những ánh đèn thành phố dâng lên thành một đường chân trời tối đen ở lưng chừng những ô cửa kính. Dominique đang ngồi bên bàn sửa lại những trang cuối cùng của bản thảo m ột bài báo thì cô nghe thấy có tiếng chuông cửa. Khách khứa thường không làm phiền cô khi không báo trước – cô ngẩng lên, chiếc bút chì ngưng lại ở lưng chừng trong không khí, cô bực mình và tò mò. Cô nghe thấy tiếng chân người giúp việc ở hành lang rồi chị ta bước vào phòng và nói “Thưa cô, một quý ông muốn gặp cô.” Giọng nói hơi khó chịu của chị ta làm cô biết rằng người đàn ông đó đã từ chối giới thiệu tên.
Anh ta có mái tóc màu cam? – Dominique muốn hỏi nhưng cô không mở miệng; chiếc bút chì ngúc ngoắc một cách vụng về. Cô nói: “Cho ông ta vào.”
Cánh cửa mở. Trong ánh sáng của hành lang, cô nhìn thấy một cái cổ dài, một đôi vai dốc y hệt như bóng một cái chai, một giọng trầm ấm và mượt mà nói: “Chào cô, Dominique.” Cô nhận ra Ellsworth, người mà cô chưa bao giờ mời tới nhà.
Cô mỉm cười. Cô nói: “Chào ông, Ellsworth, lâu lắm rồi không gặp ông nhỉ.”
“Cô lẽ ra phải mong tôi mới phải?” Ông quay sang phía người giúp việc “Cointreau,[75] nếu có, và tôi chắn chắn là ở đây có.”
Người giúp việc liếc nhìn Dominique, mắt mở to; Dominique gật đầu không nói gì, chị ta đi ra và đóng cửa.
“Cô bận à? Tất nhiên rồi!” Toohey vừa nói vừa liếc vào chiếc bàn nhỏ: “Rất thích hợp Dominique ạ. Có kết quả đấy. Gần đây cô viết khá hơn rất nhiều.”
Cô thả chiếc bút chì xuống và vắt một tay ra sau ghế, quay nửa người lại phía ông và quan sát ông một cách bình thản.
“Ông muốn gì, Ellsworth?”
Ông không ngồi mà đứng dò xét căn phòng với vẻ tò mò không vội vã của một chuyên gia.
“Không tồi, Dominique. Gần đúng như tôi nghĩ cô sẽ bài trí như thế nào. Hơi lạnh lẽo. Cô biết đấy, nếu tôi là cô tôi sẽ không đặt chiếc ghế màu xanh thủy tinh ở chỗ đó đâu. Quá lộ liễu. Quá vừa vặn. Đúng như cái người ta mong đợi ở vị trí đó. Tôi sẽ dùng màu đỏ cà rốt. Một màu đỏ xấu xí, bốc lửa, kỳ quặc. Hệt như mái tóc của cái cậu Howard Roark. Khá là tình cờ nhỉ – tôi chỉ ví von thôi – chẳng ám chỉ gì riêng tư cả. Chỉ cần điểm vào một chỗ phối màu không phù hợp là căn phòng này sẽ hoàn hảo. Nó tạo nên sự tao nhã cho căn phòng. Cô bài trí hoa rất khéo. Những bức tranh này cũng thế – không tồi.”
“Được rồi, Ellsworth, được rồi, có chuyện gì?”
“Nhưng tôi chưa bao giờ bước vào căn phòng này mà. Cô chưa bao giờ mời tôi cả. Tôi không biết vì sao.” Ông ngồi xuống rất thoải mái, một cẳng chân gầy guộc duỗi thẳng, chân kia vắt chéo qua chân này ở mắt cá; cả chiều dài của chiếc tất bó màu xám đục lộ ra dưới gấu quần, một khoảnh da lộ ra phía bên trên chiếc tất – nó có màu trắng xanh, lơ thơ vài sợi lông đen.
“Nhưng mà cô đã luôn tránh giao tiếp. Thời quá khứ, bạn thân mến ạ, thời quá khứ. Cô vừa nói là chúng ta chưa gặp nhau trong một thời gian dài đúng không? Đúng vậy. Cô đã rất bận rộn – một cách thật bất thường. Các cuộc viếng thăm, các bữa tối, các quán rượu lậu và tổ chức các bữa tiệc trà. Đúng không nào?”
“Đúng vậy.”
“Các bữa tiệc trà – tôi nghĩ cái đó là nhất. Đây là một căn phòng hợp cho tiệc trà – rộng – nhiều chỗ để nhồi nhét khách – đặc biệt là nếu cô không quan trọng việc nhét ai vào – mà cô thì không rồi. Không phải lúc này. Cô cho họ ăn gì? Mắm cá và trứng luộc cắt hình trái tim?”[76]
“Trứng cá hồi và hành tây cắt nhỏ hình ngôi sao.”[77]
“Thế còn về những quý bà lớn tuổi thì sao?”
“Pho mát kem và quả óc chó bổ nhỏ – theo hình xoắn ốc.”
“Tôi muốn được nhìn cô chăm lo đến những thứ như thế. Thật tuyệt khi thấy cô rất chu đáo với những quý bà lớn tuổi. Đặc biệt là những kẻ giàu nứt đố – với các ông con rể trong ngành nhà đất. Mặc dù vậy, tôi không nghĩ việc này có thể tồi bằng việc đi xem Đè em ra đi[78] với Commodore Higbee, người mang răng giả và có một khu đất trống rất đẹp ngay góc đường Broadway và Chambers.”
Người giúp việc bước vào với chiếc khay. Toohey lấy ly rượu và cầm nó một cách tinh tế, hít hít mùi rượu trong khi người giúp việc đi ra ngoài.
“Ông có thể nói cho tôi tại sao lại có cái hoạt động mật vụ này – tôi sẽ không hỏi là ai thực hiện nó – và tại sao ông cần biết chi tiết về các hoạt động của tôi, được không?” Dominique nói một cách thờ ơ.
“Cô có thể hỏi là ai thực hiện nó mà. Bất kỳ người nào và tất cả mọi người. Chẳng nhẽ cô nghĩ là người ta sẽ không bàn tán về chuyện cô Dominique Francon bỗng nhiên sắm vai một chủ nhà nổi tiếng – một cách bất thình lình? Dominique Francon trong vai một Kiki Holcombe thứ hai, nhưng tốt hơn nhiều – ồ hơn nhiều! – tinh tế hơn nhiều, hiểu biết hơn nhiều và rồi, hãy nghĩ mà xem, xinh đẹp hơn biết bao nhiêu. Đã đến lúc cô nên tận dụng một chút cái vẻ ngoài tuyệt vời đó của cô – bất kỳ phụ nữ nào cũng sẽ cắt cổ cô để có được nó. Nó vẫn đang bị bỏ phí, tất nhiên, nếu người ta nghĩ đến mối tương quan giữa hình thức với chức năng hoạt động tương xứng của nó, nhưng ít nhất thì một vài người cũng đang có được một số lợi ích từ nó. Bố cô, chẳng hạn. Tôi chắc chắn ông ấy vui mừng với cuộc sống mới này của cô. Dominique bé nhỏ đang thân thiện với mọi người. Dominique bé nhỏ cuối cùng cũng trở nên bình thường. Ông ấy nhầm, tất nhiên rồi, nhưng làm cho ông ấy hạnh phúc thì cũng tốt. Một vài người khác nữa cơ. Tôi, chẳng hạn. Dù cô chưa bao giờ làm bất kỳ điều gì chỉ là để khiến tôi hạnh phúc nhưng rồi cô thấy đấy, tôi có cái biệt tài quý hóa là vắt ra niềm vui từ cái không hề được dự định dành cho tôi – mà lại hết sức là vô tư.”
“Ông chưa trả lời câu hỏi của tôi.”
“Nhưng tôi đang trả lời đấy chứ. Cô hỏi vì sao lại có sự quan tâm đến các hoạt động của cô – và tôi trả lời: vì chúng khiến tôi hạnh phúc. Ngoài ra, hãy xem này, người ta có thể ngạc nhiên – mặc dù thế thì thật là thiển cận – nếu tôi ang thu thập thông tin về các hoạt động của các kẻ thù của mình. Mà lại không biết thông tin gì về các hoạt động của phía đồng minh – thực sự, cô biết đấy, cô không nghĩ tôi sẽ là một vị tướng bất tài đến như thế đấy chứ – và dù cô có thể nghĩ bất kỳ điều gì khác về tôi đi nữa, cô chưa bao giờ nghĩ là tôi bất tài.”
“Phía đồng minh ư, Ellsworth?”
“Xem này, Dominique, đó chính là vấn đề với phong cách viết – và nói – của cô: cô dùng quá nhiều dấu chấm hỏi. Tồi, trong bất kỳ trường hợp nào. Đặc biệt tồi khi không cần thiết. Hãy bỏ chuyện đặt câu hỏi đi – và chỉ nói chuyện thôi. Vì cả hai chúng ta đều hiểu và không có bất kỳ câu hỏi nào để hỏi giữa chúng ta cả. Nếu có – cô đã tống cổ tôi ra rồi. Thay vì thế, cô cho tôi một món rượu rất đắt tiền.”
Ông giữ miệng của chiếc cốc dưới mũi mình và hít vào với một khoái cảm phóng túng, mà, nếu là ở một bàn tiệc tối thì sẽ tương tự như một tiếng chép miệng to, thô tục. Nhưng ở đây, nó trở nên tao nhã tuyệt vời khi miệng chiếc ly pha lê được áp vào bộ ria nhỏ tỉa gọn ghẽ của ông
“Được rồi,” cô nói, “Thì nói chuyện.”
“Đó là điều tôi đang làm đây. Như thế nghĩa là tôi đã ý tứ – vì cô không sẵn sàng nói chuyện. Lúc này thì chưa. Nhưng hãy nói chuyện – một cách hoàn toàn khách quan – về sự thú vị khi thấy mọi người háo hức chào đón cô vào giữa bọn họ, chấp nhận cô, tụ tập quanh cô. Tại sao thế nhỉ – cô cho là vì sao? Họ rất hay tỏ ra khinh bỉ người khác, nhưng rồi khi có một người đã luôn khinh bỉ họ tự nhiên lại ngã gục và quay trở lại giao du với bọn họ, thế là tất cả bọn họ đều lăn lưng đến, cụp tai, cụp vuốt để cho cô xoa đầu xoa bụng họ. Vì sao? Có thể có hai cách giải thích, tôi nghĩ vậy. Cách giải thích tốt đẹp là họ rất rộng lượng và muốn làm vinh dự cho cô bằng tình bạn của họ. Chỉ có điều những cách giải thích tốt đẹp chẳng bao giờ đúng cả. Cách còn lại là họ biết cô đang xuống nước khi cần đến họ, họ biết cô đang trượt xuống khỏi một đỉnh cao – mọi sự cô đơn đều là một đỉnh cao – và họ vui sướng được kéo tuột cô xuống bằng tình bạn của họ. Mặc dù, tất nhiên, không ai trong số họ nhận thức rõ điều này, ngoại trừ bản thân cô. Đó là lý do vì sao cô thấy đau đớn khi làm điều đó, và cô sẽ không bao giờ làm nó vì một lý do cao cả, cô sẽ không bao giờ làm thế ngoại trừ vì cái kết cục cô đã chọn, một cái kết cục đáng kinh tởm hơn phương tiện đưa đến nó và cái kết cục đó khiến cho cô có thể chịu đựng được sự đau đớn mà phương tiện gây ra.”
“Ông biết không, Ellsworth, ông vừa nói một câu mà ông sẽ không bao giờ viết trong cột báo của ông.”
“Vậy sao? Không nghi ngờ gì cả. Tôi có thể nói với cô rất nhiều thứ mà tôi sẽ không bao giờ viết trong cột báo của tôi. Câu nào?”
“Mọi sự cô đơn đều là một đỉnh cao.”
“Câu đó? Phải, khá đúng đấy. Tôi sẽ không dùng nó. Cô cứ dùng nó tự nhiên – mặc d nó không tốt lắm. Khá thô. Một ngày nào đó tôi sẽ cho cô những câu hay hơn, nếu cô muốn. Tuy nhiên, rất tiếc khi cô rút ra được mỗi thế từ bài diễn thuyết nho nhỏ của tôi.”
“Ông muốn tôi rút ra cái gì?”
“Thì, hai cách giải thích của tôi chẳng hạn. Có một câu hỏi thú vị ở đó. Cách nào tỏ ra độ lượng hơn – tin vào cái tốt nhất của con người và buộc họ phải mang vác sự cao thượng mà họ không thể mang nổi – hay nhìn nhận họ như là chính họ, và chấp nhận thế vì nó khiến họ thoải mái? Sự độ lượng quan trọng hơn công lý, tất nhiên rồi.”
“Tôi chẳng thèm quan tâm.”
“Không thích suy diễn trừu tượng? Chỉ muốn những kết quả cụ thể? Được thôi. Cô đã giành được cho Peter Keating bao nhiêu công trình trong ba tháng vừa qua?”
Cô đứng lên, đi đến cái khay mà người giúp việc đã để lại, rót cho mình một cốc, và nói: “Bốn,” rồi nâng cốc lên miệng. Cô quay người để nhìn ông. Cô đứng với chiếc cốc trên tay và nói thêm: “Và đó là kỹ thuật nổi tiếng của Toohey. Không bao giờ ra đòn ở ngay đầu hay cuối bài báo. Phải đột ngột tung đòn ngay vào lúc người ta ít nghi ngờ nhất. Nhét đầy những lời ngớ ngẩn vào cả một cột báo, chỉ để cho vào một dòng quan trọng đó.”
Ông cúi người một cách lịch thiệp. “Khá đúng. Đấy là lý do vì sao tôi thích nói chuyện với cô. Thật là phí phạm khi tinh tế hay nanh nọc với những kẻ thậm chí không nhận ra được sự tinh tế hay nanh nọc của ta. Nhưng những lời ngớ ngẩn không bao giờ là tình cờ đâu Dominique ạ. Mà tôi cũng không biết là cái kỹ thuật viết báo của tôi lại đang trở nên rõ ràng. Tôi sẽ phải nghĩ ra một cách mới.”
“Đừng bận tâm làm gì. Họ thích nó.”
“Tất nhiên. Họ thích bất kỳ thứ gì tôi viết. Như vậy là bốn? Tôi bỏ qua mất một. Tôi đã đếm là ba.”
“Tôi không thể hiểu nổi vì sao ông phải đến tận đây nếu đó là tất cả những gì ông muốn biết. Ông rất thích Peter Keating và tôi thì đang giúp anh ta lên như diều, tốt hơn cả những gì ông có thể làm, thế nên nếu ông muốn lên lớp tôi về Petey quý hóa của ông – thì không cần thiết đâu.”
“Cô đã sai hai lần trong một câu rồi, Dominique. Một lỗi sai thật và một thì là nói dối. Lỗi sai thật là việc cô cho rằng tôi muốn giúp Petey Keating – và, thật lòng mà nói, tôi có thể giúp anh ta tốt hơn cô nhiều, và tôi đã và sẽ giúp, nhưng đó là dự định lâu dài. Còn lỗi nói dối là việc cô cho rằng tôi đến đây để nói chuyện Peter Keating – cô biết tôi đến đây để nói chuyện gì từ lúc cô thấy tôi bước vào. Và – nhưng mà khoan! – cô sẽ cho phép kể cả một kẻ ghê tởm hơn bản thân tôi được xông đến chỗ cô, chỉ để nói về chủ đề đó. Mặc dù tôi không biết ai có thể đáng ghê tởm đối với cô hơn là bản thân tôi, vào lúc này.”
“Peter Keating,” cô nói.
Ông nhăn mặt, chun mũi: “Ồ không. Anh ta không xứng tầm. Nhưng hãy nói về Peter Keating. Thật là một sự trùng hợp tiện lợi khi anh ta lại là người cộng tác của cha cô. Cô chỉ đang làm hết sức mình để kiếm các công trình cho cha cô, giống như một cô con gái làm tròn bổn phận – thật không có gì tự nhiên hơn thế. Cô đã làm những điều tuyệt vời cho hãng Francon và Keating trong ba tháng qua. Chỉ bằng cách mỉm cười với vài bà góa giàu có và bằng cách diện những bộ cánh đỏm dáng ở vài ba cuộc gặp mặt thượng lưu. Tôi tự hỏi cô sẽ đạt được gì nếu cô quyết định ngả bài và bán cái thân thể tuyệt mỹ của cô vì những mục đích không liên quan đến thẩm mỹ – để đổi lấy những công trình cho Peter Keating.”
Ông ngừng lại, cô không nói gì cả, và ông nói thêm: “Xin có lời khen ngợi, Dominique ạ, cô thật xứng đáng với những đánh giá cao nhất của tôi về cô – bằng cách không bị sốc trước việc này.”
“Ông nói thế nhằm mục đích gì đây, Ellswoth? Để gây sốc hay là để gợi ý?”
“Ồ, có thể là nhiều thứ – một sự thăm dò ban đầu chẳng hạn. Nhưng, thực ra thì, tôi chẳng có mục đích gì cả. Chỉ thử một chút thô tục thôi. Cũng là kỹ thuật của Toohey – cô biết đấy, tôi luôn đề nghị một chút sai lầm vào đúng thời điểm. Về bản chất, tôi là một người Thanh giáo[79] cuồng nhiệt và đơn điệu đến nỗi thỉnh thoảng tôi phải cho phép bản thân mình có một màu sắc khác – để giải tỏa sự đơn điệu.”
“Thế sao Ellsworth? Tôi tự hỏi – về bản chất, ông là cái gì. Tôi không biết.”
“Tôi dám nói không ai biết cả,” ông nói nhẹ nhàng “Mặc dù thật sự, chẳng có gì huyền bí về chuyện đó cả. Nó rất đơn giản. Tất cả mọi thứ đều đơn giản khi ta quy chúng về tới những thứ cơ bản. Người ta sẽ ngạc nhiên nếu biết có thật ít những điều cơ bản. Chỉ có hai thôi – có lẽ thế. Để giải thích tất cả chúng ta. Nhưng chính phần gỡ rối, phần quy về – đấy chính là phần khó – và đó là lý do tại sao người ta chẳng buồn làm. Tôi cũng không nghĩ là họ sẽ thích những kết quả.”
“Tôi chả quan tâm. Tôi biết tôi là cái gì. Nói tiếp đi. Tôi chỉ là một con chó cái.”[80]
“Đừng tự lừa bản thân mình, cô bạn thân mến ạ. Cô còn tồi hơn một con chó cái. Cô là một vị thánh. Điều đó chỉ ra tại sao các vị thánh lại nguy hiểm và không đáng thèm muốn.”
“Còn ông?”
“Thực tế thì tôi biết đích xác tôi là gì. Chỉ riêng cái đó có thể giải thích rất nhiều về tôi. Tôi đang cho cô một gợi ý hữu ích đây – nếu cô buồn dùng nó. Cô không dùng, tất nhiên rồi. Mặc dù cô cũng có thể – trong tương lai.”
“Vì sao tôi lại nên chứ?”
“Cô cần tôi Dominique ạ. Cho nên cũng nên hiểu tôi thêm một chút. Cô thấy đấy, tôi không sợ bị hiểu thấu. Bởi cô.”
“Tôi cần ông ư?”
“Ồ thôi nào, hãy dũng cảm lên nào.”
Cô ngồi dậy và chờ đợi một cách lạnh lùng, lặng lẽ. Ông mỉm cười, rõ ràng là với sự thỏa mãn và không buồn che giấu sự thỏa mãn đó.
“Hãy xem nào,” ông nói trong lúc ngắm nghía trần nhà với vẻ lơ đễnh “những công trình mà cô đã kiếm cho Peter Keating. Cái nhà văn phòng Cryon chả có giá trị mấy – đằng nào Howard Roark cũng không bao giờ có cơ hội với nó cả. Nhà Lindsay thì tốt hơn – Roark rõ ràng đã được cân nhắc, tôi nghĩ anh ta hẳn là đã có được nó nếu không có cô. Nhà câu lạc bộ Stonebrook cũng vậy – anh ta đã có một cơ hội với nó, nhưng cô đã phá hoại.”
Ông nhìn cô và cười khẽ “Không bình luận về kỹ thuật và việc ra đòn sao Dominique?” Cái cười giống như váng mỡ lạnh nổi trên mặt chất lỏng là giọng nói của ông. “Cô đã bỏ qua cái điền trang Norris – anh ta đã có được nó tuần trước, cô biết đấy. Ồ, cô không thể thành công một trăm phần trăm được. Rốt cuộc thì tòa nhà Enright là một công trình lớn; nó đang tạo nên rất nhiều dư luận, và khá nhiều người đang bắt đầu quan tâm tới ông Howard Roark. Nhưng cô đã làm rất tốt. Tôi xin chúc mừng. Giờ thì chẳng lẽ cô không nghĩ là tôi đang cư xử tốt với cô sao? Mọi nghệ sĩ đều cần được nhìn nhận – thế mà không có ai để khen ngợi cô cả, vì không ai biết cô đang làm gì, nhưng Roark và tôi thì có, mà anh ta thì sẽ không cảm ơn cô. Nhưng mà khoan, tôi không nghĩ Roark biết cô đang làm gì, và cái đó làm hỏng cả trò vui, đúng không?”
Cô hỏi: “Làm sao ông biết tôi đang làm gì?” – giọng cô mệt mỏi.
“Bạn thân mến, chắc chắn cô chưa quên là chính tôi là người cung cấp cho cô ý tưởng đầu tiên?”
“À phải,” cô nói thờ ơ. “Phải.”
“Và giờ thì cô biết tại sao tôi đã đến đây rồi đấy. Giờ thì cô biết ý tôi là gì khi tôi nói về phía đồng minh rồi đấy.”
“Phải” cô nói. “Tất nhiên rồi.”
“Đây là một thỏa thuận, bạn thân mến ạ. Một liên minh. Những người đồng minh không bao giờ tin tưởng nhau, nhưng điều đó chẳng phá hoại hiệu quả công việc của họ. Động cơ của chúng ta có thể khá đối lập. Thực tế, chúng đối lập thật. Nhưng chẳng sao cả. Kết quả sẽ vẫn thế. Không cần phải có một mục đích chung cao cả. Chỉ cần có một kẻ thù chung. Chúng ta thì có.”
“Phải.”
“Đó là lý do cô cần tôi. Tôi đã từng có ích cho cô.”
“Phải.”
“Tôi có thể làm tổn thương anh Roark của cô nhiều hơn bất kỳ bữa tiệc trà nào cô có thể làm.”
“Để làm gì?”
“Bỏ những cái để-làm-gì đi. Tôi không hỏi những cái đó của cô.”
“Được thôi.”
“Vậy thì cái đó được ngầm hiểu giữa chúng ta chứ? Chúng ta là đồng minh trong vấn đề này?”
Cô nhìn ông, cô khom người về phía trước, chăm chú, khuôn mặt cô trống rỗng. Rồi cô nói: “Chúng ta là đồng minh.”
“Tốt, bạn thân mến ạ. Giờ thì cô nghe này. Đừng có nhắc đến tên anh ta trong cột báo của cô vài ngày một lần như thế. Tôi biết, mỗi lần như thế cô đều đưa ra những lời châm chọc hằn học với anh ta, nhưng như thế là quá nhiều. Cô đang làm cho anh ta trở nên nổi tiếng, và cô thì không muốn thế đâu. Hơn nữa, cô nên mời tôi đến những bữa tiệc của cô. Có những thứ tôi có thể làm mà cô lại không thể. Một gợi ý khác: ông Gilbert Colton – cô biết đấy, nhà Colton sản xuất đồ gốm ở California ấy – đang lên kế hoạch xây dựng một nhà máy chi nhánh ở phía đông. Ông ấy đang nghĩ đến một kiến trúc sư hiện đại. Thực tế ông ta đang nghĩ đến Roark. Đừng để Roark nhận được nó. Đó là một công trình rất lớn – sẽ có rất nhiều quảng cáo. Hãy đi và nghĩ ra một kiểu tiệc trà hay bánh kẹp gì đó cho bà Colton. Làm bất kỳ thứ gì cô muốn. Nhưng đừng để Roark có được nó.”
Cô đứng dậy, lê hai bàn chân tới một cái bàn, đôi cánh tay cô vung vẩy lỏng lẻo, và lấy một điếu thuốc lá. Cô châm thuốc, quay sang phía ông, và nói lạnh lùng:
“Ông có thể nói chuyện ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề – khi ông muốn thế.”
“Khi tôi thấy cần.”
Cô đứng ở cửa sổ, nhìn ra ngoài thành phố. Cô nói:
“Ông chưa bao giờ thực sự làm điều gì chống lại Roark. Tôi không biết là ông quan tâm nhiều đến thế.”
“Ôi trời. Tôi chưa sao?”
“Ông chưa bao giờ đề cập đến anh ta trên báo cả.”
“Đó, bạn thân mến ạ, chính là cái mà tôi đã làm để chống lại Roark đấy. Cho đến nay.”
“Ông nghe đến anh ta lần đầu tiên khi nào?”
“Khi tôi nhìn thấy các bản vẽ ngôi nhà Heller. Cô đã không nghĩ tôi lại bỏ qua nó đúng không? Còn cô?”
“Khi tôi nhìn thấy các bản vẽ của tòa nhà Enright.”
“Không phải trước đó?”
“Không phải trước đó.”
Cô hút thuốc lặng lẽ; rồi cô nói, không quay sang ông ta:
“Ellsworth, nếu một trong chúng ta nhắc lại những gì chúng ta đã nói ở đây hôm nay, người kia sẽ phủ nhận và sẽ chẳng ai có thể chứng minh được. Vì thế chẳng sao cả nếu chúng ta nói thẳng với nhau, đúng không? Mọi việc khá an toàn, đúng không? Vì sao ông lại căm ghét anh ta?”
“Tôi chưa bao giờ nói tôi căm ghét anh ta.”
Cô nhún vai.
“Về những chuyện khác,” ông nói thêm, “tôi nghĩ cô có thể tự mình trả lời điều đó.”
Cô chậm rãi gật đầu, mắt nhìn vào cái điểm sáng nhỏ phản chiếu đầu điếu thuốc của cô trên mặt kính.
Ông đứng dậy, đi về phía cô, và đứng nhìn những ngọn đèn thành phố phía bên dưới họ, nhìn những hình khối của các tòa nhà, vào những bức tường tối bị lu mờ đi bởi sự lấp lánh của những cửa sổ, như thể những bức tường chỉ là một tấm mạng ô vuông làm bằng sa đen mỏng trên một khối ánh sáng rắn chắc vậy. Và Ellsworth Toohey khẽ nói:
“Hãy nhìn xem. Một thành tựu tuyệt vời phải không? M t thành tựu anh hùng. Hãy nghĩ đến hàng ngàn người đã làm việc để tạo nên cái này và đến hàng triệu người hưởng lợi từ nó. Và người ta nói là nếu không có tinh thần của một vài cá thể, ở chỗ này chỗ khác trong lịch sử con người, nếu không có một vài cá thể đó – có lẽ còn ít hơn – thì những thứ này không thể trở thành hiện thực. Điều đó có thể là đúng. Nếu thế, sẽ có hai thái độ để thể hiện. Chúng ta có thể nói những cá thể này là những nhà hảo tâm vĩ đại, rằng chúng ta được nuôi sống bởi sự giàu có tinh thần đến thừa mứa của họ, và rằng chúng ta vui mừng đón nhận trong sự biết ơn và tình anh em. Hoặc chúng ta có thể nói rằng bằng những thành tựu huy hoàng của họ – và chúng ta chẳng bao giờ có thể đạt tới hay nắm được chúng – những cá thể này đã chỉ cho chúng ta thấy chúng ta là gì, rằng chúng ta không muốn những món quà miễn phí do sự hảo tâm của họ ban phát, rằng một cái hang bên một đầm lầy đầy bùn và một ngọn lửa tạo ra bằng cách chà các cành cây vào nhau còn thích hơn là các tòa nhà trọc trời và đèn nê-ông – nếu cái hang và những cành cây là giới hạn khả năng sáng tạo của chính chúng ta. Trong hai thái độ đó, Dominique, cô cho thái độ nào thực sự là thái độ vị nhân sinh? Vì, cô thấy đấy, tôi là một người vị nhân sinh.”[81]
*
* *
Sau một thời gian, Dominique thấy việc hòa hợp với mọi người trở nên dễ dàng hơn. Cô học cách chấp nhận sự tự tra tấn như một bài kiểm tra khả năng chịu đựng – cô tò mò muốn khám phá ra cô có thể chịu đựng được bao nhiêu. Cô di chuyển trong các buổi tiếp tân trang trọng, các bữa tiệc khai mạc nhạc kịch, các bữa tối, các dạ vũ – duyên dáng và luôn mỉm cười, một nụ cười khiến khuôn mặt cô sáng hơn và lạnh hơn, như mặt trời trong một ngày mùa đông. Cô lắng nghe một cách trống rỗng những lời trống rỗng mà người nói thốt ra như thể họ sẽ bị xúc phạm nếu như người đối thoại tỏ ra bất kỳ biểu hiện quan tâm nào, như thể sự buồn tẻ là thứ duy nhất có thể kết nối con người, là chất bảo quản duy nhất cho cái không khí trang trọng bấp bênh giữa họ. Cô gật đầu với mọi thứ và chấp nhận mọi thứ.
“Vâng, thưa ông Holt, tôi nghĩ Peter Keating là người đàn ông của thế kỷ này – thế kỷ của chúng ta.”
“Không, thưa ông Inskip, không phải Howard Roark, ông không muốn Howard Roark đâu... Một kẻ giả dối? Tất nhiên rồi, anh ta là một kẻ giả dối – cần phải có sự trung thực nhạy cảm mới có thể đánh giá được sự chính trực của một người... Không có gì nhiều sao? Không, thưa ông Inskip, tất nhiên rồi, Howard Roark chẳng là gì cả. Tất cả chỉ là một vấn đề của kích thước và khoảng cách – và khoảng cách... Không, tôi không hay nghĩ, ông Inskip ạ – tôi mừng là ông thích đôi mắt tôi – vâng, chúng luôn trông như thế khi tôi đang thấy vui vẻ – và tôi rất vui khi nghe ông nói là Howard Roark chẳng là gì.”
“Bà đã gặp Roark sao bà Jones? Và bà không thích anh ta?... Ồ, anh ta là loại người mà người ta không thể nảy sinh lòng trắc ẩn được sao? Quả là đúng làm sao. Lòng trắc ẩn là một điều tuyệt vời. Đó là điều người ta cảm nhận thấy khi người ta nhìn một con sâu bị nghiền nát. Một kinh nghiệm thăng hoa. Người ta có thể thả lỏng bản thân mình đi và trải lòng mình ra – bà biết đấy, như là cởi một chiếc thắt lưng ra vậy. Người ta không phải gồng dạ dày, trái tim hay tinh thần của mình lên – khi người ta cảm thấy lòng trắc ẩn. Tất cả những gì người ta phải làm là nhìn xuống. Như thế dễ hơn nhiều. Khi nhìn lên, người ta bị đau cổ. Lòng trắc ẩn là đức tính vĩ đại nhất. Nó biện minh cho sự chịu đựng. Phải có sự chịu đựng trên thế giới, nếu không làm sao chúng ta lại có thể cảm thấy tiết hạnh và lòng trắc ẩn được?... Ồ, dĩ nhiên là có một phản đề cho điều này – nhưng đấy thật là một phản đề khó khăn và khắt khe... Sự ngưỡng mộ, bà Jones ạ, sự ngưỡng mộ. Nhưng để có được sự ngưỡng mộ thì cần không chỉ một cái thắt lưng... Vì thế nên tôi nói rằng bất kỳ ai không thể khiến ta cảm thấy thương cảm thì người đó là một kẻ đồi bại. Như Howard Roark.”
Vào buổi đêm, cô thường đến phòng Roark. Cô đến mà không báo trước, biết chắn sẽ thấy anh ở đó, và một mình. Trong căn phòng của anh, không cần phải kiềm chế, nói dối, đồng tình hay tẩy rửa bản thân cô khỏi sự tồn tại. Ở đây cô được tự do chống đối, nhìn thấy sự chống đối của mình được chào đón bởi một đối thủ quá mạnh đến nỗi không thèm sợ sự đọ sức, thậm chí đủ mạnh để cần sự đọ sức; ở đây, cô tìm thấy một ý chí mà qua nó cô thấy sự tồn tại của bản thân mình được thừa nhận, một cách toàn vẹn và không thể bị sứt mẻ, ngoại trừ trong một trận chiến sạch sẽ mà dù thắng hay bại thì sự tồn tại ấy vẫn được bảo toàn nguyên vẹn chứ không phải bị nghiền nát thành những hạt bụi vô nhân dạng.
Khi họ cùng nhau nằm trên giường, đó là – như nó phải thế, như bản chất của hành động này đòi hỏi phải thế – một hành động bạo lực. Đó là sự đầu hàng – càng trở nên trọn vẹn bởi vì họ đã chống đối nó. Đó là một hành động chứa đầy căng thẳng, giống như những điều vĩ đại trên trái đất đều là những điều chứa đầy căng thẳng. Nó căng thẳng như điện – thứ năng lượng tạo ra do sự đối nghịch – chạy trên các dây dẫn kim loại được kéo căng; nó căng thẳng như như dòng nước được biến thành năng lượng khi bị một con đập chặn đứng lại. Sự đụng chạm của làn da anh lên làn da cô không phải là một sự vuốt ve mà là một làn sóng của sự đau đớn, nó trở thành nỗi đau đớn bởi nó được mong muốn quá nhiều, bởi nó giải tỏa trọn vẹn tất cả những giờ phút của khao khát và kìm nén trước đó. Đó là một hành động bao hàm cả những hàm răng nghiến chặt và của sự căm thù; đó là cái không thể chịu đựng được; đó là sự đau đớn cùng cực; đó là một hành động của niềm say mê – từ này sinh ra với hàm ý chịu đựng – đó là khoảnh khắc được tạo nên bởi sự căm thù, căng thẳng, đau đớn – khoảnh khắc phá tan chính những yếu tố bên trong nó, đảo lộn chúng, chiến thắng chúng và quét chúng vào một chỗ mà sự chịu đựng bị phủ nhận, vào cái đối lập, vào sự thăng hoa.
Cô đến phòng anh sau một bữa tiệc, mặc một chiếc váy dài buổi tối đắt tiền và mong manh như một lớp đá băng mỏng tang trám trên cơ thể cô – và cô dựa vào tường, cảm thấy lớp vữa sần dưới làn da mình, chậm rãi liếc nhìn mọi vật xung quanh cô, nhìn chiếc bàn bếp đầy những tấm giấy, nhìn những chiếc thước bằng thép, những chiếc khăn tắm bị lấm bẩn bởi những vết đen của năm ngón tay, nhìn những tấm ván trần trụi của sàn nhà – và cô để cho cái liếc nhìn của mình trượt dọc chiều dài lượt vải satanh đang tỏa sáng trên người cô, xuống cái hình tam giác nhỏ nhắn trên chiếc xăng-đan màu bạc, và cô nghĩ cô sẽ bị lột trần ra ở đây như thế nào. Cô thích đi loanh quanh trong căn phòng, ném những chiếc găng tay xuống giữa một đống bút chì, tẩy cao su và báo chí, để chiếc túi màu bạc nhỏ của cô lên một chiếc áo sơ mi bẩn đã bị bỏ đi, mở chốt cái vòng tay bằng kim cương đánh tách một cái và thả nó rơi xuống một chiếc đĩa đựng một mẩu bánh mì kẹp còn thừa, cạnh một bản vẽ dang dở.
“Roark,” cô nói, đứng đằng sau ghế của anh, hai cánh tay cô quàng quanh vai anh, bàn tay cô dưới áo sơ mi của anh, những ngón tay xòe rộng và áp lên ngực anh, “hôm nay em đã làm cho ông Symons phải hứa là giao công trình của ông ta cho Peter Keating. Ba mươi lăm tầng, và bất kỳ thứ gì anh ta muốn mà phải tiêu tốn tiền, tiền không phải là mục tiêu, chỉ nghệ thuật mà thôi, nghệ thuật tự do.”
Cô nghe thấy tiếng cười khẽ của anh, nhưng anh không quay sang để nhìn cô, chỉ có những ngón tay anh khép trên cổ tay cô và anh ấn bàn tay cô sâu hơn xuống dưới áo anh, áp mạnh nó lên da anh. Rồi cô kéo đầu anh ra sau, và cô cúi xuống để gắn miệng cô lên miệng anh.
Cô bước vào và thấy một bản của tờ Ngọn cờ trải trên bàn anh và được mở ở trang có mục Ngôi nhà của bạn do Dominique Francon viết. Cột báo của cô có dòng chữ: “Howard Roark là Hầu tước vùng Sade[82] của ngành kiến trúc. Anh ta phải lòng các tòa nhà – và nhìn chúng mà xem.” Cô biết là anh không thích tờ Ngọn cờ, rằng anh để nó ở đó chỉ vì cô, rằng anh quan sát cô nhận ra nó, với nụ cười nửa chừng mà cô sợ phải nhìn thấy trên mặt anh. Cô tức giận; cô muốn anh đọc mọi thứ cô viết, nhưng cô thích được nghĩ rằng những gì cô viết làm anh bị tổn thương đến mức anh tránh đọc nó. Sau đó, trong lúc nằm vắt ngang giường, với miệng anh trên ngực cô, cô nhìn qua mớ tóc rối bù màu cam trên đầu anh, vào trang giấy đó của tờ báo trên bàn, và anh cảm thấy người cô run lên vì khoái cảm.
Cô ngồi trên sàn nhà, ngay chỗ bàn chân anh, đầu cô áp vào đầu gối anh, cầm tay anh, lần lượt khép nắm tay mình quanh mỗi ngón tay anh, xiết chặt rồi để nó từ từ trượt theo chiều dài của ngón tay anh, cảm nhận những chỗ xương cứng ở các khớp ngón tay, và cô khẽ hỏi: “Roark, anh muốn có cái nhà máy của Colton, đúng không? Anh rất muốn nó phải không?”
“Phải, rất muốn,” anh trả lời, không cười và không đau đớn. Rồi cô nâng bàn tay anh lên môi cô và giữ nó ở đó một lúc lâu.
Cô ra khỏi giường trong bóng tối, và trần truồng đi ngang qua phòng anh để lấy một điếu thuốc lá từ trên bàn. Cô cúi xuống ánh lửa diêm, chiếc bụng phẳng của cô hơi cong lại trong giây lát đó. Anh nói: “Châm cho anh một điếu,” và cô đặt một điếu thuốc giữa hai môi anh; rồi cô đi vơ vẩn trong căn phòng tối, hút thuốc, trong khi anh nằm trên giường, chống người trên khuỷu tay, quan sát cô.
Một lần cô bước vào và thấy anh đang làm việc ở bàn. Anh nói: “Anh phải hoàn thành cái này. Em ngồi đi. Đợi anh.” Anh không nhìn cô lần nào nữa. Cô lặng lẽ chờ đợi, thu người trong một chiếc ghế ở góc xa nhất của căn phòng. Cô quan sát những đường thẳng của đôi lông mày anh cau lại vì sự tập trung; cô quan sát khuôn miệng anh, những mạch máu đang đập dưới làn da căng ở cổ anh, sự chắc chắn sắc nét của bàn tay anh. Anh trông không giống một nghệ sĩ, anh giống như một công nhân mỏ đá, như một người dỡ nhà đang kéo đổ những bức tường, và như một nhà sư. Lúc ấy cô không muốn anh dừng lại hay liếc nhìn cô, vì cô muốn quan sát sự thuần khiết khổ hạnh của con người anh, sự thiếu vắng của tất cả cảm giác nhục dục; cô quan sát điều đó – và nghĩ đến những gì mà cô vẫn nhớ.
Có những đêm anh đến căn hộ của cô, như cô đến căn hộ của anh – không hề báo trước. Nếu cô có khách, anh nói: “Dẹp họ đi.” và đi vào phòng ngủ trong lúc cô làm theo lời anh. Họ có một thỏa thuận ngầm, được hiểu mà không cần đề cập đến, là không bao giờ để bị trông thấy cùng nhau. Phòng ngủ của cô là một nơi trang nhã gồm toàn kính và một màu xanh của đá băng. Anh thích đến đó, vẫn mặc những quần áo đầy vết bẩn sau một ngày trên công trường xây dựng. Anh thích ném những tấm phủ giường của cô xuống cuối giường, rồi ngồi nói chuyện lặng lẽ trong một hay hai giờ, không nhìn vào chiếc giường, không đề cập đến bài viết của cô hay các tòa nhà hay công trình mới nhất cô đã kiếm cho Peter Keating. Sự thoải mái hoàn toàn của hai người, ở đây, như thế này, khiến cho những giờ ấy trở nên đầy lạc thú, hơn là những giây phút mà họ đang trì hoãn.
Có những buổi tối khi họ ngồi cùng nhau trong phòng khách của cô, ở chỗ cửa sổ lớn, cao phía trên thành phố. Cô thích nhìn thấy anh ở cái cửa sổ đó. Anh thường đứng, nửa quay về phía cô, hút thuốc, ngắm thành phố bên dưới. Cô thường bước ra xa khỏi anh để ngồi xuống trên sàn nhà, ngay giữa phòng và nhìn anh.
Một lần, khi anh ra khỏi giường, cô bật đèn lên và nhìn thấy anh đang đứng đó, trần truồng; cô ngắm nhìn anh, rồi cô nói, giọng cô khẽ và tuyệt vọng – một sự tuyệt vọng hoàn toàn chân thành.
“Roark, tất cả những gì em đã làm cả đời em chính là vì cái thế giới đã khiến anh phải làm việc ở một mỏ đá như mùa hè năm trước.”
“Anh biết điều đó.”
Anh ngồi xuống phía chân giường. Cô dịch sang, áp khuôn mặt mình lên đùi anh, cuộn người lại, hai bàn chân đặt lên chiếc gối, cánh tay cô buông thõng xuống, để lòng bàn tay cô di chuyển chầm chậm dọc chiều dài chân anh, từ cổ chân tới đầu gối và lại trở lại. Cô nói: “Nhưng tất nhiên, nếu điều đó phụ thuộc vào em, thì mùa xuân năm ngoái, khi anh không một xu dính túi và thất nghiệp, em cũng sẽ gửi anh tới làm đúng việc đó ở đúng cái mỏ đá đó.”
“Anh cũng biết điều đó. Nhưng có thể em sẽ không làm thế đâu. Có thể em sẽ biến anh thành người phục vụ phòng rửa mặt trong câu lạc bộ của Hiệp hội Kiến trúc sư Hoa Kỳ.”
“Vâng. Có thể. Đặt tay anh lên lưng em đi, Roark. Cứ để nó đấy. Như thế.”
Cô nằm im, mặt vùi vào đầu gối anh, cánh tay cô buông xuống bên giường, bất động, như thể không có gì trong cô còn sống, ngoại trừ phần da giữa hai bả vai cô, dưới bàn tay anh.
Trong những phòng khách mà cô đến thăm, trong các nhà hàng, trong các văn phòng của Hiệp hội Kiến trúc sư Hoa Kỳ, người ta bàn tán về việc cô Dominique Francon của tờ Ngọn cờ không ưa gì Howard Roark, cái tay kiến trúc sư đồng bóng của Roger Enright. Chuyện này mang lại cho anh một kiểu nổi tiếng bất đắc dĩ. Người ta nói “Roark hả? Anh biết đấy, cái gã mà Dominique Francon ghét cay ghét đắng.” “Tiểu thư nhà Francon biết rõ về kiến trúc, và nếu cô ấy nói anh ta không ra gì thì tức là anh ta còn tệ hơn nhiều so với những gì tôi nghĩ.” “Chúa ơi, nhưng hai người đó hẳn là căm ghét nhau lắm! Mặc dù tôi biết là họ thậm chí chưa gặp mặt nhau kia.” Cô thích nghe thấy những điều đó. Cô thấy hài lòng khi Athelstan Beasely, trong bài báo của anh ta đăng trên Bản tin A.G.A. đã bàn về kiến trúc của những tòa lâu đài thời Trung cổ như sau: “Để hiểu được cái đáng sợ của những công trình kiến trúc này chúng ta phải nhớ rằng những cuộc chiến giữa các lãnh chúa phong kiến là rất khốc liệt – nó cũng giống như là mối cừu hận giữa cô Dominique Francon và ông Howard Roark.”
Austen Heller, người đã từng là bạn cô, đã nói chuyện với cô. Cô chưa từng thấy ông tức giận như thế bao giờ; khuôn mặt ông mất hẳn tất cả vẻ duyên dáng mà sự bình thản mai mỉa thường trực mang lại.
“Cô nghĩ cô đang làm cái quái gì thế hả Dominique?” ông rít lên. “Đây là sự phô bày kinh tởm nhất cho cái thói côn đồ báo chí mà tôi từng thấy trên các thể loại truyền thông. Sao cô không để cái trò đó cho Ellsworth Toohey?”
“Ellsworth rất tuyệt, đúng không?” cô nói.
“Chí ít lão ta cũng đủ lịch sự để giữ cho cái mõm bẩn thỉu của lão không nói động đến Roark – mặc dù, tất nhiên, như thế cũng đã là một sự bẩn thỉu rồi. Nhưng mà chuyện gì đã xảy ra với cô vậy? Cô có nhận ra mình đang nói về ai và về cái gì không đấy? Cũng còn chấp nhận được khi cô tự giải trí bằng cách ca tụng cái công trình rơi vãi nào đó của lão già Holcombe hoặc tụt quần chính cha cô cùng với cái thằng nhóc đỏm dáng như giai chụp ảnh lịch mà ông ta lấy làm cộng sự. Đằng nào thì mấy chuyện đó cũng chẳng ý nghĩa gì. Nhưng cô mang cái lối ấy ra để đánh giá một người như Roark... Cô biết không, tôi thực sự đã nghĩ là cô có sự chính trực và óc xét đoán – nếu như người ta cho cô một cơ hội để thể hiện chúng. Thực tế tôi đã từng nghĩ cô cư xử như một con chó động đực là để làm nổi rõ sự tầm thườ ng của những kẻ ngu dốt mà cô cứ phải viết về các tác phẩm của chúng. Tôi đã không nghĩ rằng thực ra cô chỉ là một con chó cái vô trách nhiệm.”
“Thế thì ông đã nhầm.” cô nói.
Roger Enright bước vào văn phòng của cô một buổi sáng, và nói mà không hề chào hỏi:
“Lấy mũ của cô đi. Cô sẽ đi xem nó với tôi.”
“Chào Roger.” cô nói. “Xem cái gì cơ?”
“Tòa nhà Enright. Xem những gì đã được xây đến giờ.”
“Ồ, tất nhiên rồi Roger,” cô mỉm cười, đứng dậy, “tôi rất muốn xem tòa nhà Enright.”
Trên đường đi cô hỏi: “Có chuyện gì thế Roger? Định hối lộ tôi?”
Ông ngồi cứng nhắc trên những tấm nệm lớn màu xám trong chiếc xe Limousine của mình, không nhìn cô. Ông trả lời: “Tôi có thể hiểu được sự độc ác do ngu ngốc. Tôi có thể hiểu sự độc ác do dốt nát. Tôi không thể hiểu được sự đồi bại có chủ tâm. Dĩ nhiên cô được tự do viết bất kỳ thứ gì cô muốn. Nhưng đó sẽ không phải là do ngu ngốc và đó sẽ không phải là do dốt nát.”
“Ông đánh giá tôi quá cao đấy Roger ạ,” cô nhún vai, và chẳng nói gì nữa trong phần còn lại của chuyến đi.
Họ cùng đi bộ qua cái hàng rào gỗ, vào khu rừng của thép trần và các tấm ván sắp trở thành tòa nhà Enright. Những gót giày cao của cô bước nhẹ nhàng trên các tấm ván bắn đầy vôi và cô bước đi, người ngửa ra sau, trong một sự tao nhã vô tư lự, đầy ngạo mạn. Cô dừng lại và ngắm nhìn bầu trời đóng trong một khung thép, bầu trời dường như xa hơn thường lệ, bị đẩy về phía sau bởi chiều dài cực lớn của các thanh xà. Cô ngắm những cái cốt thép sắp được dựng lên trong tương lai, ngắm những góc cạnh ngạo mạn, ngắm sự phức tạp đến khó tin của cái hình khối này, cái hình khối sắp được sinh ra với tư cách một chỉnh thể đơn giản, lô-gic, một bộ khung trần trụi với những mặt phẳng không khí tạo nên các bức tường, một bộ khung trần trụi trong một ngày mùa đông lạnh lẽo, với một cảm giác về sự sinh sôi và hứa hẹn, giống như một cái cây trơ trụi chỉ có một đốm nhỏ màu xanh.
“Ôi, Roger!”
Ông nhìn cô và thấy nét mặt mà người ta thấy trong các nhà thờ vào ngày lễ Phục sinh.
“Tôi không đánh giá thấp cả hai,” ông nói khô khan. “Cả cô lẫn tòa nhà.”
“Xin chào,” một giọng trầm, mạnh mẽ vang lên bên cạnh họ.
Cô không bị sốc khi nhìn thấy Roark. Cô đã không nghe thấy anh đến gần, nhưng thật không bình thường nếu nghĩ đến tòa nhà này mà không nghĩ đến anh. Cô cảm thấy đơn giản là anh đang ở kia, rằng anh đã ở đó từ cái giây phút cô băng qua hàng rào phía ngoài, rằng cái cấu trúc này là anh, theo một cách riêng tư hơn cả cơ thể anh. Anh đứng trước mặt họ, bàn tay anh thọc vào túi một chiếc áo khoác rộng, đầu không đội mũ trong giá lạnh.
“Đây là cô Francon – đây là anh Roark,” Enright nói.
“Chúng tôi đã gặp nhau một lần rồi,” cô nói, “ở nhà Holcombe. Nếu anh Roark còn nhớ.”
“Tất nhiên rồi, cô Francon,” Roark nói.
“Tôi muốn cô Francon nhìn thấy nó,” Enright nói.
“Tôi dẫn hai người đi xem được chứ?” Roark hỏi Enright.
“Vâng, xin mời.” Dominique cướp lời.
Ba người cùng đi bộ qua công trình, và các công nhân chằm chằm nhìn Dominique một cách tò mò. Roark giải thích cách bố trí những căn phòng trong tương lai, hệ thống các thang máy, thiết bị sưởi, cách bố trí các cửa sổ – giống như anh giải thích cho một trợ lý của nhà thầu vậy. Cô đặt ra các câu hỏi còn anh trả lời.
“Không gian bao nhiêu mét khối, anh Roark?”
“Bao nhiêu tấn thép?”
“Cẩn thận những cái ống này đấy cô Francon. Bước theo lối này này.”
Enright bước theo, mắt ông nhìn xuống mặt đất, chẳng quan sát gì cả. Nhưng rồi ông hỏi: “Thế nào rồi Howard?” và Roark mỉm cười, trả lời: “Trước kế hoạch hai ngày,” và họ đứng trò chuyện về công việc, như những người anh em, quên mất cô trong một lát, những tiếng rền vang của máy móc xung quanh át cả những lời họ nói.
Cô nghĩ, khi đang đứng ở chính giữa tòa nhà, rằng nếu cô chẳng có gì của anh, chẳng có gì ngoại trừ cơ thể anh, thì phần còn lại của anh ở chính đây, mở toang cho cô nhìn và chạm vào, mở toang cho tất cả những người khác nữa – những xà nhà, những đường cáp và những khoảng không gian rộng lớn là của anh và không thể là của ai khác trên thế giới này; của anh, như khuôn mặt anh, như tâm hồn anh; đây chính là cái hình khối anh đã tạo ra và là cái tồn tại trong con người anh – cái khiến anh có khả năng tạo nên hình khối này, đây là nguyên nhân và kết quả cùng tồn tại trong một thực thể, là cái động lực sinh sôi tiềm ẩn trong mỗi thanh thép; đây là cái tôi của một con người, là cái tôi của cô vào khoảnh khắc này – của cô vì cô đã nhìn thấy nó và hiểu nó.
“Cô mệt à, cô Francon?” Roark hỏi, nhìn vào mặt cô.
“Không,” cô nói, “không, không mệt chút nào. Tôi đang nghĩ – anh định dùng loại thiết bị nước nào ở đây vậy anh Roark?”
Vài ngày sau, trong phòng anh, ngồi trên mép chiếc bàn vẽ của anh, cô nhìn vào một tờ báo, vào cột báo của cô và những dòng chữ: “Tôi đã đến thăm địa điểm xây dựng tòa nhà Enright. Tôi ước gì một cuộc oanh tạc nào đó trong tương lai sẽ thả một quả bom làm nổ tung tòa nhà này, để nó biến mất khỏi mặt đất. Đó sẽ là một kết cục xứng đáng. Như thế sẽ tốt hơn nhiều so với việc phải thấy nó trở nên cũ kỹ và bám đầy bồ hóng, xuống cấp cùng những bức ảnh gia đình, những chiếc tất bẩn, những hộp pha cốc-tai và vỏ bưởi của những người sống trong tòa nhà đó. Không nên cho phép bất cứ một ai ở thành phố New York sống trong tòa nhà này.”
Roark đến đứng bên cạnh cô, đôi chân anh áp vào đầu gối cô, và anh cúi nhìn tờ báo, mỉm cười.
“Em làm cho Roger hoàn toàn hoang mang vì bài báo này,” anh nói.
“Ông ấy đã đọc nó rồi à?”
“Anh ở văn phòng ông ấy sáng nay khi ông ấy đọc nó. Đầu tiên, ông ấy gọi em bằng những cái tên anh chưa từng nghe thấy. Rồi ông ấy nói, khoan đã, và đọc lại nó, ông ấy nhìn lên, rất hoang mang nhưng không tức giận chút nào, và ông ấy nói nếu đọc nó theo một cách... nhưng nếu đọc theo cách khác...”
“Thế anh đã nói gì?”
“Chẳng gì cả. Em biết đấy, Dominique, anh rất cảm ơn, nhưng đến khi nào em mới thôi dành cho anh những mỹ từ to lớn như thế? Một ai đó có thể phát hiện ra. Và em sẽ không thích thế đâu.”
“Một ai đó?”
“Em biết là anh đã hiểu, từ bài báo đầu tiên của em về tòa nhà Enright. Em đã muốn anh nhận ra những gì em viết. Chả lẽ em không nghĩ là có ai đó khác cũng có thể hiểu được cách làm của em à?”
“Vâng. Nhưng mà nếu họ hiểu thì hậu quả với anh sẽ tồi tệ hơn nhiều. Nếu họ hiểu, họ sẽ căm ghét anh hơn. Tuy nhiên em không biết ai là người để tâm đến chuyện này. Trừ khi đó là... Roark, anh nghĩ gì về Ellsworth Toohey?”
“Vì Chúa, tại sao lại phải nghĩ về Ellsworth Toohey?”
Cô thích những dịp hiếm hoi khi cô gặp Roark tại một bữa tiệc mà Heller hoặc Enright đưa anh tới. Cô thích cái tiếng “Cô Francon” lịch sự, lạnh lùng mà giọng anh phát ra. Cô thích thú khi thấy các chủ nhà tỏ ra hết sức lo lắng và cố gắng để cho hai người không chạm mặt nhau. Cô biết tất cả mọi người xung quanh họ đều mong đợi một trận chiến, một biểu hiện thù địch khó coi nào đó nhưng nó chẳng bao giờ tới. Cô không tìm kiếm Roark và cũng không tránh mặt anh. Họ nói chuyện với nhau nếu họ tình cờ bị đưa vào cùng một nhóm, giống như họ nói chuyện với bất kỳ ai khác. Việc đó chẳng đòi hỏi cố gắng nào cả; nó rất thực và phải phép, nó khiến mọi thứ trở nên phải phép, thậm chí cả bữa tiệc này. Cô tìm thấy một ý nghĩa sâu xa của sự hòa hợp chính nhờ vào cái thực tại là ở đây, giữa mọi người, họ được coi là những người xa lạ – xa lạ và thù địch. Cô nghĩ, những người này có thể suy đoán rất nhiều về quan hệ giữa anh và cô – ngoại trừ quan hệ thực giữa anh và cô. Nó khiến cho những giây phút giữa hai người trở nên to lớn hơn – những giây phút không bị chạm vào bởi cái nhìn của những kẻ khác, bởi lời nói của những kẻ khác, thậm chí không cả bởi sự suy đoán của họ. Cô nghĩ, cái đó không tồn tại ở đây, ngoại trừ tồn tại trong cô và trong anh. Cô cảm thấy một cảm giác chiếm hữu mà cô không thể cảm nhận ở bất kỳ nơi nào khác. Cô không bao giờ có thể sở hữu anh như cô sở hữu anh trong một căn phòng giữa những người lạ mặt, khi mà cô hiếm khi nào nhìn về hướng của anh.
Nếu cô liếc nhìn anh ngang qua căn phòng và thấy anh trò chuyện với những khuôn mặt thờ ơ, trống rỗng, cô quay đi, không quan tâm; nếu những khuôn mặt đó thù nghịch, cô quan sát một giây, hài lòng; cô tức giận khi cô thấy một nụ cười, một dấu hiệu của sự yêu mến hay đồng tình trên một gương mặt đang hướng về phía anh. Đó không phải là sự ghen tuông; cô không quan tâm liệu gương mặt đó là một người đàn ông hay một người đàn bà; cô tức giận vì sự đồng tình kia ám chỉ sự chia sẻ.
Cô bị hành hạ bởi những thứ vụn vặt: bởi con phố nơi anh sống, bởi bậc cửa nhà anh, bởi những chiếc xe hơi rẽ vào góc phố anh ở. Cô đặc biệt phẫn nộ với những chiếc xe hơi; cô ước gì cô có thể khiến chúng lái tiếp tới khu phố tiếp theo. Cô nhìn cái thùng rác trên bậc cửa nhà bên, và tự hỏi liệu nó có đứng đó khi anh đi qua, trên đường đến văn phòng vào sáng nay hay không, liệu anh có nhìn cái hộp thuốc lá nhàu nhĩ bên trên nó không.
Một lần, trong hành lang nhà anh, cô nhìn thấy một người đàn ông bước ra khỏi chiếc thang máy, cô bị sốc một giây; cô đã luôn cảm thấy như thể anh là cư dân duy nhất của ngôi nhà đó. Khi cô đi lên trong chiếc thang máy nhỏ tự động, cô đứng dựa vào tường, hai tay bắt chéo qua ngực, hai bàn tay ôm lấy hai vai, cảm thấy co ro và riêng tư như trong một căn buồng dưới một chiếc vòi hoa sen nước ấm vậy.
Cô nghĩ về điều đó trong lúc một quý ông nào đó đang kể cho cô về buổi trình diễn mới nhất ở rạp Broadway, trong khi Roark đang nhấm nháp một ly cốc-tai ở đầu kia của căn phòng, trong khi cô nghe thấy bà chủ nhà thì thầm với một ai đó rằng: “Lạy Chúa tôi, tôi không nghĩ là Gordon sẽ đưa Dominique đến – tôi biết Austen sẽ rất giận tôi, bởi vì cậu Roark bạn ông ta cũng ở đây, anh biết đấy.”
Sau đó, khi nằm vắt ngang trên giường anh, hai mắt nhắm lại, hai má ửng đỏ, đôi môi ẩm ướt, rũ bỏ hết cảm giác về những quy tắc mà cô tự áp đặt lên mình, rũ bỏ hết cảm giác về những lời nói của mình, cô thì thầm: “Roark, có một người đàn ông nói chuyện với anh hôm nay, và ông ta cười với anh, đồ ngốc, đồ ngu ngốc kinh tởm, tuần trước ông ta đi xem hai diễn viên hài và ông ta cũng thích họ; em đã muốn bảo lão ấy: đừng nhìn anh ấy, ông sẽ không còn quyền muốn nhìn gì thì nhìn nữa, đừng có thích anh ấy, ông sẽ phải căm thù cả phần còn lại của thế giới đấy, thế đấy, đồ ngu ngốc, hoặc cái này hoặc cái kia, không thể cả hai thứ cùng lúc được, không thể nhìn chúng như nhau được, đừng nhìn anh ấy, đừng thích anh ấy, đừng tán thành, đó là điều em muốn nói với ông ta, ông ta và cả cái đám người còn lại nữa, em không thể chịu đựng khi nhìn thấy thế, em không thể chịu đựng được điều đó, bất kỳ thứ gì tách anh xa khỏi nó, khỏi thế giới của họ, khỏi tất cả bọn họ, bất kỳ thứ gì, Roark ạ...” Cô không nghe thấy những lời cô đang nói, cô không nhìn thấy anh đang mỉm cười, cô không nhận ra sự thấu hiểu trọn vẹn trên khuôn mặt anh, cô chỉ nhìn thấy khuôn mặt anh kề sát khuôn mặt cô, và cô chẳng có gì phải giấu anh, chẳng có gì không thể nói ra, mọi thứ đều được chấp nhận, được giải đáp, được tìm thấy.
*
* *
Peter Keating hoang mang. Sự tận tụy đột ngột của Dominique đối với sự nghiệp của anh dường như thật đáng kinh ngạc, đáng vui mừng, và lại mang lại lợi ích to lớn; mọi người đều bảo anh vậy; nhưng có những lúc anh không cảm thấy kinh ngạc, không cảm thấy vui mừng; anh cảm thấy bất an.
Anh cố tránh mặt Guy Francon. “Làm thế nào mà cậu làm thế được hả Peter? Cậu làm thế nào vậy?” Francon sẽ hỏi như vậy. “Con bé hẳn là phát điên lên vì cậu! Ai mà nghĩ rằng chính Dominique chứ không phải ai khác...? Và ai mà nghĩ là con bé có thể làm thế...? Nó đã khiến tôi thành triệu phú rồi nếu nó làm việc đấy năm năm trước. Nhưng mà, tất nhiên, một người cha thì không thể là nguồn cảm hứng giống như một...” Ông bắt gặp một cái nhìn tăm tối trên mặt Keating và thay đổi đoạn kết của câu nói thành “như là người đàn ông của nó, chúng ta có thể nói thế không nhỉ?”
“Nghe này, bác Guy,” Keating cất tiếng rồi dừng lại, thở dài, và lẩm bẩm: “Xin bác, bác Guy, chúng ta không được...”
“Tôi biết, tôi biết, tôi biết mà. Chúng ta không được hấp tấp. Nhưng quỷ tha ma bắt, Peter, entre-nous[83] giữa hai chúng ta với nhau, chuyện đó chẳng phải đã công khai như một cuộc đính hôn rồi hay sao? Thậm chí còn hơn thế. Và ồn ào hơn ý chứ.” Rồi nụ cười biến mất, và khuôn mặt Francon trông ân cần, thanh thản, thật sự già nua – đấy là một trong những khoảnh khắc hiếm hoi mà phẩm chất đích thực của ông lóe lên. “Tôi thấy mừng, Peter ạ,” ông nói một cách giản dị. “Đó là điều tôi đã muốn xảy ra. Tôi đoán là suy cho cùng, tôi luôn yêu quý Dominique. Tôi rất hạnh phúc. Tôi biết tôi sẽ giao con bé vào một chỗ tin cậy được. Con bé và mọi thứ khác nữa...”
“Thứ lỗi cho cháu. Cháu đang vội kinh khủng – cháu chỉ ngủ có hai tiếng đêm qua, nhà máy Colton, bác biết đấy, Chúa ơi, thật là một công trình lớn! – cũng nhờ có Dominique – nó là thứ giết người, nhưng bác hãy đợi đến khi bác nhìn thấy nó! Đợi đến khi bác nhìn thấy tờ séc nữa!”
“Con bé thật tuyệt, phải không? Hãy nói cho tôi nghe, tại sao nó lại làm thế? Tôi đã hỏi nó và tôi chẳng thể hiểu đầu đuôi những điều nó nói ra sao cả, nó nói với tôi những chuyện tào lao điên rồ nhất, cậu biết kiểu nói chuyện của nó đấy.”
“À, chúng ta nên để ý, chừng nào mà cô ấy còn làm thế!”
Anh không thể nói cho Francon biết rằng anh không có câu trả lời; anh không thể thú nhận được là anh chưa gặp Dominique một mình suốt nhiều tháng trời; rằng cô từ chối gặp anh.
Anh còn nhớ cuộc trò chuyện riêng cuối cùng với cô – trong xe tắc-xi trên đường về từ buổi họp do Toohey tổ chức. Anh còn nhớ sự bình tĩnh lạnh lùng trong những lời lăng mạ cô dành cho anh – sự khinh miệt cùng cực khiến cho những lời lăng mạ được thốt ra mà không có dấu hiệu của giận dữ. Anh đã chờ đợi bất kỳ điều gì sau đó – ngoại trừ việc thấy cô trở thành người ủng hộ anh, thành người phát ngôn cho anh, thậm chí gần như là – người dắt khách cho anh. Đây chính là chỗ không ổn – anh tự nhủ – bởi vì mình có thể nghĩ ra những từ như “dắt khách” khi nghĩ về chuyện đó.
Anh đã thấy cô thường xuyên kể từ khi cô bắt đầu chiến dịch tình nguyện của cô; anh đã được mời đến những bữa tiệc của cô – và được giới thiệu tới những khách hàng tương lai của mình; nhưng cô chưa bao giờ cho phép anh ở một mình với cô dù chỉ một giây. Anh đã cố cảm ơn cô và chất vấn cô. Nhưng anh không thể cố ép một cuộc trò chuyện khi cô không muốn tiếp chuyện, trong lúc một đám khách tò mò xúm xít khắp xung quanh họ. Vì thế anh tiếp tục mỉm cười ngọt ngào – bàn tay cô đặt hờ hững trên ống tay áo đen của chiếc áo vét-tông ăn tối của anh, đùi cô hơi tựa lên đùi anh khi cô đứng cạnh anh, dáng điệu sở hữu và thân mật – trông nó càng thân mật bởi cô làm ra vẻ không hề nhận biết điều đó trong lúc cô nói cho cả một vòng người ngưỡng mộ đứng quanh cô những gì cô nghĩ về tòa nhà Cosmo-Slotnick. Anh nghe thấy những nhận xét ghen tỵ từ tất cả bạn bè của mình. Anh là người duy nhất ở thành phố New York – anh cay đắng tự nhủ – không nghĩ rằng Dominique Francon yêu anh.
Nhưng anh biết sự thất thường nguy hiểm trong những ý thích của cô, và đây là một ý thích quá có giá, cho nên anh không thể làm xáo trộn nó. Anh tránh xa cô và gửi hoa cho cô; anh để mình trôi tự do theo ý thích ấy và cố không nghĩ về nó; chỉ có một chút gợn trong suy nghĩ là vẫn còn – cái gợn mỏng manh về sự bất ổn.
Một ngày nọ, anh tình cờ gặp cô trong một nhà hàng. Anh thấy cô đang ăn trưa một mình và nắm lấy cơ hội đó. Anh đi thẳng đến bàn cô, quyết tâm cư xử như một người bạn cũ chẳng nhớ gì ngoài lòng tốt không thể tin được được của cô. Sau nhiều lời nhận xét vui vẻ về may mắn của mình, anh hỏi: “Dominique sao em lại từ chối gặp anh?”
“Em gặp anh để làm gì nhỉ?”
“Nhưng vì Chúa toàn năng!...” Lời nói đó buột ra vô tình, với một âm thanh quá gay gắt, biểu thị một tức giận bị kìm hãm đã lâu, và anh vội vàng chữa lại, mỉm cười: “Thì, em không nghĩ là em nợ anh một cơ hội được cảm ơn em à?”
“Anh đã cảm ơn em rồi. Nhiều lần.”
“Ừ, nhưng em không nghĩ là chúng ta thực sự phải gặp riêng hay sao? Em không nghĩ rằng anh hơi... hoang mang hay sao?”
“Em chưa nghĩ đến điều đó. Vâng, em cho là anh sẽ có thể như thế.”
“Rồi sao?”
“Rồi sao cái gì?”
“Rút cục những chuyện này là thế nào?”
“Là... cho đến giờ thì là năm mươi nghìn đô la, em nghĩ thế.”
“Em đang tàn nhẫn đấy.”
“Muốn em dừng lại không?”
“Ồ không! Tức là, không phải...”
“Không phải là các công trình. Được thôi. Em sẽ không dừng chúng lại. Anh thấy chưa? Chúng ta đã có chuyện gì để nói cơ chứ? Em đang làm nhiều việc cho anh và anh thì hài lòng là em làm những việc ấy – và như thế chúng ta hoàn toàn đồng ý với nhau.”
“Em quả là biết nói những chuyện hài hước nhất trên đời! Hoàn toàn đồng ý. Cái này vừa thừa, lại vừa thiếu, đúng không? Chúng ta còn có thể cư xử thế nào trong hoàn cảnh này? Em không hy vọng là anh phải phản đối những gì em đang làm, đúng không?
“Không, em không hy vọng.”
“Nhưng đồng ý không phải là từ diễn tả điều anh cảm nhận. Anh biết ơn em rất nhiều, đến mức anh thấy choáng váng – anh bị nốc-ao – nào, đừng để anh bắt đầu nói chuyện ngớ ngẩn, anh biết em không thích thế – nhưng anh quá biết ơn em, đến nỗi anh không biết phải làm gì với bản thân mình nữa.”
“Tốt, Peter. Giờ thì anh đã cảm ơn em rồi đấy.”
“Em thấy đấy, anh chưa bao giờ dám nghĩ rằng em đánh giá cao hoặc quan tâm hoặc là để ý một tí nào đến công việc của anh. Thế mà rồi em... Đó là điều khiến anh rất hạnh phúc và... Dominique,” anh hỏi và giọng anh hơi đứt quãng, vì câu hỏi như một cái móc đang kéo căng một sợi dây dài, khuất, và anh biết nó dẫn tới cốt lõi cái cảm giác bất ổn trong anh, “em có thực sự nghĩ là anh là một kiến trúc sư lớn không?”
Cô mỉm cười chậm rãi. Cô nói: “Peter, nếu người ta nghe thấy anh hỏi thế, họ sẽ cười đấy. Đặc biệt là lại hỏi em.”
“Ừ, anh biết, nhưng... nhưng em có thực sự nghĩ thế không, những thứ mà em nói về anh?”
“Chúng có tác dụng.”
“Ừ, nhưng có phải đó là lý do em chọn anh? Vì em nghĩ anh giỏi?”
“Công việc của anh đang rất chạy. Đó không phải là bằng chứng hay sao?”
“Ừ... Không... Ý anh là... theo một nghĩa khác... Ý anh là... Dominique này, anh muốn nghe em nói một lần, chỉ một lần thôi, rằng anh...”
“Nghe này, Peter, em sẽ phải đi bây giờ, nhưng trước khi đi em phải nói với anh là bà Lonsdale có thể sẽ gọi anh vào ngày mai hoặc ngày kia. Hãy nhớ rằng bà ấy là một người ủng hộ những gì cấm kỵ, yêu chó, ghét phụ nữ hút thuốc, và tin vào sự đầu thai. Bà ấy muốn nhà bà ấy đẹp hơn là nhà bà Purdee – Holcombe thiết kế nhà của Purdee – vì thế nếu anh nói với bà ấy là nhà bà Purdee trông phô trương và rằng sự đơn giản thực sự tốn nhiều tiền hơn nhiều thì mọi việc sẽ ổn. Anh có thể tán chuyện về đồ thêu dùng kim mũi nhỏ nữa. Đó là sở thích của bà ấy.”
Anh bước đi, sung sướng nghĩ về ngôi nhà của bà Lonsdale, và anh quên mất câu hỏi của mình. Về sau, anh nhớ ra nó một cách tức tối, và anh nhún vai tự bảo mình rằng cái tốt nhất trong những gì Dominique làm để giúp anh chính là việc cô ta không muốn gặp anh.
Như một sự bù đắp, anh tìm thấy vui thú trong việc tham dự những buổi gặp mặt của Hội đồng Các nhà Xây dựng Hoa Kỳ do Toohey dựng lên. Anh không biết vì sao anh lại nghĩ về nó như một sự bù đắp, nhưng anh quả có nghĩ như thế và điều đó làm anh yên tâm. Anh lắng nghe chăm chú khi Gordon L. Prescott phát biểu về ý nghĩ của ngành kiến trúc.
“Và vì thế ý nghĩa nội tại của nghề của chúng ta nằm ở cái thực tế triết học rằng chúng ta làm việc với cái trống rỗng. Chúng ta tạo nên khoảng trống rỗng mà trong đó những cơ thể vật lý chuyển động – để tiện lợi, chúng ta sẽ tạm gọi những cơ thể đó là con người. Và khi nói đến khoảng trống rỗng, ý tôi nói tới cái mà người ta vẫn thường gọi là các căn phòng. Như vậy, chỉ có kẻ thiếu chuyên môn ngu ngốc mới nghĩ là chúng ta xây nên những bức tường đá. Chúng ta không hề làm chuyện đó. Chúng ta dựng nên khoảng trống, như tôi đã chứng minh. Điều này dẫn chúng ta tới một hệ quả có tầm quan trọng cực lớn: tới việc thừa nhận vô điều kiện giả thuyết rằng ‘sự không có’ còn siêu việt hơn ‘sự có’. Nghĩa là, tới việc chấp nhận cái không-được-chấp-nhận. Tôi sẽ nói điều này bằng những từ ngữ đơn giản hơn – để làm rõ hơn mọi việc: ‘cái-không-gì-cả’ là siêu việt hơn ‘cái-có-gì-đó’. Vì thế, rõ ràng là người kiến trúc sư không chỉ là một người đi đặt những viên gạch – vì thực tế của những viên gạch dù gì cũng chỉ là một ảo tưởng thứ cấp. Kiến trúc sư là một linh mục siêu hình học, người làm việc với những thứ thuộc về bản chất, người có cam đảm để đối mặt với cái khái niệm nguyên thủy của thực-tại như là giả-thực-tại – bởi vì có cái-không-gì-cả và anh ta tạo ra cái thực-thể-không-gì-cả. Nếu điều này nghe có vẻ như một nghịch lý thì nó không phải là một bằng chứng của sự thiếu lô-gíc, mà là của một siêu lô-gíc – đấy là phép biện chứng của tất cả cuộc sống và nghệ thuật. Nếu anh dùng khái niệm cơ bản này trong các phép suy luận tất yếu, anh có thể đi đến những kết luận có tầm quan trọng to lớn về xã hội. Anh có thể thấy rằng một người phụ nữ đẹp không ưu việt bằng một người không-đẹp, rằng người biết đọc biết viết thì không ưu việt bằng người mù chữ, rằng người giàu có không ưu việt bằng người nghèo, và người có năng lực không bằng người kém năng lực. Kiến trúc sư là một minh họa cụ thể của một nghịch lý vĩ đại. Chúng ta hãy khiêm tốn trong niềm tự hào vĩ đại khi nhận ra điều này. Mọi thứ khác đều là chuyện nhảm nhí.”
Người ta không thể lo lắng về giá trị bản thân hay về sự vĩ đại khi lắng nghe điều này. Nó khiến cho sự tự tôn trở nên không cần thiết.
Keating lắng nghe với sự thỏa mãn tràn ngập. Anh liếc nhìn những người còn lại. Có một sự im lặng chăm chú trong khán giả; tất cả họ đều thích nó như anh thích vậy. Anh thấy một anh chàng đang nhai kẹo cao su, một người đàn ông kị móng tay mình bằng mép của một tập tài liệu bằng bìa cứng, một cậu trai trẻ vươn vai một cách thô lỗ. Cái đó cũng làm Keating hài lòng; cứ như thể họ nói: Chúng ta vui mừng lắng nghe những điều siêu phàm, nhưng không cần phải quá cung kính trước những điều siêu phàm.
Hội đồng những Nhà Xây dựng Hoa Kỳ họp mặt mỗi tháng một lần và không tham gia vào một hoạt động cụ thể nào cả, ngoài việc nghe các bài diễn văn và nhấm nháp một loại bia rẻ tiền. Thành viên của nó không tăng nhanh cả về chất lượng và số lượng. Nó không có một thành tựu cụ thể nào cả.
Những buổi gặp mặt của Hội đồng được tổ chức trong một căn phòng lớn, bỏ không, bên trên một gara ở phía Tây thành phố. Một cầu thang dài, hẹp, không được thông hơi, dẫn đến một cánh cửa có ghi tên Hội đồng; bên trong có những chiếc ghế gấp, một chiếc bàn cho chủ tịch và một thùng rác. Hiệp hội Kiến trúc sư Hoa Kỳ coi Hội đồng những Nhà Xây dựng Hoa Kỳ là một trò đùa ngu xuẩn. “Mất thời gian với mấy trò họp hành vô bổ đó làm gì?” Trong những căn phòng thắp sáng trưng, đầy những vải lụa của Hiệp hội Kiến trúc sư Hoa Kỳ, Francon hỏi Keating câu đó, mũi ông chun lại với một vẻ thích thú khinh khỉnh. “Cháu mà biết thì đã tốt” Keating trả lời vui vẻ. “Cháu thích chúng.” Ellsworth Toohey tham dự mọi buổi họp mặt của Hội đồng, nhưng không phát biểu. Ông ngồi trong một góc và lắng nghe.
Một đêm Keating và Toohey đi bộ về nhà cùng nhau sau cuộc họp mặt. Họ đi qua những đường phố tối, tồi tàn của khu phía Tây, và dừng lại để uống một tách cà phê ở một hiệu thuốc xơ xác. “Hiệu thuốc thì đã sao nào?” Toohey cười lớn khi Keating nhắc ông về những nhà hàng đã trở nên nổi tiếng nhờ sự xuất hiện thường xuyên của ông. “Ít nhất thì ở đây sẽ không ai nhận ra và làm phiền chúng ta cả.”
Ông phả một luồng khói từ điếu thuốc lá Ai Cập của mình vào một tấm biển Coca-Cola đã bạc màu trong góc ngồi của họ; ông gọi một cái bánh mì kẹp, ông nhẹ nhàng cắn một lát dưa chuột muối trông như thể đã lốm đốm vết ủng mặc dù thực tế không phải như vậy, và ông nói chuyện với Keating. Ông nói nhát gừng. Ban đầu, những gì ông nói không quan trọng; cái quan trọng chính là giọng ông, cái giọng nói vô song của Ellsworth Toohey. Keating cảm thấy như thể anh đang đứng giữa một đồng bằng rộng lớn, dưới những ngôi sao, được ôm ấp và được sở hữu, trong sự chắc chắn, trong an toàn.
“Thiện tâm, Peter ạ,” cái giọng ấy nói khẽ, “thiện tâm. Đó là điều răn đầu tiên, có thể là điều răn duy nhất. Đó là lý do tại sao tôi đã phải phê phán vở kịch mới đó trong bài báo của tôi hôm qua. Vở kịch đó thiếu cái thiện tâm cơ bản. Chúng ta phải có thiện tâm, Peter ạ, với tất cả mọi người quanh chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận và tha thứ – có rất nhiều điều phải tha thứ trong mỗi chúng ta. Nếu cậu học cách yêu tất cả mọi thứ, cả những thứ tầm thường nhất, những thứ nhỏ mọn nhất, những thứ đê tiện nhất, thì rồi cái đê tiện nhất trong cậu sẽ được yêu mến. Rồi chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của sự bình đẳng đại đồng, sự yên bình vĩ đại của tình anh em, một thế giới mới, Peter ạ, một thế giới mới tươi đẹp...”