sinh vừa nãy hãy còn ồn ào náo nhiệt giờ im lặng như tờ, tưởng chừng như tiếng vo ve của những con ruồi mắt lồi cũng ngừng bặt lại, tiếng tim đập và tiếng máu chảy trong huyết quản rần rật như tiếng gió tạt qua chúng tôi. Mấy mươi con mắt dồn cả về phía cậu. Chal đứng đó, quan sát chúng tôi một hồi rồi cậu nói, làm chúng tôi hết sức bất ngờ.
“tớ là Chal, tên đầy đủ là Chalcedony, các cậu có thể gọi Chal cho tiện. Tớ mười lăm tuổi và tớ thích nhất là môn Mĩ thuật” – chẳng ai nói gì cả, chúng tôi chờ Chal nói tiếp, nhưng cậu đã mau chóng nhận ra chẳng có đứa nào trong chúng tôi để ý tới một tí ti những gì cậu nói. Chúng tôi chỉ muốn tỏ ra thật là thành khẩn và trang nghiêm, những mong khoảng thời gian thảnh thơi không bị làm ồn này sẽ kéo dài mãi mãi.
“tiếc là tuần này giáo viên Mĩ thuật của chúng ta bị ốm, nhưng cô ấy rất dễ mến, thầy đảm bảo với em là vậy. Thế, Chal, em ngồi cái bàn trống kia nhé” – thầy hiệu trưởng chỉ về cái bàn trống bên cạnh tôi, tôi là cái bàn cuối cùng của dãy trong cùng ngay gần cửa sổ. Tôi thích ngủ trên giường, nhưng ở đây mát mẻ và thoáng đãng hơn.
Tiết học Lịch sử không bao giờ trở về như trước nữa. Ngay sau khi thầy hiệu trưởng bước ra ngoài và cánh cửa được khép lại, đám học sinh nãy giờ gần như nín thở đồng loạt thở hắt ra, thứ âm thanh của sự nhẹ nhõm và tiếc nuối tạo nên một màn sương mờ dày đặc phủ kín khuôn mặt của chính chúng. Rồi, tựa như một tiếng chuông báo hiệu nhỏ xíu rung lên, từng đứa một tò mò lại gần Chal. Jen, lớp trưởng của chúng tôi đứng ra đại diện chào hỏi học sinh mới và bằng cái sự ý nhị hết sức của mình, Jen thì thầm hỏi cái câu mà tất cả chúng tôi đều phải trả lời khi bước vào đây, khi đến ngôi trường này, khi chúng tôi hãy còn nhỏ hơn bây giờ và mọi thứ xung quanh đều có vẻ gì thật là hiểm ác.
“sao cậu phải vào đây, Chal?” – Jen chống hai tay cô lên bàn, chân phải vắt lên chân trái, đôi mắt to màu hạt dẻ của cô rọi thẳng vào Chal. Và mọi cặp mắt, nếu cánh tay và làn da của Chal là một tấm gương sáng bóng, ắt hẳn trên đó sẽ lấp lánh đủ thứ sắc màu.
“tớ cũng không biết” – Chal trả lời.
Tôi cũng không biết, tôi tự nói với chính mình. Tôi đồ rằng một nửa học sinh lớp này, thậm chí một phần ba trường đều không biết vì sao chúng phải vào đây, bị tước đi một vài đặc quyền đặc lợi của một kẻ bình thường, một học sinh bình thường. Lần đầu tiên khi nghe mẹ tôi nhắc đến trường trung học nội trú Đại Dương, tôi không tỏ ra ngạc nhiên lắm, thậm chí cũng chẳng thèm hỏi lại khi mẹ tôi nói, tôi sẽ chuyển vào đó học sau khi tốt nghiệp cấp hai. Ý tôi là, nghe qua thì nó cũng giống như một ngôi trường bình thường như hàng ngàn hàng vạn cái trường khác thôi. Nhưng dĩ nhiên, không phải thế. Tôi vẫn nhớ như in cái buổi lễ khai giảng đó như thể chỉ vừa mới diễn ra ngày hôm qua. Hội trường khá lớn, đầy nhung nhúc các học sinh, mà tôi nghĩ là học sinh, mặc trên người đủ thứ lạ lùng, không có ai trong chúng tôi mặc cái gì như sơ mi và quần âu hay đeo huy hiệu trường trên ve áo, những mái đầu nhiều màu, những màu da khác nhau, nhiều giọng nói đến mức chúng hòa lẫn vào nhau tạo ra một mớ âm thanh, một loại ngôn ngữ mới lạ lùng và kì dị. Tôi nép sát vào mẹ, đôi bàn tay mẹ nắm chặt lấy tay tôi. Cái không khí trong suốt của buổi tối ngày hôm đó, tôi không thể nào quên. Giống như là bạn nằm thẳng nhìn lên trần nhà sau khi vừa khóc xong, khóc một trận đã đời và bạn có thể cảm nhận được mi mắt bạn đang sưng húp và bạn mệt mỏi đến mức chẳng cảm thấy gì ngoài buồn ngủ. Nó là một cảm giác như thế, trống rỗng, hiện diện mồn một nhưng vô hình.
Phòng của Chal nằm trên tầng hai, khu dành riêng cho khối Vừa. Phòng của cậu đối diện phòng của tôi. Hai chúng tôi quen nhau theo cái cách ngẫu nhiên và cũ rích nhất trần đời. Vào buổi sáng, tầm năm giờ ba mươi hơn kém mười phút, Chal gõ cửa phòng tôi. Cậu ôm một cái chậu, trên thành chậu vắt một cái khăn màu đỏ tía khô cong queo và nếu không nhầm, trong cái chậu còn có bàn chải đánh răng màu xanh ngọc và tuýp kem đánh răng hiệu Darlie.
“nhà vệ sinh ở đâu nhỉ?” – Chal mỉm cười cầu thân với tôi, đôi mắt xanh lơ không giấu được những tia nhìn kì khôi và vui tươi, như cái cách mà bạn sẽ nhìn khi bạn năm tuổi vào mọi sự.
“cuối hành lang ấy” – tôi đáp, mắt nhắm mắt mở. Tôi không quá khó chịu khi bị ai dựng dậy vào buổi sáng, rất sớm thế này, chỉ để trả lời một câu mà theo tôi đánh giá là ngu hết sức, nhưng không, dĩ nhiên, tôi không lấy thế làm bực mình.
“cảm ơn nhé, tớ sẽ đãi cậu nước cam” – Chal mau lẹ xốc lại cái chậu rồi tiến về phía trước. Đáng lẽ tôi phải nói với cậu là nhà vệ sinh ở đây sạch sẽ và tinh tươm như khách sạn, cậu có thể ngủ ở đó nếu cậu muốn và thực ra đã từng có một lần tôi ăn trưa trong đó rồi. Nhà vệ sinh lát gạch trắng phau và có mùi oải hương, vào khoảng sáu giờ sẽ có một nhân viên vào đó dọn dẹp và loa trên trần sẽ phát đi phát lại một bản giao hưởng quen thuộc đến phát nhàm của Chopin.
Chal mua cho tôi một chai nước cam ép, sandwich trứng và một quả táo xanh. Cậu ngồi với tôi hết giờ chào cờ buổi sáng rồi tôi dụ cậu nghỉ luôn tiết Tin học chán òm. Thầy giáo Tin học là một ông già lẩm cẩm chỉ thích cho bọn học sinh ngồi đánh máy một đống thơ do ông tự viết, dễ phải đến gần một nghìn bài thơ. Có đôi lúc chúng tôi bày trò sửa một vài chữ trong bài thơ của ông và vào hôm sau ông sẽ ngồi khóc một mình, trong phòng giáo viên của trường, uống trà trong bình ủ nhiệt và khi có ai đó hỏi, ông sẽ khóc rống lên rồi giận dỗi bỏ về nhà. Nhưng sau này chúng tôi không làm thế nữa. Lí do vì sao không ai biết, chỉ là đến một hôm thầy giáo Tin học quyết định xuất bản tập thơ của ông và ông bảo thật là quý hóa quá, những đứa học trò. Từ đó về sau, thi thoảng chúng tôi còn chép lại một vài câu thơ hay hay vào quyển vở của mình. Sáng hôm đó, tôi và Chal trốn học, hai đứa ngồi trong sân trường, xong tôi hỏi cậu có thích đi bắt một vài con cánh cam không.
“có chứ” – Chal nói – “thích nhất luôn” – thế là tôi bảo tôi biết chỗ này có nhiều cánh cam lắm, nhiều kinh khủng khiếp tới nỗi chỉ cần vạch một cái lá ra là thấy cả nhà bọn cánh cam quây quần trong đó. Chúng tôi hì hụi túm từng con cánh cam một bỏ vào chai nước cam ép của tôi, tôi phải đổ bớt đi vì không uống hết, ánh nắng gay gắt rọi thẳng xuống gáy chúng tôi, đứa nào đứa nấy mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Kết quả là chúng tôi bùng luôn năm tiết học của buổi sáng ngày hôm đó và chỉ vội giấu cái chai đựng cánh cam xuống gầm giường trước khi loa phát thanh gọi tên hai đứa chúng tôi mấy chục lần, bị đánh bật đi giữa các bức tường như những cục banh bằng giấy.
Tôi và Chal thành bạn từ đó. Tôi cũng không rõ cái có giữa chúng tôi có tính là tình bạn hay không. Nếu làm bạn có nghĩa là chào nhau trên hành lang và đi vệ sinh nếu gặp nhau thì chạm vào vai nhau một cái, giờ ăn trưa nếu tìm thấy được nhau thì sẽ ăn cùng nhau và nghỉ luôn vài tiết học buổi chiều, hoặc vào ngày nghỉ, một trong hai sẽ sang phòng đứa còn lại, đánh một giấc thật say và dù có tỉnh dậy thì cũng giả vờ nằm ngủ chờ đứa kia làm xong việc của mình rồi mới nhẹ nhàng ngáp dài và vươn vai, hỏi cái đứa đang thức đó có muốn đi ăn tối hay không. Nếu thế là bạn, thì Chal là người bạn duy nhất của tôi. Không giống tôi và khá giống Tang, Chal là loại người dễ làm thân và hòa đồng. Cậu mau chóng được mọi người yêu quý nhờ tài chơi thể thao cừ khôi, luôn sẵn sàng làm trò hề để mua vui cho người khác, hào phóng và thích giúp đỡ mọi người. Cũng có lúc tôi thấy Chal xa tôi dần, giống như Tang hồi ấy, bây giờ cô vẫn vẫy chào tôi khi chúng tôi gặp nhau trên hành lang, nhưng tôi không còn đến phòng của cô để nghe nhạc, cô cũng không còn đến ngồi cùng với tôi trong giờ ăn trưa để nói với tôi về những chủ đề cô yêu thích. Cô có mái tóc màu nâu sẫm, và khi cô ngồi đó, hòa lẫn vào đám đông, tôi không còn nhớ gì về cô nữa. Ý tôi là, cô gái mà tôi đã từng biết trông cũng hệt như cô, nhưng cô trước mắt tôi lúc này đã quá khác xa so với cô ấy, cô gái trong quá khứ mà tôi biết sẽ chẳng bao giờ lấy lại được. Tôi đã từng nghĩ về Chal như thế, khi tôi đi ngang qua sân bóng và dừng lại một hồi lâu để xem cậu chuyền bóng cho đồng đội, xem cậu reo hò và cậu hét lên khi một ai đó sút hỏng quả phạt đền, cậu ôm họ và cậu vò đầu họ và cậu nói ok, không sao hết, tớ sẽ mua cho bạn một chai nước cam. Và tôi, tôi sẽ quay đi, trở về với thế giới nhỏ bé của tôi, bé xíu tới mức và cũng rộng rãi tới mức chỉ bằng cái khe hẹp trên giá sách, một con lạch hay một bụi cây. Rồi đột nhiên, vào cái lúc tôi không mong đợi nhất và không ngờ tới nhất, Chal tiến về phía tôi từ đằng xa, trên tay cậu là khay đồ ăn bằng nhôm sáng lấp lánh, cậu sẽ ngồi xuống trước mặt tôi, chuyển sang khay của tôi hành tây và củ cải trắng, tôi sẽ cho cậu trứng và thịt xông khói để cảm ơn, tôi sẽ mua cho cậu một lon cà phê không lạnh, còn cậu sẽ để lại cho tôi một quả táo xanh. Và rồi ngày hôm sau, cậu sẽ lại nô đùa với người khác, cậu sẽ chạy như một kẻ điên trên sân bóng ngay cả dưới trời mưa, và cái cảm giác xa dần ấy lại ậng lên ngự trị trong lòng. Nếu thế không phải là bạn, thì tôi cũng chẳng biết thế nào là bạn nữa.
Trong trường, nơi tôi thích đến nhất là thư viện và khu vườn. Cả hai nơi đều vô cùng yên tĩnh và có thể dễ dàng tìm thấy những điều tôi đang kiếm. Dù có khó khăn đến đâu, những thắc mắc của chúng ta đều nằm trong sách cả. Trong thư viện, chỉ cần với tay ra là tôi có thể dễ dàng chạm vào một thế giới khác, bước vào đó, không khí tôi hít thở xung quanh cũng trở thành không khí trong truyện, những người tôi gặp ngày hôm đó cũng đều mang một dáng dấp lạ kì. Một khuôn mặt hao hao, một giọng nói bất chợt vang lên trong đêm tối, một loài hoa không biết mặt. Những lúc chẳng có việc gì làm, tôi thường trốn vào một trong hai nơi này. Ở đó, tôi thấy bình tâm và cảm giác lo sợ thiếu an toàn sẽ biến mất, chúng sẽ rời khỏi tôi cũng nhanh như khi chúng đến vậy. Khi tôi trốn ở đây, không một ai có thể tìm thấy tôi. Tang hồi trước luôn than phiền cô không thể gặp được tôi khi cần thiết và bây giờ Chal cũng thế. Tôi đã nghĩ, thật mỉa mai làm sao. Bởi với tôi, tôi luôn có thể tìm được họ khi tôi cần. Vào buổi chiều tôi có thể tìm thấy Tang trong phòng của cô ấy, đang vẽ vời hoặc đang đọc tạp chí, luôn luôn đeo tai nghe và để âm thanh ở mức mười. Với Chal, cậu dành phần lớn thời gian ở sân bóng, những lúc còn lại cậu đi dạo xung quanh trường hoặc đi bơi. Tôi luôn biết rõ họ ở đâu, trong khi đó họ chỉ cần rời mắt khỏi tôi dù chỉ một chút thôi là tôi sẽ hoàn toàn tan biến. Như thể bị mùa hè thiêu đốt thành hư vô.
Ngày Chủ nhật cuối cùng của tháng là ngày thăm nom gia đình. Bố hoặc mẹ sẽ đến thăm và mua cho tôi những thứ tôi cần trong danh sách tôi gửi về lần trước. Mẹ mang cho tôi vài cuốn sách mới, ba cái áo sơ mi màu tím than, một chục áo phông in hình Pikachu và 50 cent, quần lót và quần bò, quần đùi và bít tất. Tất cả được nhét trong một cái túi vải bố khổng lồ, ngoài ra còn có dầu gội đầu và sữa tắm, một bộ khăn mặt mới và nước súc miệng vị bạc hà.
“con gầy đi hả?” – mẹ nắm tay tôi bằng cả hai bàn tay mẹ – “mẹ thấy con gầy đi. Trông mặt con kìa, hai cái má hóp hết lại”.
“con vẫn thế đấy mà, đang dậy thì thôi” – tôi cố gắng trấn an mẹ, cái nhìn chăm chăm của mẹ làm tôi sợ hãi.
“con phải ăn nhiều vào nhé” – mẹ nói – “khi nào con khỏe hơn, mẹ sẽ đưa con về nhà”.
“vâng, con sẽ chóng khỏe lại thôi”.
Cuộc đối thoại giữa chúng tôi lúc nào cũng diễn ra như thế, hệt thế, không khác một chút nào. Mẹ hỏi thăm tình hình học tập của tôi, mẹ bảo nếu được phép mẹ muốn lên dọn phòng cho tôi, là sẵn quần áo cho tôi vào buổi sáng và chuẩn bị thức ăn cho tôi vào buổi chiều. Nhưng mẹ đã đưa tôi vào đây, không ai khác ngoài mẹ. Tôi không thể than vãn được gì, đáng lẽ mẹ cũng vậy. Nhưng tôi không nói gì, chỉ chăm chú lắng nghe những lời mẹ nói và gật đầu để khiến mẹ vui lòng. Bằng nửa con mắt bên trái, tôi có thể nhìn thấy Chal. Cậu ấy đang nói chuyện với cả bố mẹ mình. Gia đình này thi thoảng lại cười váng lên làm vài người quay lại nhìn họ, cái nhìn trách móc và ngạc nhiên. Họ cười gì vậy, họ cười vì điều gì hài hước hay họ cười chúng ta? Không ai biết được, và họ cứ nghĩ rằng nếu họ ném về ai đó cái nhìn bực tức và kẻ cả như thế, người ta khắc sẽ nói cho họ mọi điều. Tiếng cười của Chal giống hệt bố cậu, và đôi mắt của cậu là sự kế thừa hoàn hảo từ người mẹ đẹp đẽ của mình. Cũng giống tôi, Chal nhận được một cái túi đại tướng, khi về đến phòng, cậu dỡ hết đồ ra và bảo, bố mẹ mình nhồi toàn bông vào trong này rồi nhét bia xuống dưới đấy. Bia á, tôi há hốc mồm, ừ, bia chứ còn gì nữa, uống cà phê mãi mặt mình mọc mụn lên hết rồi, Chal chỉ vào mặt cậu rồi xếp đống bia thành một chồng hình tháp. Tôi đã từng uống bia trước đây, vào lần sinh nhật mười hai tuổi của mình. Lần đó bố mẹ tôi tổ chức một bữa tiệc ra trò. Trong bữa tiệc, một người lớn cho tôi xem cái cốc của anh ta và bảo tôi đó là thứ thức uống ngon nhất thế giới. Nhưng đối với một đứa bé là tôi khi đó, bia chỉ là một cái gì có màu giống nước tiểu đang lên bọt, đắng và khiến người ta uống xong lại càng khát nước thêm. Trong kí ức của tôi, bia chẳng lưu lại được gì ngoài cảm giác đáng ghét và đắng ngét trên môi. Nhưng bây giờ, khi tôi uống lại nó một lần nữa khi tôi mười lăm tuổi, bia không còn giống những gì tôi nhớ nữa. Bỗng chốc, thứ chất lỏng màu vàng tươi sánh lại trong thành cốc, bọt vẩn lên và khi trôi từ từ xuống họng, một cảm giác lâng lâng lan tỏa trong lồng ngực tôi, cả người tôi ngây ra và thế giới gồm rất nhiều ngôn từ bỗng trở thành một mớ hỗn loạn điên khùng và rồ dại.
“hết sảy chưa?” – Chal chăm chú nhìn tôi, cười hềnh hệch. Tôi chẳng nói được gì, chỉ có thể gật đầu với cậu đầy thiện chí. Đôi mắt tôi lơ đãng nhìn ra bên ngoài. Bóng tối đã bao phủ mọi thứ tự lúc nào, kéo dài từ phía sân bóng chạy qua hành lang, qua khối nước lạnh trong bể bơi phảng phất mùi clo và hơi người, qua nhà ăn và căng tin bán đồ ăn vặt, bóng tối kéo cái thân dài ngoằng của nó qua cả phòng hiệu trưởng và nóc tòa nhà dành cho giáo viên, trườn qua một cánh cổng to dày rồi rơi tõm vào trong sân của chúng tôi, khu kí túc xá. Và rồi trong một chốc không ngờ, khi tất cả chúng tôi nhắm mắt lại, bóng tối lẳng lặng bò cả vào những giấc mơ.
Tôi bắt đầu hiểu chuyện khi tôi vào học ở trường trung học nội trú Đại Dương được một năm. Tôi biết được rằng nơi tôi đang theo học là một cái nhà giam những kẻ không bình thường. Ý tôi là, những kẻ như tôi, như Tang, như Chal hay như cả Jen, lớp trưởng của chúng tôi nữa, tất thảy chúng tôi đều là những đứa trẻ mang trong mình mầm mống của sự bất bình thường. Tôi nghe được chuyện này từ một chị gái học lớp Lớn. Tên chị là Sam, chị hơn tôi một tuổi, chị có mái tóc màu đen và đôi mắt cũng màu đen, chị nói giọng lơ lớ mang âm nặng, những chữ cái nguyên âm trong câu nói của chị dính chặt vào nhau. Đó là một buổi chiều mùa hè ẩm ướt, tôi nằm dài trong phòng, nghĩ về Chal, lúc này hẳn cậu đang bơi lội tung tăng trong bể bơi của trường, suy nghĩ về những con cá cảnh mà cậu định sẽ nuôi sau khi ra trường, về những lon bia và buổi tối của hai đứa chúng tôi. Chal nói, tối hôm qua, khi tôi hỏi cậu liệu bố mẹ cậu sẽ tiếp tục cung cấp bia cho chúng tôi đến khi nào.
“hay đổi không?” – Chal bóp một lon bia rồi đá nó vào gầm giường. Tí nữa sau khi cậu đã say mềm và nằm vật xuống sàn mà ngủ, tôi sẽ phải chui vào trong kia, đối mặt với con quái không đầu trong những câu chuyện của Tang để moi ra những lon bia bị móp rỗng. Bởi vào ngày thứ Bảy hàng tuần, sẽ có một người tới từng tầng để dọn vệ sinh, thực ra là để kiểm tra các phòng xem có học sinh nào chơi bài hay hút thuốc lá không. Chắc là họ sẽ ngạc nhiên và thích thú lắm khi tìm ra cả một mớ vỏ lon thế này, tôi nghĩ thầm, trong lúc nhìn theo tia sáng ánh lên của lon bia vừa bị Chal vứt vào, vừa nghĩ xem lát nữa mình sẽ phải lôi nó ra khỏi đó làm sao.
“đổi thành cái gì?” – tôi hỏi, và Chal nói, nở một nụ cười bí ẩn mà đôi lúc cậu vẫn hay lấy ra để dụ dỗ tôi cùng cậu đi làm một chuyện gì thú vị và phạm pháp.
“rượu. Uống bao giờ chưa?” – Chal mở thêm một lon bia mới, rồi cậu cứ mặc nó đấy rồi tiến lại gần tôi – “rượu hay lắm, hơn hẳn cái này” – cậu lắc lắc lon bia. Và thế là tôi gật đầu, ừ, đổi.
Buổi chiều hôm đó, vì nằm mãi cũng chán mà dù tôi có cố đến mấy cũng chẳng tài nào ngủ được, tôi quyết định ngồi dậy và đi lên thư viện. Tôi mang theo một cuốn sách thuộc thể loại trinh thám, thay cái áo phông bằng một cái sơ mi sạch và xỏ giầy. Tôi đi bộ xuống tầng một, băng qua khoảng sân rộng, đi qua cánh cổng và tiến về phía bể bơi. Tôi nhìn thấy Chal qua cửa kính, cậu đang nằm trên bờ, thi thoảng cậu khẽ quạt tay xuống nước, sau đó, bất chợt và mơ hồ như bị một ánh nắng chói gắt xuyên vào giác mạc, cậu đưa bàn tay trái đang im lìm trên bụng chạy về phía trong, xuôi xuống bên dưới và như thể mới chạm vào một nơi ấm áp, cậu ngửa đầu ra sau và nhắm nghiền mắt lại. Tôi quay đi, tiếp tục chuyến chu du của mình. Trên đường tới thư viện, tôi bắt gặp Sam. Chị úp mặt vào hai lòng bàn tay, vai chị rung lên từng đợt, hai bờ vai trắng ngần lộ ra dưới ánh sáng mặt trời rực rỡ. Chẳng vì điều gì mà dù có tôi cũng không thể gọi tên, tôi đi về phía chị. Khi tôi đến nơi, đúng lúc đó chị ngừng khóc và ngẩng đầu lên, hai chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau và bỗng dưng, chị khẽ mỉm cười.
“chào em” – Sam nói – “tại nóng quá đấy mà” – chị phẩy phẩy tay làm bộ đang tạo gió, tôi cười đáp lại chị, không thể nói động tác đó của chị nhìn mới giả tạo và tội nghiệp làm sao.
“năm nay nắng nóng kỉ lục mà chị” – tôi nói, rồi như vừa nhớ ra, tôi nói thêm – “em đang định lên thư viện, chị muốn đi không? Trên đấy mát hơn dưới này”.
“thật không?” – Sam đứng dậy, vươn vai một cái rồi hai chúng tôi chậm rãi bước đi.
Sam chọn một cuốn sách dạy làm bánh, nhưng tôi biết chị sẽ không đọc được một chữ nào. Bởi kể từ lúc lên đây, mặc dù chị luôn cố tình đi phía sau tôi và dù chị luôn nén giọng mình lại, tôi vẫn có thể dễ dàng nghe thấy tiếng chị khóc ngay phía sau lưng mình. Tôi chọn một bàn gần cửa sổ, từ cửa sổ nhìn xuống có thể thấy được một góc của bể bơi. Tôi nheo mắt lại hòng hi vọng nó sẽ giúp đôi mắt tôi làm việc tốt hơn, biết đâu tôi lại có thể vô tình túm được khuôn mặt đang thỏa mãn của Chal, hay những lọn tóc sũng nước của cậu ấy, cánh tay cậu ấy, mảnh mai và cả những móng tay trắng sạch. Đúng lúc đó, tôi nhận ra Sam đã ngừng khóc và chị đễnh đãng nhìn tôi, rồi lại nhìn ra bên ngoài, ngước mắt lên trời rồi cụp xuống trong chốc lát. Chị há miệng định nói điều gì rồi lại thôi, và một lát sau chị khẽ lay nhẹ cánh tay tôi, và tôi gấp cuốn sách của mình lại.
“thực ra là tại chị rất buồn” – Sam nói, trúc trắc một chút rồi chị nói tiếp – “chị thấy, thật khủng khiếp”.
“chị có thể nói với em” – tôi ôm lấy bàn tay Sam, đôi tay chị mềm mại và bé tí hon như đôi tay em bé.
“chị đã ở đây ba năm” – Sam thở một hơi thật dài, như thể chị muốn rút cái gì đó ra, cũng như lại muốn lấy nó vào – “mẹ chị hồi đó đã nói, vào đây chị sẽ được chữa lành. Hồi chị còn bé, chắc kém em phải hai, ba tuổi gì đó, hay còn nhỏ hơn, chị đã luôn là một đứa trẻ mau nước mắt. Chị khóc nhiều tới nỗi vào lúc đó, kí ức của chị luôn gắn với cảm giác bị nghẹt thở. Em hiểu không?” – Sam ấn những móng tay của chị vào lòng bàn tay tôi. Tôi gật đầu.
“khi chị học cấp hai, chị có một người bạn trai. Chị yêu anh ta nhiều đến nỗi, khi anh ta đòi chia tay chị, chị đã dùng hết sức lực bấu chặt lấy anh ta, thế này này” – Sam đè những móng tay xuống sâu hơn. Kì lạ là tôi không thấy đau hay nhói buốt, tôi chỉ muốn được khóc thật to. Mùa hè phả khí nóng xuyên qua cửa kính đổ ập lên mình tôi, đột nhiên tôi thấy mệt mỏi và toàn thân tôi tan nát, tôi những muốn buông tay Sam ra và chạy thẳng về phòng, vùi lên giường và chết chìm giữa một đống gối chăn. Thế nhưng tôi vẫn ngồi nguyên ở đó, cảm nhận rõ ràng mồ hôi đang chảy thành giọt dọc xuống sống lưng tôi.
“chị đến nhà anh ta, chị gặp mẹ anh ta và chị quỳ trước mặt bà, như khi người ta hành lễ thờ chúa, thờ thần, chị đã quỳ như vậy, chị gọi bà ta là mẹ, chị cầu khẩn bà cho phép chị lấy con trai của bà. Và rồi bà ta nói, bà ta nói gì đó mà chị không tài nào nhớ được, nhưng những điều kinh khủng thì sẽ vẫn vô cùng kinh khủng, dù nó có thế nào và dù nó có bị nỗi sợ hãi lấn át làm quên đi” – Sam ngừng một lát, chị khóc như một trận mưa, âm ỉ và kéo dài – “sau đó chị nhận ra mọi thứ xung quanh chị bị bao phủ bởi những mảng màu trắng đục. Chị thấy mình điên dại và chị có thể nhìn thật rõ, chị biết mình đang làm gì, đang ở đâu nhưng đôi chân vẫn tiến về phía trước. Chị hành hạ chính mình, và khi chị lên giường đi ngủ, chị cầu nguyện rất lâu rằng chị sẽ không phải thức dậy vào ngày mai, dù đôi lần chị khóc trong giấc mơ và chị cầu xin đấng toàn năng hãy buông tha cho chị, chị muốn được quay lại cuộc sống bình thường, được bỏ quên và chạy trốn khỏi đây, khỏi tất cả những ai chị từng quen biết. Và Người, chắc là đã nghe thấy chị” – Sam thì thầm, nhưng chị không nhìn vào tôi, chị đang nói với chính mình – “và chị ở đây. Tuổi mười lăm của chị, rồi mười sáu, mười bảy. Nhưng mà, em này, nó cũng ở đây. Chính giữa nơi này, chị có thể cảm nhận được” – Sam nhìn vào mắt tôi và không nói gì thêm nữa, chị đứng dậy, bỏ đi trước cả khi tôi kịp ngoái đầu lại dõi theo hình bóng chị bị ánh sáng xô nghiêng.
Tôi không gặp lại Sam cho đến khi chị ra trường. Lễ tốt nghiệp của khối Lớn diễn ra vào mùa hè, giữa độ tháng Năm. Tôi nghe nói, Sam sẽ được chuyển tới một ngôi trường lớn hơn, nằm ở phía đông và gần bờ biển. Chị chào tôi khi khối Lớn diễu hành khắp sân trường, tôi đứng đầu hàng của lớp nên chúng tôi có thể thấy nhau ngay. Khuôn mặt Sam vẫn chẳng thay đổi gì so với buổi chiều hôm đó, đôi mắt chị vẫn có cái vẻ của một vết rạn vừa mới khóc xong, làn da tái nhợt nhạt hẳn đi dưới ánh nắng chói chang của một ngày chính hạ, và tôi tự hỏi có khi nào ở đó có cả một sức nặng, một lực đè đang nghiến lên đôi vai đang giương ngang của chị hay không. Tôi mỉm cười đáp lại. Chúng tôi không bao giờ gặp lại nhau. Sau hôm đó, tôi bắt đầu nói chuyện lại với Tang. Ban đầu tôi kể cho cô chuyện đã xảy ra với Sam, tôi nói có lẽ, biết đâu, nếu Tang cũng có một chuyện gì để kể cho tôi nghe, một chuyện gì mà chỉ mình cô biết. Tang không nhìn thẳng vào tôi, đôi mắt cô lảng tránh bám lấy những đụn mây di cư nhàn tản trên bầu trời. Cô dựa người bên bậu cửa sổ phòng học, trên tay cô cầm lon nước quả mà cô yêu thích nhất, một lon Tree Top vị táo rừng. Kim phút như bị bẻ làm đôi, khoảng thời gian lưng chừng giữa sự đợi chờ dai dẳng đầy khấp khởi và tiếng chuông báo hiệu hết giờ, Tang hoàn toàn im lặng. Khi tiếng chuông vang lên, Tang ngồi xuống ghế của cô, thu dọn sách vở và đặt lon nước lên mặt bàn đã trống. Cô bắt đầu nói, bằng cái giọng dịu dàng và hồi hộp mà tôi đã quen nghe mỗi khi cô kể một chuyện cười, nhưng lần này và chỉ lần này, tiết tấu trong câu chuyện của cô vô cùng chậm rãi.
Tang lớn lên trong một gia đình gốc Trung Hoa gia giáo. Bố cô làm ở bộ ngoại giao, mẹ cô là giáo viên tiểu học. Tang đã được định sẵn khi lớn lên, tức là khi cô đã đủ trưởng thành, cô sẽ được gả đi lấy chồng, một người đàn ông già trong dòng họ. Cô được nuôi dưỡng như một con búp bê mắt đen, nhưng đồng thời chính cô cũng đã từ lâu nuôi trong lòng một con thú khác. Cô lớn lên như một bông hoa dại giữa chốn rừng xanh, nơi âm u hiểm trở đầy gai góc, nơi hổ và những con rắn bẹt đầu xấu xí luồn lách náu mình giữa các rặng tre. Cô cắt tóc ngắn, xỏ khuyên trên tai và trên mũi, mặc những bộ quần áo lạ lùng và đi theo những người bạn nổi loạn của mình đến tận hang cùng ngõ hẻm. Cô nói với bố mẹ rằng cô muốn trở thành một đứa con rơi, một đứa trẻ dù yếu đuối nhưng vì lòng tự tôn vẫn muốn giữ lấy thanh danh cho riêng mình, mặc dù cô hãy còn quá bé để hiểu được thế nào là thanh danh và ngày nay người ta phải đánh đổi thanh danh để giữ được mạng sống. Cô nói, nếu ngay cả cái chết cũng không thể trở thành một lời nguyền thì điều gì trên cõi đời này có thể ngăn cản được cô đây. Tang ra đi trong tư thế ngẩng cao đầu. Hãy còn là một đứa trẻ, cô sống bằng tiền tiết kiệm và tiền làm thêm trong một nhà hàng bình dân, cô bảo tôi suốt quãng thời gian đó cô chấp nhận việc bị bạo hành về tinh thần và thể xác để đổi lấy đồng tiền. Tang mở lon nước quả, cô uống một ngụm rồi nói tiếp, bạn của tớ à, cậu có biết là chỉ cần cậu còn sống thôi là cậu đã thắng rồi hay không. Sau khi dành dụm được một số tiền kha khá, Tang trở về nhà và cho bố mẹ xem cô đã làm được những gì. Người phương Đông luôn ít nói, họ thích hành động hơn. Bố mẹ cô đã ngay tức khắc tống cô vào trường trung học nội trú Đại Dương. Họ đến thăm cô đều đặn vào những kì thăm nom, mua cho cô những món đồ cần thiết và nói với cô những lời yêu thương nhất mà một bậc làm cha làm mẹ mẫu mực có thể nghĩ ra. Tang bảo, khoảng thời gian cô ra ngoài đời và cố tự lập đó, thực chất đều chẳng là gì cả.
“đó đâu phải một cuộc chiến, tớ đã chiến thắng mà không hề có đối thủ” – Tang mỉm cười – “còn đây, ở đây này, với bố mẹ mình, đó mới là một cuộc chiến thật sự. Tớ khi còn bé đã từng muốn được lớn lên thật nhanh, bây giờ tớ cũng vậy. Tớ chỉ muốn lớn lên, ra khỏi đây, hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc bởi bất kể điều gì. Này, cậu cũng thế phải không?” – tôi nhún vai, tỏ ý nói rằng tôi không biết.
“cậu lúc nào cũng thế” – Tang nhíu mày – “hồi trước cũng thế, cậu chỉ nghe tớ nói và nhìn tớ chăm chăm như là chuyện của tớ cái nào cũng buồn cười lắm ấy, hầu như chẳng bao giờ chịu nói gì về mình, cậu hành xử như cuộc đời cậu chẳng có một cái gì trọng đại hết. Nhưng chuyện cũ rồi và đằng nào thì chúng mình cũng đã trò chuyện lại với nhau” – Tang đẩy bàn ra, cô xỏ lại hai chân vào đôi giầy bệt – “khi nào gặp thì nói chuyện tiếp nhé” – cô vẫy chào tôi và bỏ lại tôi trong lớp học. Bỏ lại ai đó ở một không gian rộng lớn nhường này, liệu điều đó có khiến cô thấy buồn không?
Có một thời gian rất dài tôi không gặp Chal. Hàng ngày sau các tiết học, khi tôi nhìn sang bên tay phải cậu đều không còn ở đó. Khi tiếng chuông báo hiệu vang lên, cậu đã mau chóng biến khỏi chỗ ngồi, biến ra khỏi lớp như một con ong, đến một nơi nào đó mà giờ đây tôi hoàn toàn không biết được. Vào giờ Mĩ thuật, Chal luôn là người đầu tiên nộp bài và ra về sớm nhất, ai cũng đinh ninh rằng hẳn là những bức tranh của cậu đều là tuyệt tác và khi được đem ra chiêm ngưỡng nó sẽ khiến tất cả thích mê. Trong ngày hội kỉ niệm mười năm thành lập trường, có một buổi triển lãm tranh của tất cả các học sinh khối Vừa. Mỗi khi đi qua một bức tranh khiến tôi ưng ý, tôi đều nhìn xuống biển tên để kiểm tra xem đó có phải là cậu không. Với mỗi bức tranh không phải, tôi lại tự nhủ thầm hẳn là bức của Chal sẽ đặc sắc và vượt trội hơn. Tôi đi một vòng quanh triển lãm, xem đi xem lại những bức đẹp nhất hàng chục lần và cúi hẳn người xuống để xem xem người ta có đánh nhầm tên cậu không. Nhưng rồi tôi lại nghĩ Chalcedony là một cái tên đặc biệt, đọc nhầm còn khó huống hồ là viết lại nó ra trên giấy trắng mực đen. Thế là tôi đi thêm vòng nữa, trên đoạn đường ngoặt từ nhà vệ sinh ra phòng triển lãm, tôi vô tình trông thấy một giá tranh nhỏ, cỡ một tấm gạch vuông loại trung bình, trên tấm toan tranh chẳng có gì ngoài một lớp sơn dày màu xanh thẫm, ở góc trái bức tranh có một đốm vàng nhỏ. Ngay phía dưới bức tranh, biển đề tên màu xanh lam in rõ mồn một từng chữ cái trong tên cậu. Chalcedony đã vẽ bức tranh này, và nếu hỏi tôi, và nếu chính cậu hỏi tôi, tôi sẽ nói đó là một mặt biển dậy sóng. Suốt khoảng thời gian đó, hay đúng hơn, cho đến hết mùa hè, Chal đã biến thành cái đốm sáng nhỏ màu vàng và tự vùi lấp mình dưới đáy đại dương.
Tháng Tám qua đi, những ngày đầu tiên của mùa thu vừa chớm tới. Chúng tôi đã lên lớp Lớn.
Mùa thu đến, ngày cũng trôi qua mau hơn. Càng gần đến sinh nhật, tôi lại càng bồn chồn. Vậy là tôi sắp mười tám tuổi rồi, tôi sẽ ra khỏi đây và có thể tự quyết định cuộc đời mình. Từ lâu tôi đã sớm lên một kế hoạch cụ thể cho tương lai sau này của tôi. Ngay khi vừa ra trường, tôi sẽ đi tìm một cây cầu thật cao nào đó và gieo mình từ trên xuống. Đó là những gì tôi định làm và sẽ làm sau khi tốt nghiệp và rời khỏi trường trung học nội trú Đại Dương.
Chal đến tìm tôi vào một buổi tối muộn thứ Hai. Hôm đó chúng tôi có bài tập về nhà môn tiếng Phạn, tôi đã dành cả buổi tối, thậm chí bỏ cả ăn để đánh lộn với quyển từ điển và lúc này tôi nằm nhoài trên giường, tờ giấy bài tập rơi lả tả trên sàn và than chì làm đen sì hết cả. Đúng lúc đó, Chal đẩy cửa bước vào. Cậu không thèm để ý tới tôi đang nhỏm người lên để chào đón cậu, cậu đi chân trần, mặc một cái áo sơ mi màu trắng không cài cúc, mặc quần lót và đi lang trong đêm. Cậu bò lên giường tôi, rúc vào chăn và cậu ôm tôi, rồi cậu ngủ thiếp. Hai đêm tiếp theo ngày nào cũng diễn ra như thế. Vào buổi sáng khi tỉnh dậy, tôi chăm chú nhìn cậu, đôi mắt nhắm nghiền và mái tóc vàng xòa trên trán, tôi tự hỏi liệu có phải Chal mắc chứng mộng du không. Nhưng tôi không để mình nghĩ nhiều vì tôi nhớ cậu và vì cậu đã tìm đến tôi chứ không phải một người nào khác. Những thắc mắc hệt như triệu chứng của một cơn buồn nôn khổng lồ không báo trước mà bằng một cách nào đó, tôi đã nuốt trôi được nó vào lòng. Đêm thứ tư, tôi ngồi trên giường, nhìn đồng hồ và chờ Chal đến. Như mọi khi, cậu chậm rãi đẩy cửa bước vào, sơ mi không cài cúc, quần lót và lần này có thêm một đôi giầy thể thao. Mũi giầy bám đầy bùn đất, có khi nào cậu vừa chạy đâu đó về không.
“nào, nhanh lên, tớ tắt đèn còn đi ngủ” – tôi vẫy Chal từ trên giường, đoạn lật chăn ra rồi vỗ vào chỗ trống. Còn cậu, cậu đứng ngây ra trên ngưỡng cửa, đôi mắt xanh lơ đôi lúc lại chớp xuống liên hồi. Tôi không rõ cậu đang bối rối hay đang cố định thần, đang cố gắng dùng trí lực yếu ớt của mình để suy xét hay để nhớ lại xem những gì đã xảy ra trong suốt những ngày qua. Dường như mọi nỗ lực sau một hồi vận động đều vô dụng, đôi tròng mắt của cậu lại mau mắn trở về trạng thái mơ màng trước đó, cậu tiến về phía tôi, leo lên giường, để tôi kéo chăn lên ngang ngực cậu, đợi tôi với tay ra tắt cây đèn ngủ và trong bóng đêm, cậu nín thở nghe tiếng thở đều đều của tôi, rồi tôi cũng nín thở lại, và chúng tôi ngủ lúc nào không biết.
Mọi chuyện sẽ vẫn diễn ra như thế, cho đến một hôm tôi đã đợi rất lâu. Tôi nhìn đồng hồ rồi nhìn ra bên ngoài, những vì sao dường như cũng tắt ngấm. Có lẽ tối nay Chal ngủ say rồi, tôi nghĩ thế rồi tắt đèn đi ngủ. Nếu lúc đó tôi mở cửa ra và hỏi thăm ai đó, để biết được rằng Chal đã rời đi ngay trong đêm, đống hành lí đã được người nhà thu dọn từ mấy ngày qua, quần áo được nhét vào một chiếc va-li kéo tay ngắn gọn, và Chal chắc hẳn là đang dõi mắt về phía cửa sổ phòng tôi từ trong chiếc ô tô của bố mẹ cậu ấy. Sáng hôm sau khi đến lớp, thầy hiệu trưởng đột ngột đẩy cửa bước vào giữa giờ Lịch sử, và thầy Pan, thầy lại đứng nép sang một phía. Thầy hiệu trưởng tiến về phía trước, hai tay thầy chụm lại vào nhau, và bằng cái giọng trầm khàn thỏ thẻ của mình, thầy mỉm cười với chúng tôi và với thầy Pan, rồi thầy nói, thầy thông báo, rằng học sinh Chal, hay Chalcedony sẽ chính thức không còn là học sinh trường trung học nội trú Đại Dương kể từ ngày hôm nay, cậu ấy sẽ được gia đình chuyển sang một ngôi trường mới và tất cả chúng ta đều hi vọng những điều tốt đẹp nhất dành cho cậu. Khi thầy hiệu trưởng bước ra khỏi lớp, và như mọi khi, tiết học không bao giờ nối lại như xưa được nữa. Đã có một vệt nứt gãy ở giữa khoảng thời gian có Chal và khoảng thời gian mới được tạo nên lúc này, khoảng thời gian mà ở đó không có cậu. Tôi ngồi yên trên ghế, lắng nghe những lời bàn tán xì xào của đám bạn học kế bên. Có người nói bệnh của Chal tự nhiên trở nặng nên người nhà mới phải cuống cuồng chuyển đi, có người lại thì thào, các cậu có thấy tự nhiên thằng Chal trở nên lầm lì hơn không, nó không chơi đá bóng nữa, cũng chẳng thấy đi bơi, cũng chẳng kể chuyện cười, nó ăn rất nhanh và làm gì cũng rất nhanh, nó luôn biến đi trước cả khi người ta kịp nghĩ đến việc gọi tên nó. Tôi dỏng tai nghe không sót lấy một từ. Và tôi nhớ đến Chal đi đâu đó trong đêm, cậu mặc chiếc áo sơ mi màu trắng và đôi chân trần như thể cậu tự đánh dấu chính mình bởi nỗi sợ hãi bị bóng đêm nuốt lấy. Cậu tìm đến tôi bởi cậu quá sợ việc phải ngủ một mình. Rốt cuộc, tôi không thể biết được chuyện gì đã xảy đến với Chal trong suốt quãng thời gian qua, và việc gì đã xảy ra cho cậu ấy từ trước đó nữa.
Tôi lân la thăm dò khắp xung quanh, từ đám học sinh trong đội bóng đá của Chal, đội bơi và đội chạy bền, tất cả đều có một câu trả lời như nhau. Chúng tôi không biết, từ lâu rồi Chalcedony không còn tham gia một thứ gì. Các tiết học buổi chiều tôi đi loanh quanh trong trường, hi vọng sẽ có cái gì rơi xuống nói cho tôi biết chút gì đó về Chal. Nhưng chỉ là vô vọng. Tôi đến trước bể bơi và nhìn qua tấm kính, tôi đã mong đợi điều gì khi tới đây? Tôi mong lại được nhìn thấy Chal nằm dài thảnh thơi bên thành bể, sau khi đã bơi một chục vòng hay ba chục vòng, tôi có mong lại được nhìn thấy cậu ngửa mặt lên trần nhà và những ngón tay mảnh khảnh thế lại có thể bóp nát một lon bia. Đôi mắt xanh lơ rơi xuống và ra đi cùng mùa thu. Đối với tôi, Chal cũng giống mùa hè. Nóng bức và oi nồng, và làm người ta khó chịu chỉ muốn tránh xa, nhưng khi nó đã qua đi, người ta sẽ dành tất cả những mùa còn lại để làm thơ và viết văn chương và ca tụng về nó và thương tiếc nó. Chal là mùa hè của tôi, và cậu đã ra đi không cách nào lấy lại được.
Chẳng mấy chốc khi không có bất kì ai cạnh bên và con người ta bắt đầu thấy cô đơn, thì thời gian bỗng trôi đi nhanh không tưởng. Mùa thu qua đi, tôi đã mười tám tuổi. Tôi dành cả mùa đông để đi đến thư viện trò chuyện với những người bạn cùng khối Lớn. Tôi biết được thêm rất nhiều nỗi thương lòng khác và để giữ kín chúng, tôi viết về chúng trong nhật kí như một thói quen.
Ngày 25 tháng 9 – 1 giờ 30 phút sáng.
Hôm nay mình đã nói chuyện với cái bạn tóc cam. Tên bạn ấy là Org, mình đã hỏi bạn ấy có phải tên thế là vì màu tóc không, bạn ấy mỉm cười bảo đúng là vậy. Mình nói mình là người lưu giữ nỗi buồn, mình bảo Org, nếu bạn ấy có chuyện phiền lòng mà nói ra với mình, tâm trạng sẽ nhẹ nhõm hơn. Ban đầu Org nói không nhiều, chủ yếu toàn đặt câu hỏi cho mình. Nhưng rồi khi mình kể cho Org nghe chuyện của Sam, bạn ấy liền ngồi thẳng dậy và khép mắt lại rồi mở mắt ra, và bạn ấy bắt đầu kể. Org yêu anh trai của bạn ấy và khi gia đình biết chuyện, anh trai bạn ấy tự sát, Org nắm hai bàn tay bạn ấy lại vào nhau, bạn ấy chỉ chực bật khóc, và mình cũng đợi bạn ấy bật khóc, mình thậm chí đã nghĩ sẵn trong đầu những lời an ủi, nhưng Org đã không khóc, hai hàng lông mày bạn ấy níu chặt lại, những đường rãnh sâu hằn trên trán bạn ấy, mũi Org chun lại như ngửi phải một mùi khó chịu, răng trên cắn chặt môi dưới tới mức mình đã lo có khi bạn ấy sẽ cắn môi chảy máu mất không chừng. Nhưng nó đã không xảy ra. Chẳng có cái gì xảy ra hết cả. Org im lặng một lát, bạn ấy hỏi mình có muốn đi uống gì không, mình lắc đầu, rồi mình hỏi, anh trai cậu thực sự đã mất rồi sao. Org gật đầu, rồi nói, sau đó, tớ đã xin bố mẹ cho vào đây. Bố mẹ tớ đồng ý ngay. Và thế là tớ vào đây học. Mà thực ra, Org ngần ngừ một lúc, nói tiếp, đây đâu phải chỗ để học, đúng không. Tớ nghĩ, nó giống một bệnh viện hơn, một nơi để chữa trị về mặt tâm lí, đại loại thế. Tớ nghĩ thế đấy. Và mình liền nói, tớ cũng nghĩ thế đấy, cả hai chúng ta đều đúng rồi. Và Org cười, và mình có người bạn đầu tiên, sau khi Chal đi, và cả sau khi Tang thôi chào mình trên hành lang nữa.
Ngày 30 tháng 9 – 12 giờ trưa.
Không dễ gì để khơi ra được một vết thương lòng của người khác. Họ không dễ dàng như Org và họ mạnh mẽ hơn Sam. Mặc dù khi mình nhắc đến quá khứ của mỗi người, mình đã thấy trong mắt họ một vệt tổn thương. Nhưng nó biến mất cũng nhanh, nhanh tới mức chớp mắt một lần thôi là tan biến hết. Nhưng hôm nay, sau bao nhiêu lâu mình cũng đã kiếm được một người. Tên cậu ấy là Bee. Bee lớn hơn mình một tuổi, cậu ấy nói thực ra trường trung học nội trú Đại Dương có một trường lớn hơn và ở mức cao hơn là trường thực nghiệm Hoa Dẻ. Những ai ở độ tuổi của Bee đáng lẽ sẽ được chuyển thẳng lên trường thực nghiệm Hoa Dẻ nhưng vì lí do nào đó, họ quyết định để Bee ở đây. Đó là trường mà sau này cậu sẽ phải đến, nếu cậu không chịu khỏe lên, Bee nói với tôi, hai đứa lúc đó đang trốn tiết buổi chiều và tôi chỉ cho Bee chỗ bắt mấy con bọ cánh cam. Bee đặt mấy con lên tay, xem chúng bò tới bò lui rồi cậu chụm hai tay vào nhau để chúng bò từ chỗ này qua chỗ khác. Tớ phải chuyển lên đó à, tôi hỏi lại, hơi ngạc nhiên, đến nỗi tôi quên luôn mục đích chính của mình. Nhưng nếu cậu qua được bài kiểm tra cuối năm, thì cậu sẽ được ra trường, sẽ ổn thôi, Bee nói, cậu đồ chừng muốn vỗ vai tôi nhưng rõ là không làm được với đống cánh cam hãy còn đang bò lổm ngổm. Mãi sau, tôi mới hỏi cậu về chuyện vì sao cậu lại phải vào đây. Bee đáp, nếu biết vì sao thì chắc tớ đang ở đâu chứ không phải chỗ này, Bee nghĩ ngợi một lúc, cậu gảy những con cánh cam xuống đất rồi nói tiếp, nếu mà buộc phải trả lời thì, tớ chắc là vì mẹ tớ. Hồi tớ học lớp tám, mẹ đánh tớ gần chết, bố tớ can, thường thì là ngược lại nhỉ, Bee cười nhưng đôi mắt bị mặt trời làm chói quá tôi không thấy được, và cậu biết không, bố tớ bị thương, chẳng làm sao chỉ xước ngoài da nhưng lúc đó thì chảy máu rất nhiều. Và rồi khi tất cả qua đi, mẹ không còn nói chuyện với tớ nữa. Ở nhà tớ luôn cố gắng giữ cho mình thật là im lặng, như một con cá ngừ, cho đến một hôm, tớ quyết định làm liều một phen. Tớ có thuốc ngủ trong nhà, và tớ nuốt một ít, tớ căn đúng giờ mẹ đi làm về, tớ chỉ muốn xem phản ứng của mẹ thôi. Tớ không uống để chết, tớ uống để ngủ một giấc và để gọi mẹ dậy. Tớ nằm bẹp trên ghế sô pha, từ ngoài cửa nhìn vào mẹ có thể dễ dàng thấy tớ ngay. Nhưng lúc đó, khi mẹ về, Bee di di những con bọ cánh cam trên mặt đất rồi cậu ấy dừng lại, mẹ chỉ đứng đó nhìn tớ, rồi mẹ bỏ đi. Và tiếp theo tớ nhét hết chỗ còn lại vào mồm. Tớ tỉnh dậy trong bệnh viện, và ra viện một cái, tớ bị ném vào đây.
Ngày 10 tháng 10 - 8 giờ 45 phút sáng.
Tôi đã nói chuyện với Jen suốt cả tiết Số học. Cô ấy là lớp trưởng, gương mẫu và khá xinh nhưng may thay lại không khoái toán cho lắm. Chúng tôi trao đổi thư cho nhau, tôi kể cho cô chuyện của Sam và bảo rằng tôi đang đi tìm những nỗi buồn rồi tôi nói cho cô những gì tôi biết, thế là Jen hí hoáy viết cái gì đó rất lâu một hồi, xong cô đứng dậy đưa nó cho tôi. Jen xin ra ngoài trong lúc tôi đọc hết tờ giấy đó. Tờ giấy viết thế này.
“Cậu chắc cũng nghe nhiều rồi, chuyện buồn thảm u sầu ấy. Không biết cậu sẽ xếp chuyện của tớ vào loại gì, nhưng thôi cứ kể ra đi vậy. Tớ thích nữ. Vậy đã đủ cho cậu chưa. Bố mẹ tớ thì cứ nghĩ tống tớ vào một cái trường nội trú là xong chuyện, nhưng cái trường này thiếu gì đàn bà, chưa kể đây là trường chữa trị vấn đề tâm lí, trong khi tớ rõ chẳng có bệnh tật gì. Bởi cậu nói tớ nghe xem, yêu người mình yêu thì sai trái chỗ nào? Mẹ từng có ý định nhờ ai đó hiếp tớ một trận cho tỉnh trí ra, nhưng mẹ bảo vì giữ thể diện cho tớ nên đã không làm. Tớ từng muốn giết hết tất cả mọi người, cả đàn ông và cả đàn bà rồi tự vẫn. Nhưng sau rốt tớ đã không làm. Tớ nhìn khuôn mặt mẹ tớ khi đang ngủ và tớ biết rõ tớ không thể giết hết tất cả mọi người trên thế giới này. Và tớ tự hỏi sao tớ lại phải chịu vấy máu vì người đàn bà này? Chỉ bởi vì tớ yêu thương khác người, và bởi vì tớ sinh ra làm con không có quyền chọn mẹ, không có nghĩa cuộc đời tớ dừng lại ở đây. Tớ cả quyết rằng tớ phải tiếp tục tồn tại, tiếp tục bất tuân lời của mẹ, dù có thế nào đi nữa. Sau rốt tớ thấy mình đang đứng ở đây. Thực đáy lòng, tớ muốn được ở đây mãi mãi, làm một kẻ điên, một kẻ tổn thương, nhưng trái tim tớ và tâm hồn tớ thì được nguyên lành. Này, nói cậu hay, địa ngục đang rỗng không, bởi ác quỷ đã ở sẵn đây rồi”.
Tôi ngừng chuyện viết nhật kí một thời gian. Mùa thu trôi qua trong sự thinh lặng có phần u tối hơn mùa hè. Mùa đông đến giữa những cái thở nhịp nhàng của nó. Vào buổi sáng, khi tôi mở mắt ra, từng luồng khí lạnh len qua cửa sổ thổi bùng mí mắt. Tôi đi qua mùa đông trong nỗi mặc khải tràn trề ứa đầy từ lồng ngực. Tôi gặp lại Chal khi cậu đến thăm tôi vào một ngày thăm nom đầu mùa xuân. Cậu mặc một chiếc áo len màu rượu chát, quần jean và đi đôi Adidas màu đen quen thuộc. Cậu mang cho tôi hàng đống sách, một cái máy nghe nhạc mới và một bức tranh.
“tớ đã từng thấy cái này rồi” – tôi chỉ vào điểm sáng nhỏ trên bức tranh của cậu. Ở phía sau đó tôi như nghe thấy tiếng gầm gào của từng đợt sóng bị nén chặt lại trên biển Thái Bình Dương.
“rồi hả? Tớ vẽ tặng cậu đấy mà” – Chal mỉm cười với tôi, cậu đẩy bức tranh khổ vuông về phía tôi, bức tranh chẳng có gì ngoài một lớp sơn màu xanh đen thẫm lại, một đốm sáng lấp lánh như một con đom đóm nhấp nháy giữa hàng cọng cỏ non.
“cảm ơn” – tôi đáp, nhìn thẳng về phía Chal, như tôi đã làm vào những đêm chúng tôi cùng nhau uống bia và hát ca đến sáng. Đôi mắt của tôi như bị rửa trôi đi trong cái nhìn màu xanh lơ của cậu, cái thứ xanh lạ lẫm như loang ra đến tận điểm giao nhau giữa biển cả và bầu trời.
“cậu thực sự không muốn biết vì sao tớ phải vào đây à?” – tự dưng Chal hỏi.
“và cả vì sao cậu được ra khỏi đây nữa” – tôi đáp. Và chúng tôi cười, nụ cười không có lấy một sợi thanh âm.
“vì bố mẹ tớ muốn thế” – Chal nói – “thần kinh tớ như sâu róm ấy, tớ sợ đau hơn sợ chết, rồi lại có lúc tớ căng mình ra, làm đau mọi chỗ tớ có thể với đến trên người. Rồi tớ gặp cậu”.
“và sao nữa?” – tôi tò mò hỏi, trong đầu tôi nhanh chóng nghĩ rằng phải mau ghi lại câu chuyện này vào nhật kí mới được.
“và tớ khỏi” – Chal đáp cụt lủn – “tớ hết sợ khi tớ ở gần cậu, cậu có cái gì đấy rất là kì, rất là sợ, nhưng cũng lại rất nhẹ, rất dịu dàng. Tớ sợ đến gần cậu, nhưng tớ thích ôm cậu”.
“cứ tự nhiên” – tôi cười với Chal. Tôi đang cười với cậu ấy, một nụ cười mà lâu lắm rồi tôi không biết phải dành nó cho ai.
Hai chúng tôi ôm nhau, cảm nhận hơi ấm của nhau, đoán biết và tìm kiếm lẫn nhau. Và tất cả dừng lại ở đó. Cho đến tận lúc nào, tôi cũng không còn rõ nữa. Mọi thứ cứ trôi đi, lửng lơ như bốn mùa.
2013-05-20
1:56 am