Ông nhìn thấy ánh sáng ấy chạm vào đường nét bên ngoài thân hình của cô – nó tỏa sáng nhè nhẹ lên mi mắt, gò má cô. Ông thầm nghĩ sự tỏa sáng này thật thích hợp với khuôn mặt cô. Cô chầm chậm quay mặt về phía ông, và ánh sao biến thành một dải sáng bao quanh mái tóc màu vàng nhạt, dày và thẳng của cô. Cô mỉm cười như cách cô vẫn luôn mỉm cười với ông, một sự chào đón dịu dàng chứa đựng sự thấu hiểu.
“Có chuyện gì vậy, Gail?”
“Em yêu quý, sao em lại hỏi thế?”
“Trông anh rất hạnh phúc. Từ đó không chính xác lắm. Nhưng là từ gần nhất.”
“Nhẹ nhõm thì đúng hơn. Anh thấy thật nhẹ nhõm, nhẹ đi đến ba mươi năm. Không phải anh muốn được giống như mình cách đây ba mươi năm. Chẳng có ai muốn như thế cả. Anh chỉ cảm thấy như mình được mang quay trở lại ngày xưa, nguyên vẹn, giống như mình bây giờ, nhưng lại ở lúc bắt đầu. Điều đó thật không lô-gíc, và không thể xảy ra và thật tuyệt diệu.”
“Cảm giác như vậy thường có nghĩa là anh vừa gặp một ai đó, về nguyên tắc, phải là một phụ nữ.”
“Anh có gặp. Nhưng không phải là một phụ nữ. Một người đàn ông. Dominique, tối nay em rất đẹp. Nhưng lúc nào anh cũng nói như vậy. Đó không phải là điều anh muốn nói. Anh muốn nói rằng: tối nay anh rất hạnh phúc vì em thật đẹp.”
“Chuyện gì vậy, Gail?”
“Không có gì. Chỉ là anh thấy sống thật đơn giản và dễ dàng làm sao.”
Ông nắm tay cô và hôn.
“Dominique, lúc nào anh cũng nghĩ rằng thật là một phép màu khi cuộc hôn nhân của chúng ta vẫn còn kéo dài đến giờ. Bây giờ thì anh tin rằng nó sẽ không bao giờ bị phá vỡ. Bởi bất kỳ cái gì hoặc bất kỳ ai.” Cô dựa lưng vào tấm kính. “Anh có một món quà cho em… đừng có nói với anh rằng anh hay nói câu này hơn bất cứ câu nào khác nhé. Anh sẽ có một món quà cho em vào cuối mùa hè nay. Ngôi nhà của chúng ta.”
“Nhà ư? Lâu nay anh không hề nhắc đến chuyện này, em nghĩ là anh đã quên.”
“Anh không hề nghĩ về bất cứ điều gì khác trong suốt sáu tháng qua. Em vẫn chưa đổi ý chứ? Em vẫn muốn chuyển ra khỏi thành phố chứ?”
“Vâng, Gail, nếu anh muốn điều đó đến thế. Anh đã quyết định chọn kiến trúc sư chưa?”
“Còn hơn thế nữa. Anh có bản vẽ của ngôi nhà cho em xem đây.”
“Ồ, em muốn nhìn thấy nó.”
“Nó ở trong phòng đọc của anh. Đi nào. Anh muốn em nhìn thấy nó.”
Cô mỉm cười và nắm lấy cổ tay ông hơi mạnh, giống như một sự âu yếm để khuyến khích, rồi cô đi theo ông. Ông mở toang cửa phòng đọc và để cô vào trước. Đèn đã bật sáng và bản vẽ được đặt đứng để trên bàn, đối mặt với cửa ra vào.
Cô dừng lại, hai tay để phía sau, lòng bàn tay ấn lên khung cửa. Cô đứng quá xa để có thể nhìn thấy chữ ký, nhưng cô biết phong cách này và người đàn ông duy nhất có thể thiết kế ngôi nhà như thế.
Hai bờ vai cô chuyển động, xoay tròn chầm chậm, cứ như thể cô đang bị trói chặt vào một cái cột và cô đã từ bỏ mọi hy vọng trốn chạy, chỉ có cơ thể cô đang có những hành động phản kháng mang tính bản năng cuối cùng.
Cô nghĩ rằng ngay cả khi cô nằm trên giường trong vòng tay Roark, trước mắt Gail Wynand, thì sự xúc phạm còn đỡ khủng khiếp hơn; bản vẽ này mang dấu ấn cá nhân của Roark hơn cả cơ thể anh, nó được tạo ra để đáp lại một sức mạnh tương ứng của Gail Wynand. Bản vẽ này là một sự xúc phạm với cô, với Roark, với Gail… nhưng rồi, đột nhiên cô nhận ra điều này là không thể tránh khỏi.
“Không,” cô thì thào, “những thứ như thế này không bao giờ là một sự trùng hợp tình cờ.”
“Cái gì cơ?”
Nhưng cô giơ tay lên, nhẹ nhàng ra dấu chấm dứt cuộc đối thoại, và bước tới chỗ bản vẽ. Bước chân cô đi trên thảm không hề gây tiếng động. Cô nhìn thấy cái chữ ký sắc nét ở góc bản vẽ… “Howard Roark”. Chữ ký ấy không đáng sợ bằng hình dáng của ngôi nhà này; nó như một điểm đỡ mỏng manh, gần như một lời chào.
“Dominique?”
Cô quay mặt về phía ông. Ông nhìn thấy câu trả lời của cô. Ông nói:
“Anh biết em sẽ thích. Không cần phải khách sáo. Tôi nay chúng ta đều không đủ lời.”
Cô đi tới ghế sô-pha và ngồi xuống. Cô tựa lưng vào cái gối tựa, nó giúp cô ngồi thẳng. Cô nhìn Wynand. Ông đứng trước cô, tựa vào mặt lò sưởi, xoay nghiêng nửa người nhìn vào bản vẽ. Cô không thể chạy trốn khỏi bản vẽ đó, khuôn mặt của Wynand giống như là tấm gương cho nó.
“Anh đã gặp anh ta à, Gail?”
“Ai cơ?”
“Người kiến trúc sư.”
“Tất nhiên anh đã gặp anh ta. Chưa đầy một giờ trước đây.”
“Lần đầu anh gặp anh ta là khi nào?”
“Tháng trước.”
“Anh đã biết anh ta suốt thời gian qua sao?... Mỗi buổi tối… khi anh trở về nhà… tại bàn ăn…”
“Em định nói là tại sao anh không nói với em à? Anh đã muốn có bản phác thảo này để cho em xem. Anh đã tưởng tượng trong đầu mình một ngôi nhà giống như thế này, nhưng anh không thể nào giải thích được. Anh đã không nghĩ lại có người hiểu được điều anh muốn và thiết kế được nó. Nhưng anh ấy đã làm được.”
“Ai vậy?”
“Howard Roark.”
Cô đã muốn nghe cái tên này được nói ra từ miệng Gail Wynand.
“Làm thế nào mà anh lại chọn anh ta hả Gail?”
“Anh đã quan sát khắp nơi. Mọi tòa nhà anh thích đều do anh ấy thiết kế.”
Cô gật đầu chầm chậm.
“Dominique, anh mặc định là em không còn quan tâm đến chuyện đó nữa, nhưng anh biết anh đã chọn người kiến trúc sư mà em đã dành tất cả thời gian khi em làm việc ở tờ Ngọn cờ để phê phán kịch liệt.”
“Anh đã đọc những thứ đó à?”
“Anh đã đọc. Em đã xử sự một cách kỳ quặc. Rõ ràng là em khâm phục công trình của anh ta và căm ghét con người anh ta. Nhưng em đã bảo vệ anh ta tại phiên tòa Stoddard.”
“Vâng.”
“Em thậm chí đã từng làm việc cho anh ta. Bức tượng đó, Dominique, nó được làm cho ngôi đền của anh ta.”
“Vâng.”
“Thật là kỳ quặc. Em mất việc ở tờ Ngọn cờ vì đã bảo vệ anh ta. Anh đã không biết điều đó khi anh chọn anh ta. Anh đã không biết về phiên tòa đó. Anh đã quên mất tên anh ta. Dominique, theo một cách nào đó thì anh ta đã mang em đến cho anh. Bức tượng đó… từ ngôi đền của anh ta. Và bây giờ anh ta sẽ mang cho anh ngôi nhà này. Dominique, tại sao em lại căm ghét anh ta?”
“Em không ghét anh ta… Đã qua lâu rồi…”
“Anh đoán là bây giờ những chuyện ấy không còn quan trọng nữa, đúng không?” Ông chỉ vào bản vẽ.
“Em không gặp anh ta nhiều năm nay rồi.”
“Em sẽ gặp anh ấy khoảng một tiếng nữa. Anh ấy sẽ đến đây ăn tối.”
Cô cử động bàn tay và miết nó theo đường xoáy ốc trên thành ghế sô-pha, để tự thuyết phục mình rằng cô có thể cử động.
“Đến đây?”
“Đúng thế.”
“Anh đã mời anh ta tới ăn tối?”
Ông mỉm cười. Ông nhớ lại sự bực bội của mình đối với sự hiện diện của khách khứa trong ngôi nhà của họ. Ông nói:
“Trường hợp này thì khác. Anh muốn anh ta tới đây. Anh không nghĩ rằng em nhớ rõ anh ta – nếu không em đã không ngạc nhiên như thế.”
Cô đứng dậy.
“Được rồi, Gail. Em sẽ bảo nhà bếp. rồi em sẽ thay đồ.”
*
* *
Họ đối mặt nhau ngang qua phòng khách trong căn hộ của Gail Wynand. Cô nghĩ việc này thật đơn giản làm sao. Anh đã luôn hiện diện ở đây. Anh đã là động lực chính cho mỗi bức chân của cô trong căn phòng này. Anh đã mang cô đến đây và giờ đây, anh đã đến để đòi lại nơi này. Cô nhìn anh. Cô nhìn anh như cô từng nhìn anh vào một buổi sáng khi cô thức giấc trên giường của anh lần cuối. Cô biết rằng cả quần áo anh đang mặc lẫn những năm tháng vừa qua cũng không thể ngăn cách nổi cô với những ký ức vẫn còn nguyên vẹn đó. Cô nghĩ rằng điều này sớm muộn rồi cũng sẽ xảy ra, ngay từ đầu, ngay từ cái khoảnh khắc mà cô nhìn thấy anh ở mỏ đá – mọi việc phải xảy ra như thế này, trong nhà của Gail Wynand – và bây giờ cô cảm thấy sự bình an khi mọi việc kết thúc, cô biết rằng cô không còn phải quyết định nữa; cô đã là người phải hành động, nhưng từ giờ trở đi anh sẽ là người hành động.
Cô đứng thẳng người, thẳng đầu; gương mặt cô vừa có vẻ nghiêm trang của một sĩ quan quân đội, vừa có vẻ mong manh dễ vỡ của một người đàn bà; hai cánh tay cô buông thõng, thẳng đờ dọc theo hai bên sườn, song song với những nếp buông dài của chiếc váy đen.
“Chào ông Roark.”
“Chào bà Wynand.”
“Tôi có thể cảm ơn ông về ngôi nhà ông đã thiết kế cho chúng tôi không? Đó là công trình đẹp nhất trong số các công trình của ông.”
“Nó phải như vậy, bởi bản chất của công việc lần này, thưa bà Wynand.”
Cô chầm chậm quay đầu lại.
“Anh đã giao công việc này cho ông Roark như thế nào hả Gail?”
“Như anh đã nói về nó với em vậy.”
Cô nghĩ về những gì Roark đã nghe từ Wynand, và đã chấp nhận chúng. Cô ngồi xuống; hai người đàn ông ngồi theo cô. Roark nói:
“Nếu bà thích ngôi nhà này thì thành công đầu tiên phải thuộc về ý tưởng của ông Wynand đối với nó.”
Cô hỏi: “Ông đang chia sẻ thành tích với khách hàng ư?”
“Vâng, theo một nghĩa nào đó.”
“Tôi tin rằng điều này mâu thuẫn với những gì tôi còn nhớ về quan điểm nghề nghiệp của anh.”
“Vâng, nhưng nó lại phù hợp với quan điểm cá nhân của tôi.”
“Tôi không chắc là tôi đã hiểu được điều đó.”
“Tôi tin vào sự mâu thuẫn, thưa bà Wynand.”
“Có gì mâu thuẫn trong việc thiết kế ngôi nhà này à?”
“Có cái ham muốn không bị khách hàng làm ảnh hưởng.”
“Theo nghĩa nào vậy?”
“Tôi thích làm việc cho một số người và không thích làm việc cho một số người khác. Nhưng điều đó cũng không ảnh hưởng gì cả. Lần này tôi biết ngôi nhà này phải được thiết kế như thế nào chỉ bởi vì nó được xây dựng cho ông Wynand. Tôi phải vượt qua được điều đó. Nói cách khác, tôi phải làm việc với nó và phải chống lại chính nó. Đó là cách làm việc tốt nhất. Ngôi nhà phải vượt qua kiến trúc sư, khách hàng và những chủ nhân tương lai của nó. Ngôi nhà này đã làm được điều đó.”
“Nhưng ngôi nhà này – nó chính là anh, Howard,” Wynand nói. “Nó vẫn là anh.”
Đó là biểu hiện cảm xúc trên gương mặt cô – một cú sốc lặng lẽ, khi cô nghe thấy từ “Howard.” Wynand không nhận ra điều đó. Roark thì nhận ra. Anh liếc nhìn cô – đấy là cái nhìn có dấu hiệu giao tiếp cá nhân đầu tiên giữa hai người. Cô không đọc thấy bất cứ lời bình luận nào trong cái nhìn đó – chỉ là sự xác nhận rằng anh có biết cái suy nghĩ đã làm cô sốc.
“Cám ơn ông đã hiểu điều đó, Gail,” anh trả lời.
Cô không chắc rằng liệu có phải là cô đã nghe thấy anh nhấn mạnh cái tên đó.
“Thật kỳ lạ,” Wynand nói. “Tôi là kẻ có thói chiếm hữu khó chịu nhất trên trái đất này. Tôi có tác động gì đó đến mọi thứ. Giả sử tôi nhặt một cái gạt tàn từ một cửa hàng mười xu, trả tiền và bỏ nó vào túi – và nó sẽ tr ở nên một cái gạt tàn đặc biệt, không giống bất kỳ cái gạt tàn nào khác trên trái đất này, bởi vì nó là của tôi. Cứ như là tôi đã tạo thêm một giá trị mới cho vật đó kiểu như thêm cho nó một vầng hào quang. Tôi cảm thấy như vậy về mọi thứ tôi sở hữu. từ cái áo khoác của tôi tới cái máy in cũ nhất trong phòng làm việc, hay những tờ Ngọn cờ trên các sạp báo, tới ngôi nhà này và cả vợ của tôi. Và tôi chưa bao giờ muốn được sở hữu bất kỳ cái gì khác nhiều như ngôi nhà mà anh sắp xây dựng cho tôi, Howard ạ. Tôi có lẽ sẽ ghen tỵ với Dominique khi cô ấy sống trong ngôi nhà này. Tôi có thể thực sự điên rồ về những thứ như vậy. Tuy nhiên… tôi không có cảm giác rằng tôi sẽ sở hữu ngôi nhà này, bởi vì cho dù tôi có nói hay làm gì đi nữa thì nó vẫn sẽ là của anh. Nó sẽ luôn luôn là của anh.”
“Nó phải là của tôi,” Roark nói. “Nhưng với một ý nghĩa khác Gail ạ. Ông sở hữu ngôi nhà đó và tất cả những gì mà tôi từng xây dựng. Ông sở hữu bất cứ công trình nào mà ông đứng lại trước nó và nghe thấy mình đáp lại nó.”
“Theo nghĩa nào vậy?”
“Theo nghĩa ông đáp lại nó bằng một câu trả lời cá nhân. Điều mà ông cảm nhận được từ sự hiện diện của một vật mà ông ngưỡng mộ chỉ có thể biểu đạt được bằng một từ… ‘Có’. Đó là sự xác nhận, sự chấp thuận, là biểu hiện của sự ngưỡng mộ. Và cái từ ‘Có’ đó có nghĩa nhiều hơn một câu trả lời cho một sự vật; nó giống như tiếng ‘Amen’ với cuộc sống, với trái đất này, nơi vật đó tồn tại, với cái tư tưởng đã sinh thành ra nó, với bản thân ông vì đã có khả năng nhận biết nó. Nhưng khả năng của con người để nói được là ‘Có’ hay ‘Không’ chính là bản chất của mọi sự sở hữu. Đó là sự sở hữu của ông với chính cái-tôi của ông. Tâm hồn của ông, nếu không muốn nói như vậy. Tâm hồn của ông có một chức năng cơ bản riêng – chức năng đánh giá mọi vật. ‘Có’ hoặc ‘Không’, ‘Tôi muốn’ hoặc ‘Tôi không muốn’. Ông không thể nói ‘Có’ mà không nói từ ‘Tôi.’ Không thể có sự xác nhận mà không có chủ thể xác nhận. Theo nghĩa đó, tất cả những gì ông dành tình yêu của ông cho nó đều là của ông.”
“Theo nghĩa đó, anh chia sẻ mọi thứ với người khác?”
“Không. Đó không phải là chia sẻ. Khi tôi nghe một bản giao hưởng tôi yêu thích, tôi không có được từ nó cái mà người sáng tác ra nó có được. Cái ‘Có’ của anh ta khác với của tôi. Anh ta có thể chẳng quan tâm gì đến cái ‘Có’ của tôi và cũng chẳng có ý niệm chính xác về nó. Câu trả lời đó quá riêng tư đối với mỗi người. Nhưng bằng việc tự mang lại cho mình những gì anh ta muốn, anh ta đã cho tôi một kinh nghiệm vĩ đại. Tôi đơn độc khi tôi thiết kế một ngôi nhà Gail ạ, và ông không bao giờ có thể biết cách thức mà tôi sở hữu căn nhà đó. Nhưng nếu ông nói ‘Amen’ với nó – thì nó cũng là của ông. Và tôi mừng khi nó là của ông.”
Wynand nói cùng với một mỉm cười:
“Tôi thích nghĩ như thế. Rằng tôi sở hữu Monadnock, ngôi nhà Enright và tòa nhà Cord…”
“Và Đền Stoddard,” Dominique nói.
Cô nghe họ nói chuyện. Cô thấy mình tê liệt. Wynand chưa từng bao giờ nói chuyện như vậy với bất kỳ vị khách nào trong ngôi nhà của họ. Roark chưa bao giờ nói như vậy với bất kỳ khách hàng nào. Cô biết sự tê liệt này rồi sẽ vỡ thành sự tức giận, sự chối bỏ và phẫn nộ. Bây giờ nó chỉ là một âm điệu sắc lạnh trong giọng nói của cô, âm điệu như muốn phá tan những gì cô vừa nghe thấy.
Cô nghĩ rằng cô thành công. Wynand trả lời – giọng ông nặng nề:
“Đúng thế.”
“Hãy quên Đền Stoddard đi, Gail,” Roark nói. Trong giọng nói của anh có một sự hoan hỉ giản đơn, vô tư nhưng nó lại có sức mạnh hơn bất cứ một sự tha thứ nghiêm trang nào.
“Phải, Howard,” Wynand mỉm cười nói.
Cô nhìn thấy ánh mắt Roark hướng về cô.
“Tôi chưa nói lời cảm ơn bà, thưa bà Wynand, vì bà đã chấp nhận tôi làm kiến trúc sư cho bà. Tôi biết rằng ông Wynand đã chọn tôi và bà đã có thể từ chối. Tôi muốn nói với bà rằng tôi rất vui mừng khi bà không làm như vậy.”
Cô nghĩ, mình có thể tin được những việc này bởi vì nó không có một cơ sở nào để tin cậy. Mình sẽ chấp nhận bất cứ cái gì vào tối nay. Mình đang nhìn anh ấy.
Cô nói, giọng dửng dưng một cách lịch thiệp:
“Đấy chẳng qua là lời đáp lại với những đánh giá của tôi khi ông cho rằng tôi muốn từ chối căn nhà cho ông thiết kế sao, ông Roark.”[127] Cô nghĩ rằng không có điều gì cô nói thành lời vào buổi tối nay lại có ý nghĩa.
Wynand hỏi:
“Howard, cái từ ‘Có’ đó – một khi đã được chuyển giao, thì có thể rút lại được không?”
Cô muốn cười phá ra vì sự phẫn nộ khó kiềm chế. Chính là Wynand đang hỏi về điều đó, trong khi người phải hỏi điều đó lẽ ra là cô. Anh ấy phải nhìn vào mắt mình khi trả lời câu hỏi đó – cô nghĩ; anh ấy phải nhìn vào mình.
“Không bao giờ,” Roark trả lời trong lúc nhìn Wynand.
“Người ta đã nói quá nhiều điều vớ vẩn về tính hay thay đổi của con người và về sự thất thường của tình cảm” Wynand nói. “Tôi luôn luôn nghĩ rằng những thứ tình cảm có thể thay đổi được thì thực ra là những thứ đã không tồn tại ngay từ đầu. Có những cuốn sách tôi thích khi tôi mười sáu tuổi. Giờ tôi vẫn thích chúng.”
Người quản gia đi vào và mang theo một khay cocktail. Cô lấy ly của mình và quan sát Roark nhấc ly của anh ta khỏi khay. Cô nghĩ: vào lúc này, cái ly đang nằm giữa những ngón tay của anh cũng giống như cái ly nằm giữa những ngón tay của mình; chúng ta giống nhau được đến chừng đó… Wynand đang đứng, cầm ly và quan sát Roark với một sự thắc mắc hoài nghi lạ lùng, trông ông không giống như một vị chủ nhà, mà như một người chủ sở hữu vẫn không thể hoàn toàn tin được rằng mình sở hữu một tài sản đáng giá như thế… Cô nghĩ: Mình không bị điên. Mình chỉ bị kích động, nhưng thế cũng không sao lắm, mình vẫn đang nói điều gì đó, mình cũng chẳng biết mình nói cái gì, nhưng chắc chắn là ổn, vì cả hai người đang lắng nghe và đáp lại, Gail đang mỉm cười, mình hẳn là đang nói một điều gì đó thích hợp…
Người quản gia báo bữa tối đã được chuẩn bị xong. Cô đứng dậy một cách ngoan ngoãn và đi tới phòng ăn, giống như một con thú duyên dáng cử động tạo dáng theo những phản xạ có điều kiện. Cô ngồi ở đầu bàn ăn, hai người đàn ông ngồi hai bên, đối diện nhau. Cô ngắm nhìn những đồ ăn bằng bạc bóng loáng ở giữa các ngón tay của Roark, tất cả đều có khắc hai chữ “D.W.” Cô nghĩ: mình đã làm điều này rất nhiều lần – mình là bà Gail lịch thiệp… đã có các thượng nghị sĩ, các vị quan tòa, các chủ tịch của các công ty bảo hiểm ngồi ăn tối tại đây… đây là công việc mà mình đã được huấn luyện để làm, đây chính là lý do tại sao Gail đã phải chịu đựng qua những năm tháng đày đọa để dành được vị trí chiêu đãi những thượng nghị sĩ, những vị quan tòa… mục đích của tất cả những cái đó là để có một buổi tối khi mà người khách ngồi đối diện ông ấy là Howard Roark.
Wynand nói về chuyện kinh doanh ngành báo chí. Ông không hề tỏ ra miễn cưỡng khi nói chuyện này với Roark, và cô cũng nói một vài câu khi có vẻ cần thiết. Giọng nói của cô giản dị và rõ ràng, cô đang bị kéo theo câu chuyện mà không hề kháng cự, bất cứ một phản ứng cá nhân nào cũng là không cần thiết, ngay cả nỗi đau đớn hay sợ hãi… Cô nghĩ rằng, cứ với đà nói chuyện này, nếu câu tiếp theo của Wynand là: “Em đã ngủ với anh ta,” thì cô sẽ trả lời, một cách đơn giản: “Đúng thế, Gail, tất nhiên rồi.” Nhưng Wynand hiếm khi nhìn cô. Khi ông nhìn cô, qua nét mặt ông, cô biết được rằng biểu hiện trên gương mặt cô vẫn bình thường.
Sau đó, họ quay lại phòng khách, cô nhìn thấy Roark đứng cạnh cửa sổ, đối diện với những luồng sáng từ thành phố. Cô nghĩ: Gail đã xây cái nhà áp mái này để minh chứng cho chiến thắng của cá nhân ông ấy… để luôn có thành phố này ở trước mắt ông ấy… đây mới thực sự là lý do mà ngôi nhà này được xây dựng lên – để có Roark đứng cạnh khung cửa sổ đó – và mình biết là tối nay Gail cũng nhận ra điều đó. Cơ thể của Roark che khuất hàng dặm của khung cảnh thành phố, chỉ để sót lại một vài đốm lửa và một vài ô vuông cửa kính tỏa sáng. Anh đang hút thuốc; cô ngắm nhìn điếu thuốc lá của anh chuyển động chầm chậm trên bầu trời đen, khi anh đặt nó vào giữa hai môi, rồi giữ nó ở đầu ngón tay, và cô nghĩ: những đốm sáng lấp lánh trông không gian phía sau anh – chúng chỉ là những tia lửa tỏa ra từ điếu thuốc của anh.
Cô nói khẽ:
“Gail đã luôn thích được ngắm nhìn thành phố vào ban đêm. Anh ấy đã phải lòng những tòa nhà chọc trời.”
Rồi cô nhận ra rằng cô vừa sử dụng thời quá khứ và cô tự hỏi vì sao lại thế.
Cô không nhớ mình đã nói gì khi họ bàn về ngôi nhà mới. Wynand lấy những bản thiết kế từ phòng làm việc, trải chúng lên bàn và cả ba ngư i cùng cúi xuống xem. Bút chì trong tay Roark chuyển động, đánh dấu, rồi lướt ngang qua các khối hình học cứng cáp được vẽ bởi nét chì đen, mảnh, trên nền giấy trắng. Họ không khen hay khẳng định vẻ đẹp của ngôi nhà, mà nói về các phòng để đồ, cầu thang, bếp núc và phòng tắm. Roark hỏi liệu cô có thấy sự bố trí này thuận tiện hay không. Cô nghĩ thật là kỳ lạ, rằng cả hai người đều nói như thể họ thực sự tin rằng cô sẽ sống trong ngôi nhà ấy.
Sau khi Roark ra về, cô nghe thấy Wynand hỏi:
“Em thấy anh ta thế nào?”
Cô cảm thấy một cái gì đó giận dữ và nguy hiểm, như một cú vặn xoắn gọn ghẽ và đột ngột trong người cô. Và rồi cô nói, nửa sợ hãi nửa chủ ý khiêu khích:
“Anh ta không làm cho anh nhớ lại Dwight Carson à?”
“Ồ, hãy quên Dwight Carson đi!”
Giọng nói của Wynand không chút tha thiết, không chút tội lỗi, nghe giống hệt cái giọng đã từng nói:
“Hãy quên ngôi Đền Stoddard đi.”
*
* *
Người thư ký ở phòng lễ tân nhìn lên và giật mình khi thấy người đàn ông có khuôn mặt xuất hiện thường xuyên trên các mặt báo.
“Gail Wynand,” ông ta nói, nghiêng đầu tự giới thiệu. “Tôi cần gặp ông Roark. Nếu như ông ấy không bận. Xin đừng làm phiền ông ấy nếu như ông ấy đang bận việc. Tôi không có hẹn trước.”
Cô không bao giờ nghĩ rằng Wynand sẽ đến thăm một văn phòng mà không báo trước và yêu cầu được gặp một cách nghiêm trang kính cẩn đến thế.
Cô báo tên người khách. Roark ra phòng lễ tân, mỉm cười như thể anh không nhận thấy có điều gì bất thường trong sự ghé thăm này.
“Hello Gail. Ông vào đi.”
“Hello Howard.”
Ông đi theo Roark vào văn phòng. Phía sau các cửa sổ rộng, bóng tối của một buổi chiều muộn đang hòa tan cả thành phố. Tuyết đang rơi; những bông tuyết quay cuồng một cách giận dữ dưới ánh đèn điện.
“Tôi không muốn làm phiền anh nếu anh đang bận; Howard. Việc này không quan trọng.” Ông không gặp Roark suốt năm ngày, kể từ bữa tối hôm đó.
“Tôi không bận. Bỏ áo khoác ra đi. Tôi mang các bản vẽ vào được chứ?”
“Không. Tôi không muốn nói về ngôi nhà. Thực ra tôi đến đây chẳng vì lý do gì cả. Tôi ở văn phòng cả ngày, phát ốm vì nó, và tự nhiên thấy muốn tới đây. Anh đang toe toét cái gì thế hả?”
“Không có gì. Chỉ là ông đã nói không có gì quan trọng thôi.”
Wynand nhìn anh, mỉm cười và gật đầu.
Ông ngồi xuống mép bàn làm việc của Roark với một sự thoải mái mà ông chưa từng cảm thấy trong văn phòng của mình. Tay ông bỏ trong túi và một chân vung vẩy.
“Nói chuyện với anh gần như là vô ích, Howard. Tôi luôn luôn cảm thấy như thể đang đọc cho anh nghe một bản photocopy của chính tôi, còn anh thì đã nhìn thấy bản gốc rồi. Anh dường như nghe mọi điều tôi nói trước khi tôi nói ra. Chúng ta không khớp nhau.”
“Ông gọi đó là không khớp à?”
“Được rồi, quá khớp vậy.” Ông nhìn chầm chậm quanh phòng.
“Nếu chúng ta sở hữu những gì mà chúng ta nói ‘Có,’ thì tôi đang sở hữu cái văn phòng này à?”
“Thì ông sở hữu nó.”
“Anh có biết tôi cảm thấy gì ở đây không? Không, tôi sẽ không nói rằng tôi cảm thấy như ở nhà… Tôi không nghĩ rằng mình đã từng cảm thấy như ở nhà tại bất cứ đâu. Và tôi cũng sẽ không nói rằng tôi cảm thấy như khi tôi ở trong các lâu đài tôi đã đến thăm hay như ở trong các nhà thờ lớn ở châu Âu. Tôi cảm thấy giống như khi tôi ở tại Hell’s Kitchen vào những ngày đẹp nhất tôi đã có ở đó… những ngày hiếm hoi. Nhưng thỉnh thoảng… khi tôi ngồi thế này… chỉ có vài bức tường đổ nát cạnh cầu tàu… và có hàng ngàn ngôi sao trên đầu, và những đống rác xung quanh tôi, và con sông thì bốc mùi hôi thối từ những xác sò thối rữa… Howard, khi anh nhìn lại quá khứ, anh có cảm thấy là tất cả những ngày của anh đều lăn đều nhau về phía trước, giống như việc đánh máy, tất cả các con chữ đều giống nhau? Hay là có những điểm dừng – những cột mốc – và sau đó thì lại giống như đánh máy chữ?”
“Có các điểm dừng.”
“Anh có nhận biết được chúng ngay lúc đó không? Lúc ấy anh có biết rằng chúng là những điểm dừng không?”
“Có.”
“Tôi thì không. Sau này tôi mới biết. Nhưng tôi không bao giờ biết nguyên nhân tại sao. Có một thời điểm khi tôi mười hai tuổi và đứng sau một bức tường chờ đợi bị giết chết. Có điều, tôi đã biết là tôi sẽ không bị giết. Không phải những việc mà tôi làm sau đó, cũng không phải những trận đánh nhau, mà chỉ là một khoảnh khắc khi tôi chờ đợi. Tôi không biết tại sao đó là một điểm dừng mà tôi vẫn còn nhớ, hoặc tại sao tôi lại thấy tự hào về nó. Tôi không biết tại sao tôi phải nghĩ về nó khi ở đây.”
“Đừng tìm kiếm lý do đó làm gì.”
“Anh biết lý do đó không?”
“Tôi đã nói là đừng tìm kiếm.”
“Tôi đã suy nghĩ về quá khứ của tôi – kể từ khi gặp anh. Tôi đã sống nhiều năm mà không nghĩ về quá khứ. Không, chẳng có một kết luận bí mật nào để anh rút ra từ quá khứ đó đâu. Nhìn lại quá khứ như thế này chẳng làm tôi bị tổn thương, mà cũng chẳng làm tôi vui vẻ. Chỉ là nhìn lại mà thôi. Không phải là một sự tìm kiếm, không phải là một cuộc hành trình. Chỉ là một cuộc đi dạo ngẫu nhiên, giống như đi lang thang ở một miền quê vào một buổi chiều tối khi anh cảm thấy mệt mỏi… Nếu như có một sự kết nối nào đó với anh, thì chỉ có một suy nghĩ là cứ quay trở lại đầu óc tôi. Tôi cứ nghĩ rằng anh và tôi khởi đầu rất giống nhau. Từ cùng một điểm chung. Từ hai bàn tay trắng. Tôi chỉ nghĩ vậy thôi, không có bất kỳ lời bình luận nào. Tôi dường như không tìm thấy bất kỳ ý nghĩa cụ thể nào trong câu chuyện này cả. Chỉ là ‘chúng ta đã bắt đầu giống nhau’… Anh có muốn nói cho tôi nghe điều đó có nghĩa gì không?”
“Không.”
Wynand nhìn quanh phòng và nhận ra một tờ báo nằm trên tủ đựng tài liệu.
“Quỷ tha ma bắt, ai đọc tờ Ngọn cờ ở đây thế?”
“Tôi đọc.”
“Từ khi nào?”
“Một tháng trước đây.”
“Tự tra tấn à?”
“Không. Chỉ vì tò mò thôi.”
Wynand đứng dậy, cầm tờ báo và nhìn lướt qua các trang. Ông dừng lại ở một trang và tặc lưỡi. Ông cầm trang đó lên: trang báo có bức ảnh về bản thiết kế của cuộc triển lãm Hành trình của Những thế kỷ.
“Kinh khủng, phải không?” Wynand nói. “Thật ghê tởm khi chúng tôi phải lăng-xê cho những thứ đó. Nhưng khi nghĩ đến những việc mà anh đã làm với cái hội đồng toàn các tên tuổi trứ danh ấy, tôi cảm thấy dễ chịu hơn.” Ông tặc lưỡi một cách vui vẻ. “Anh đã nói với họ rằng anh không cộng tác hay hợp tác gì cả.”
“Nhưng đấy không phải lả chuyện làm dáng đâu, Gail. Hoàn toàn là vì tính hợp lý thông thường. Người ta không thể hợp tác trong công việc của chính mình. Tôi có thể cộng tác, nếu họ muốn gọi như vậy, nhưng là với những công nhân dựng lên công trình của tôi. Nhưng tôi không thể giúp họ đặt gạch và họ không thể giúp tôi thiết kế.”
“Đó là một kiểu làm dáng mà tôi muốn có. Tôi bị buộc phải biếu không cái hội đồng ấy một phần trang trống trong các tờ báo của tôi. Nhưng không sao. Anh đã tát vào mặt họ giùm tôi.” Ông quăng tờ báo sang bên cạnh không chút tức giận. “Cũng giống như cái bữa tiệc trưa nay mà tôi phải dự. Một hội nghị quốc gia của các nhà quảng cáo. Tôi buộc phải quảng cáo cho họ - cả một lũ ngọ nguậy, uốn éo, và chảy nước ấy. Tôi buồn nôn về cái đó đến mức tôi nghĩ rằng tôi sẽ phát điên và đập vỡ sọ một đứa nào đó. Và tôi nghĩ về anh. Tôi đã nghĩ rằng những chuyện như thế này chẳng bao giờ chạm tới anh được. Bằng bất cứ cách nào. Với anh thì chẳng hề tồn tại một cuộc hội nghị quốc gia của các nhà quảng cáo nào sất. Cái hội nghị ấy tồn tại trong chiều không gian thứ tư và nó chẳng bao giờ có thể liên lạc được với anh. Tôi đã nghĩ về điều đó – và cảm thấy khuây khỏa khác thường.”
Ông tựa vào tủ tài liệu, duỗi thẳng bàn chân ra phía trước, hai cánh tay bắt chéo vào nhau. Ông nói khẽ:
“Howard, đã có lần tôi nuôi một con mèo con. Cái con quái vật khốn khổ ấy, một con thú nhỏ sống quanh mấy bãi rác, bị ruồi muỗi bâu, chỉ còn lông, bùn đất và một nắm xương. Nó cứ bám lấy tôi, theo tôi về nhà. Tôi cho nó ăn rồi đuổi nó đi. Nhưng ngày hôm sau nó quay lại và cuối cùng thì tôi giữ nó lại để nuôi. Khi đó tôi mười bảy tuổi và đang làm việc cho tờ Gazette, chỉ là học việc theo một cách đặc biệt mà tôi phải học để sống. Tôi có thể chấp nhận cuộc sống đó, nhưng không phải tất cả. Có những lúc tôi cảm thấy rất tệ, thường là các buổi tối. Có một lần tôi muốn tự tử. Không phải vì tôi tức giận, bởi vì sự tức giận thường làm tôi làm việc chăm chỉ hơn. Không phải nỗi sợ hãi mà là sự ghê tởm, Howard ạ. Sự ghê tởm làm cho tôi cảm thấy như thể rằng toàn bộ thế giới này đang chìm dưới nước, còn nước thì đứng im. Nước tràn ra khỏi các cống rãnh và nuốt chửng mọi thứ, kể cả bầu trời, kể cả trí não của tôi. Rồi tôi nhìn con mèo con đó. Tôi nghĩ rằng nó không hề biết đến những thứ mà tôi ghê tởm, không bao giờ có thể biết. Nó sạch sẽ, sạch sẽ tuyệt đối bởi vì nó không có khả năng hiểu được sự xấu xa của thế giới này. Tôi không thể diễn đạt cho anh hiểu được cái cảm giác khoan khoái khi thử tưởng tượng xem trạng thái ý thức trong cái bộ não nhỏ xíu ấy như thế nào, và cố gắng chia sẻ nó – đấy cũng là một ý thức sống, nhưng trong sạch và tự do. Tôi nằm xuống sàn nhà và úp mặt vào bụng con mèo, nghe như cái con quái vật ấy gừ gừ. Và rồi tôi thấy khỏe hơn… Vậy đó, Howard. Tôi vừa mới gọi văn phòng anh là một cái cầu cảng mục nát và gọi anh là một con mèo hoang. Đấy là cách bộc lộ sự kính trọng của tôi.
Roark mỉm cười. Wynand nhận thấy sự biết ơn trong nụ cười đó.
“Đừng nói gì” Wynand cau có. “Đừng nói gì hết.” Ông bước tới cạnh một cửa sổ và nhìn ra ngoài. “Tôi không biết cái quái quỷ gì làm tôi nói như thế. Đây là những năm tháng hạnh phúc đầu tiên trong cuộc đời tôi. Tôi gặp anh bởi vì tôi muốn xây dựng một tượng đài cho hạnh phúc của tôi. Tôi đến đây để tìm kiếm sự nghỉ ngơi, và tôi đã tìm thấy… thế mà tôi còn nói những chuyện đó… Nhưng thôi, không sao cả… Chà, hãy nhìn cái thời tiết chết tiệt này xem. Anh đã xong việc ngày hôm nay chưa? Anh có thể nghỉ được chưa?
“Rồi. Nhìn chung là xong rồi.”
“Hãy đi ăn tối ở đâu đó gần đây đi.”
“Được thôi.”
“Tôi dùng nhờ điện thoại của anh được không? Tôi sẽ bảo Dominique đừng chờ tôi về ăn tối.”
Ông quay số. Roark đi ra cửa phòng vẽ. Anh cần giao cho nhân viên vài việc trước khi rời khỏi văn phòng. Nhưng anh dừng lại ở cửa và nghe cuộc hội thoại ấy.
“Alô, Dominique à?... Ừ… Em mệt à?... Không, nghe giọng em có vẻ mệt… Anh sẽ không về nhà ăn tối đâu, em sẽ tha lỗi cho anh chứ, em yêu quý?... Anh không biết, có thể sẽ muộn… Anh sẽ ăn tối ở trong phố… Không, anh sẽ ăn với Howard Roark… Alô, Dominique?... Ừ… Cái gì?... Anh đang gọi từ văn phòng của anh ấy… Thế nhé, chào em.” Ông đặt ống nghe xuống.
Dominique đứng trong thư viện của ngôi nhà, tay vẫn cầm điện thoại như thể một chút kết nối vẫn còn sót lại.
Suốt năm ngày và đêm, cô đã đấu tranh với một khao khát duy nhất – đến gặp anh. Để được một mình nhìn thấy anh… ở bất kỳ đâu… ở nhà anh, hay trong phòng làm việc của anh, hay trên phố… chỉ để nói một lời hay chỉ để được nhìn anh một cái… nhưng phải là một mình. Cô không thể đi. Phần hành động của cô đã chấm dứt. Anh sẽ đến với cô khi anh muốn. Cô biết rằng anh sẽ đến và rằng anh muốn cô chờ đợi. Cô đã chờ đợi, nhưng cô vẫn cứ bám vào một ý nghĩ – bám vào một địa chỉ, một văn phòng trong tòa nhà Cord.
Cô đứng đó, tay nắm chặt lấy ống nghe điện thoại. Cô không có quyền đi tới cái văn phòng ấy. Nhưng Gail thì lại có được cái quyền đó.
*
* *
Ellsworth bị gọi tới văn phòng của Wynand. Khi bước vào văn phòng, ông bước vài bước và dừng lại. Bức tường của văn phòng Wynand, căn phòng sang trọng duy nhất trong tòa nhà Ngọn cờ, được làm bằng li-e và các tấm đồng đỏ, trên đó chưa bao giờ treo bất kỳ bức ảnh nào. Giờ đây, trên bức tường đối diện bàn làm việc của Wynand, ông nhìn thấy một bức ảnh lớn. Bức ảnh của Roark tại lễ khai mạc ngôi nhà Enright, trong đó Roark đứng cạnh hàng rào bảo vệ bên bờ sông, đầu ngửa ra sau.
Toohey quay sang Wynand. Họ nhìn thẳng vào nhau.
Wynand chỉ vào một chiếc ghế và Toohey ngồi xuống. Wynand mỉm cười nói:
“Tôi không bao giờ nghĩ có lúc tôi lại đồng tình với một vài lý thuyết xã hội của ông, ông Toohey, nhưng tôi đã tự bắt mình phải làm như vậy. Ông luôn luôn tố cáo cái thói đạo đức giả của giới thượng lưu trong xã hội và ca ngợi những giá trị quần chúng. Bây giờ thì tôi thấy hối tiếc về những lợi thế mà tôi đã được hưởng khi tôi là kẻ thuộc về quần chúng. Nếu tôi vẫn ở khu Hell’s Kitchen, thì có lẽ tôi đã bắt đầu cuộc nói chuyện này bằng câu: ‘Nghe này, đồ chấy rận!’ Nhưng bởi vì tôi hiện là một nhà tư bản cố hữu nên tôi sẽ không làm vậy.”
Toohey chờ đợi; trông ông tò mò.
“Tôi sẽ bắt đầu bằng câu: Hãy nghe đây, ông Toohey. Tôi không biết động cơ của ông là gì. Tôi không thèm mổ xẻ phân tích những động cơ của ông. Dạ dày của tôi không phải bạ cái gì cũng tiêu hóa được.[128] Bởi vậy, tôi sẽ không hỏi và tôi cũng không muốn nghe bất kỳ lời giải thích nào. Tôi sẽ chỉ nói với ông rằng, kể từ bây giờ, có một cái tên mà ông sẽ không bao giờ được đả động đến trong chuyên mục của ông nữa.”
Ông chỉ vào bức ảnh.
“Tôi có thể bắt ông công khai tự phản bội lại mình trên báo và tôi sẽ thích thú với điều đó; nhưng tôi thích cấm ông không bao giờ được đả động đến chuyện này hơn. Dù chỉ một từ, ông Toohey. Không bao giờ nữa. nào, đừng có nói đến hợp đồng của ông hay bất kỳ điều khoản gì gì đó của nó. Tôi khuyên ông đừng có làm thế. Cứ tiếp tục viết cái chuyên mục của ông, nhưng hãy nhớ tên của mục đó là Một tiếng nói nhỏ và hãy dành cho nó các chủ đề thích đáng với nó. Hãy giữ cho nó nhỏ thôi, ông Toohey. Rất nhỏ thôi.”
“Vâng, thưa ông Wynand,” Toohey đáp lại một cách dễ dàng. “Hiện tại tôi không phải viết về ông Roark.”
“Thế thôi.”
Toohey đứng dậy. “Vâng, thưa ông Wynand.”