- Vợ chồng con cái mày thôi, người khác có tội tình gì.
Thằng Nam cười lên khăng khắc, có lẽ nó đang tu xị rượu để "nung chí anh hùng".
- Tôi đi, nhưng kẻ khác đừng hòng ở đây để bà làm giàu. Tôi kiếm chuyện đó.
Tôi liếc nhìn vợ tôi như thầm hỏi. Vợ tôi nói:
- Kệ họ, mình chẳng dính gì đến họ.
- Dzăng miếng!
- Mình có làm gì đâu, ăn cắp ăn trộm của ai cái gì đâu.
- ấy vậy mới dzăng miếng, bởi mình không là đồng bọn.
Tôi muốn nói đến cái ngược ngạo của cuộc đời. Nhưng thây kệ, tôi mệt mỏi quá rồi. Tôi thèm một giấc ngủ hơn tất cả. Làm việc ban ngày ở nơi hôi thối không được nghỉ ngơi, đêm thường xuyên bị mất ngủ thì chết mất.
Tấm ni lông giải dưới chiếu quả nhiên đỡ ẩm thấp. Tiếng gió thổi qua vách liếp nghe êm như lời ru.
Tôi thiếp đi không biết bao lâu.
- Thằng giặc kia, bước khỏi nhà tao ngay, mày hiểu rằng đàn ông đàn bà không quen biết nhau không thể ở chung một nhà, đừng nói chi nằm chung một giường. Cút xéo, biết điều thì cút xéo ngay...
Đúng là một người đàn bà trọng tuổi mà lạ hoắc đối với tôi. Mụ có son phấn mà mặt xanh nhợt nhạt như ma, đôi mắt quắc lên đổ lửa, lạnh lùng. ừ, tôi đang ở trong một căn nhà lạ, nằm trên giường với người đàn bà lạ. Kỳ vậy, không biết tại sao nữa. Tôi chưa kịp giải thích thì mụ đàn bà hung dữ giương những móng tay nhọn hoắt lên cào mặt tôi. Tôi né tránh, mụ vồ hụt nhưng mười móng nhọn cứ múa vèo vèo trước mặt tôi. Tôi hét lên...
- Anh! Anh! Tỉnh dậy, anh!
Tôi thở hào hển, đêm tối mò mò, một cơn ác mộng, chỉ là một cơn ác mộng. Vợ tôi đang ngồi bên cạnh lay gọi.
- Anh tỉnh rồi, thắp đèn lên.
Vợ tôi chui ra khỏi mùng thắp ngọn đèn dầu. Tôi hoang mang về cơn ác mộng, mồ hôi vã như tắm. Tôi hổn hển nói:
- Ghê quá, một cơn ác mộng ghê quá.
Vợ tôi sờ trán tôi:
- Anh bịnh rồi, tại anh làm việc nhiều quá đấy mà, anh cần được nghỉ ngơi. Đừng nghĩ ngợi lung tung. Anh la hét mà em bắt sợ.
Vợ tôi róc cho một hớp nước lạnh, thoa dầu rồi ép tôi ngủ. Nhưng không ngủ được, tôi cứ hoảng sợ. Cái đèn dầu để ngoài mùng rọi ánh sáng vàng vọt, mờ mờ. Tôi thao thức nghĩ hoài đến cơn ác mộng vừa rồi. Bây giờ đến lượt vợ tôi, có lẽ đã quá mệt nên ngủ say. Tôi nghe tiếng ngáy của nàng, rồi tiếng ú ớ. Nàng lại nói mê chăng? Tôi cầm tay nàng bỏ xuống khỏi ngực, nàng xoay người nằm nghiêng. Rồi nàng giẫy đạp, nàng hét. Tôi ôm lấy nàng, nàng đánh vào mặt tôi bôm bốp. Rồi nàng hồi tỉnh, nhin tôi kinh hãi:
- Ma, ma, anh ơi!
- Em ngủ mê, làm gì có ma.
- Thật đấy thật đấy, đúng là một con ma. Em không ngủ nữa đâu, cứ nhắm mắt lại là thấy nó.
Nàng kể cho tôi nghe cơn ác mộng. Một gã đàn ông lạ hoắc, kéo nàng, ép nàng nằm chung giường với hắn. Hắn than hắn cô đơn, đang cô đơn thì có người đến chung sống. Nàng phản kháng mãnh liệt. Khi nhìn kỹ thì thấy hắn là một con ma. Đúng là một con ma kinh khủng, hắn cứ nhất định đòi bắt nàng, nàng chống trả đánh đấm hắn túi bụi...
Tôi phi cười:
- Có thể con ma đó là anh!
- Nỡm, thế mà cũng đùa được, nhà này có ma.
Tôi suy nghĩ một lát:
- Nếu có ma thật thì đâu cũng có ma chứ riêng gì nhà này. Chúng ta đang sống trên mảnh đất lắm người mà cũng nhiều ma, mà thôi, không nói nữa, em lại sợ không ngủ được.
- Em không ngủ đâu, nằm canh cho anh ngủ.
- Anh cũng không ngủ được.
- Vậy thì mình nằm chờ sáng, anh chở em đi uống cà phê. - Mình sẽ uống cà phê sữa, đã lâu lắm mình không uống cà phê sữa. Anh phải hút một điếu thuốc thơm. Em ăn tô hủ tíu, chịu không?
- ừ nhưng anh ăn gì?
- Gói xôi hay cái dầu cháo quẩy như mọi khi.
- Không chịu đâu, anh có ăn hủ tíu thì em mới ăn, anh làm việc cực nhọc...
Tôi đặt tay lên bụng vợ:
- Tất cả dành cho con, nghĩ đến nó bất kỳ là trai hay gái, anh đều thương, đều muốn hy sinh cho nó. Em nhớ chỉ chúng ta là bố mẹ mới thương yêu nó thôi. Ngoài ra, xin lỗi anh không còn dám tin tưởng ai.
Không ai thương chúng ta cả, nói chi thương nó, hài nhi vô tội này bị coi là nghiệt chướng.
Anh thù hằn đời sống đến thế sao?
- Không thù hằn mà chỉ cảnh giác, chính đời sống này đã dậy anh như thế...
Chúng tôi chung sống với nhau, nhưng vì chuyện cơm áo ít có dịp tâm tình. Đêm nay nhân chuyện sợ ma, chúng tôi nói chuyện thâu đêm. Sáng sớm tinh mơ, vợ chồng tôi trở dậy đã thấy bà Bảy ưng quét sân quèn quẹt. Bà nhìn vợ chồng tôi, hỏi:
- Sao chúng bay dậy sớm vậy?
Vợ tôi mau mắn:
- Chúng cháu ra chợ uống cà phê.
- Đêm qua tụi bay làm chi mà um xùm vậy, đánh lộn hả?
- Không có đâu...
Tao tối qua cũng không nói gì vợ chồng bay, chỉ vợ chồng thằng lưu manh kia phải bước khỏi nhà tao ngay ngày hôm nay. Vợ chồng bay đừng hiểu lầm, tao thương vợ chồng bay ít học mà hiền lành, không xạo sự. Giúp đỡ được tụi bay tao giúp liền, vợ chồng có điều gì không phải thì bảo nhau, đừng đánh lộn, nghe không...
- Dạ, tụi cháu không đánh lộn, tại đêm qua thấy ma nên cháu mới la.
- Ma hả, ứa tao sẽ cúng kiềng, oan hồn uổng tử ở đây thiếu gì. Xưa kia nơi đây là bãi chiến trường mà. Ông Bảy nhà tao có đánh trận này, tao là giao liên.
Buổi chiều tôi trở về, vợ chồng thằng Nam hàng xóm đã dọn nhà đi.Vợ thằng Nam trút giận ngoặt sang gây lộn với vợ tôi. Nhưng chuyện cũng đã qua. Cái giống ti tiện hạ cấp ấy vẫn thế, chấp nhất làm chi. Tôi thấy thuộc lối vào nhà có treo một nhánh xương rồng, cửa lại dán một lá bùa nào đó viết vẽ lăng quăng. Vợ tôi hiểu thắc mắc của tôi, nàng giải thích:
- Má Bảy "ếm xì bùa" con ma đó. Bùa má lấy của thầy nào đó em không biết, anh đừng có bóc đi mà bả giận.
Tôi ừ ào cho qua chuyện. Cuộc sống yên ổn hơn khi bên cạnh tôi không còn gia đình hàng xóm ồn ào toàn những chuyện trộm cắp lừa đảo. Nhưng bùa chú cũng vô ích, những con ma vẫn lộng hành. Tôi mất ngủ, người gầy dốc, tuy rằng công việc không đến nỗi nặng nhọc như lúc đầu. Tôi đi làm không cần phải mặc những quần áo xấu, rách. Tôi được cầm lại cây bút, không phải để viết văn, làm thơ mà để viết những con số trong sổ hàng. Nhưng cũng là cầm bút vậy. Địa vị tôi được nể vì, có người ve chai còn gọi bằng thầy. Tôi huấn luyện cho cậu thư ký trình độ học vấn lớp ba đỡ nhầm lẫn hơn trong sổ sách. Thuở đó người có học vấn làm việc trong một cơ sở hiếm hoi như lá mùa thu.
Chuyện tôi được trọng dụng không có chi lạ. Giám đốc của tôi ký tên bằng cái gạch chéo chữ thập. Tôi làm giùm cho họ những đơn từ gởi nơi này nơi kia, lại "có tài điều khiển nổi cái máy chữ cũ rích hiệu Remington, những đơn từ trở nên trang trọng hơn, có mộc xanh mộc đỏ mang tên cơ sở, tên giám đốc Ngọc Tũn. Như vậy làm gì mà tôi không được trọng dụng, ở xứ mù thằng chột làm vua. Đúng là trường hợp của tôi.
Những con ma vẫn quấy phá gia đình nhỏ bé của tôi. Tôi không tin chuyện ma quỉ mà buộc phải tin, thây kệ bà Bảy ưng cúng kiềng cho vợ tôi, vì nàng ngã bệnh mà bà già trầu Bảy ưng nói là bị ma làm. Nhưng tôi vẫn phải cho nàng uống thuốc hàng ngày. Tiền bạc kiếm được đổ vào thuốc và những bữa ăn có thêm chất lượng, nên vẫn chưa mua được cái giường cho ra hồn. Cái giường bây giờ là những tấm ván kê lên mấy viên gạch cách mặt sàn xi măng mươi phân, hai tấm ni lông dầy ngăn cách hơi ẩm thấp, cái chiếu mới. Như vậy cũng tạm ổn rồi.
Ông bà chủ tỏ ra biết điều và trọng dụng tôi, giao tôi điều hành hầu hết công việc trong cơ sở, trừ công việc mua bán và xử dụng người. Tôi không thể hiểu được cái lắt léo mánh mung trong công việc, kể cả việc đi mua bán đồ phế liệu có tôi được đi theo. ông bà chủ dự tính thành lập hẳn một nhà máy tái sinh đồ phế liệu. Cho đến một ngày, vợ chồng ông bà chủ đề nghị tôi mở một lớp bổ túc văn hóa cho riêng hai vợ chồng... Tôi cũng đành chấp nhận, vì tôi có thêm thu nhập. Nhưng sao tôi vẫn chán công việc ấy, chán những tiếp xúc hàng ngày đầy những mánh mung. Đôi khi những quyết định của tôi làm mếch lòng chủ. Mướn thêm một người, hoặc sa thải một người... ông phó giám đốc điều hành gay gắt:
- Chú nên hiểu rằng đây là cơ sở làm ăn, không phải viện tế bần, mình không nên giúp ai hết vì lòng nhân đạo.
Thực tế là thế tôi phải nhận sự sai trái.
Vợ tôi bị ma làm nên ốm đau quặt quẹo hoài, ốm đau như giả vờ... Tôi buộc phải tin rằng trên đời có ma hiện hình hay ở trong những cơn ác mộng để dọa người. Nạn nhân của ma toàn là những con người hiền lành, yếu đuối hay hết thời như...
tôi chẳng hạn. Những con ma đều có tư cách hèn hạ như nhau, nhưng nguy hiểm vô cùng. Nguy hiểm ở điểm đó.
Sửa soạn cho một đời sống văn minh, một cuộc đổi mới nào đó sau ngày chiến thắng. Thành phố được giải phóng phải giàu đẹp gấp mười ngày xưa. Con người ở đó phải sống văn minh hơn để theo kịp đà tiến bộ của thế giới, của nhân loại. Tôi đứng lại tức là tôi tụt lùi. Con người tiến bộ là con người biết bỏ thuốc lào hút sang thuốc lá, thuốc có cán (đầu lọc) mang mác ngoại quốc càng tốt. Biết bỏ dép râu, mũ cối để đi dép sa bô da, tiến tới đi giầy, đội mũ giô kề hoặc mũ phớt. Phụ nữ phải biết bỏ áo bà ba để mặc đầm, bỏ khăn rằn đội đầu để làm tóc kiểu cọ, biết trang điểm son phấn. Tất cả những thứ cũ kỹ xưa kia đều nên chui vào tủ kính ở viện bảo tàng lịch sử, nhà truyền thống. Một ngày nào đó ai muốn biết phải giở tư liệu lịch sừ ra tham khảo hoặc nghe hướng dẫn viên thuyết minh. Tôi vẫn tin như thế và có những suy nghĩ lẩm cẩm. Vì nhìn đà tiến bộ quay đến chóng mặt. Đối với thế giới chẳng nhằm nhỏ gì, nhưng với đất nước này thì đã ghê gớm lắm. Dập dình chuyện đổi mới, có thể đổi mới luôn tư duy. Nhưng tôi thấy vẫn còn nhiều khó khăn lắm, vì ở các cơ quan, các công sở vẫn còn những người dân thấp cổ bé miệng khi muốn xin xỏ một điều gì trên mặt giấy tờ, tay vẫn lo le điếu thuốc có cán hiến dâng lên vị cán bộ để cán bộ thông cảm. Kẻ tự coi là nhỏ bé làm việc nhỏ, các ông lớn thì làm việc lớn, muốn làm ăn phải biết chi đẹp, nơi bàn chuyện là cửa hàng bia có ôm để nói chuyện phải quấy. Tôi nghe ông bà chủ tôi nói vậy.
Tôi an phận thủ thường, tuyệt chẳng nghĩ đến chuyện bon chen. Hiền như chưa bao giờ hiến thế, như một lão bộc ở nhà quê có cơ may được vào nhà chủ giàu có. Dân số thành phố bùng nổ, vì những lý do gì đó, người ta dồn vào thành phố để làm ăn, để kiếm sống. Nhà nước phải nới rộng vùng ven đô để trở thành đô thị. Các nghĩa địa chôn người chết nên đi chỗ khác chơi, di dời đi nơi xa hơn nữa, nhẩy cứ như cóc nhẩy. Xương cốt người chết cũng điêu linh. Người còn thân nhân thì đỡ, người không còn thân nhân cũng được nhà nước liệu bề lo toan hợp tình hợp lý. Tôi được biết chừng đó thôi. Buổi trưa, vợ chồng cô Ngọc Tũn rộn lên về việc đi thâu mua bao ni lông. Dĩ nhiên tôi là người được đi theo để lo chuyện sổ sách. Anh thư ký lo chuyện cân đo Hẳn phải là một đám bán đồ phế liệu to nên Ngọc Tũn lo một số tiền lớn mà nàng vẫn chưa an tâm, nói với chồng:
- Anh đi theo tôi, nếu thiều tiền bạc anh chạy về lấy liền. Mình tiền trao cháo múc nó không ép giá được. Có phải sang tay ngay mình cũng có lời.
Anh chồng mà số tử vi có sao thân cư thê chiếu mệnh, hỉ hả:
- Cần gì phải sang tay ai, mình dư sức xử lý nó, làm thành phẩm khi đó bán còn lời gấp mấy...
Anh ta còn tỏ ra nắm bắt được nền kinh tế thị trường trên đà phát triển mà vợ chồng anh đang gặp thời cơ: - Ta có thể không cần bán, chờ cho nhà máy tái sinh của mình hoạt động, ta sẵn vật liệu, có giải tỏa cả mười nghĩa địa ta cũng chẳng lo.
Thế là sao? Thế nào? Tại sao lại liên quan đến việc giải tỏa nghĩa địa? Tôi không hỏi ai cả, lặng lẽ đi theo họ. Anh chồng, phó giám đốc điều hành, hôm nay không nói ngọng vì anh đang hồ hởi chứ không tức giận. Anh chỉ tức giận mới nói ngọng. Điều đó ai cũng biết. Nghĩa địa bị đào bới đông nghịt người. Người công tác lao động có, thân nhân những bộ xương khô vừa gào khóc vừa la lối:
- Khi chôn má tôi, ngoài những vòng vàng bà mang theo, tôi nhớ còn bỏ vào miệng bà một chỉ vàng mà, bây giờ sao không có...
Bà ta gào khóc, trong khi mấy người làm công việc đào mồ mồm năm miệng mười:
- Có thì lẫn đâu đó chớ ai ăn cắp của người chết, mang tội...
Chị đàn bà đốt nhang khấn vái lia lịa:
- Má ơi, má có khôn thiêng thì phù hộ cho con tìm lại được chỉ vàng, tưởng má được mồ yên mả đẹp, ai dè. Má có khôn thiêng thì vặn cổ chúng nó. Mùi hôi hám của những xác chết được đào bới lên thật khó ngửi, hòa lẫn không khí nóng hầm hập càng dậy hơi. Bây giờ thì như một khu chợ trời, người ta ngã giá đủ thứ được xử dụng lại, từ cái nắp ván thiên gỗ còn tốt, đến một cái vòng ngọc thạch, chẳng may bị vỡ. Tất cả đều là đồ ve chai được đánh giá. Quần áo của xác chết nếu không mục nát cũng được đánh giá. Những mộ bia, những phiến đá, những chồng gạch được đập ra từ các ngôi mồ, có thể dùng lại để xây cất. Tiền, tất cả đều là tiền, ngoại trừ những bộ xương, mảnh xương dược rửa sạch trước khi bỏ vào cái tiểu sành do thân nhân mang tới. Nhiều bộ xương chưa tiêu còn dính thịt da bầy hầy dậy mùi hôi đến phát khiếp. Những xác chết khó tiêu được khâm liệm trong
bao ni lông dầy buộc chặt ngăn không khí. Nhưng khi bao được mở hơi xì ra, xác chết đột nhiên phồng lên rồi xẹp xuống, chảy nước màu gì đó coi kinh khủng, không hẳn màu bùn xám, màu máu mủ, xương thịt thối rữa. Những xương thịt đó bị dốc ra khỏi túi ni lông, được rửa sơ trong một vũng nước lớn, ném sang một bên. Ruồi nhặng bay như trấu, va đập vô tội vạ người đứng xung quanh. Những chiếc khăn bịt mũi trở nên vô ích. Những khăn tẩm dầu gió, dầu cù là càng trở nên vô ích hơn nữa, dậy mùi hơn. Có những người nôn oẹ. Nhưng họ vẫn lăn xả vào tranh nhau thu mua.
Bà chủ Ngọc Tũn là người có tiền và dầy dạn kinh nghiệm trong những việc mua bán như thế này. Chờ cho các bạn hàng nhỏ tranh cướp, thâu mua hết. Bà ra một giá cao nhất, mua mão toàn thể những bao ni lông vĩ đại của những bạn hàng nhỏ. Tôi nhìn những bao ni lông và nhận thấy quen quen. Rồi tá hỏa, thì ra thế, toàn là bao ni lông khâm liệm người chết, như những chiếc áo quan tráng chì kẽm mà tôi từng thấy thuở còn chiến tranh. Thuở tôi còn làm phóng viên chiến tranh chạy rong trên những mặt trận. Quá giang những chuyến máy bay C.130 chở xác tử sĩ từ Quảng Trị về Sài Gòn, sao bây giờ tôi mới nhận ra những bao ni lông ấy. Những kẻ khác vẫn làm việc vô tư nhiều bao còn nhầy nhụa thịt da. Có cả đội người đứng xua đuổi, đánh đập bầy chó đói chỉ toan đánh cắp xương. Tiếng bà chủ bên tai tôi:
- Chú vô sổ giùm tôi, tôi thâu mua được sáu trăm bảy mươi ba bọc ni lông. Cho nó chuyển lên xe lam của cơ sở mình. Tối nay chú cho điều động người giặt sạch, đừng tiếc xà bông, sáng mai cho phơi khô rồi nhập kho.
Tôi xây xẩm mặt mày, những tia nắng chiếu trên nghĩa địa loé lên thành hằng vạn ngôi sao. Tôi muốn ói. Bà chủ nhìn tôi:
- Mặt chú xanh quá, sao vậy?
Tôi dốc bi đông nước, uống ừng ực, nhưng tôi vẫn thấy chóng mặt, bây giờ hình như nhức đầu.
Tôi nói với bà chủ:
- Tôi bị trúng gió rồi.
Bà chủ đưa tôi chai dầu gió:
- Chú thoa đi, ờ thôi, chú cứ về, giao lại công việc cho thằng nhỏ.
Tôi loạng choạng leo lên xe đạp ra khỏi nghĩa địa đang bị đào bới trong cảnh hỗn loạn của phiên chợ trời về chiều. Cái oi bức, nồng nực của nắng tháng hai vùng nhiệt đới làm tôi muốn ngất xỉu. Trời ơi, cái giường của tôi, tấm ni lông khâm liệm người chết. Tôi đã nằm chung với ma quỉ bấy lâu nay. Vợ tôi đau ốm, cái bào thai cũng đau ốm lây. Bố đã lầm lẫn! Cả nhà tôi bị ma làm bấy lâu nay. Tôi phải đốt nó không phải trả thù mà trả lại những gì của người cõi âm, tôi khấn khứa. Tôi cuồng lên đạp xe, mà sao hai chân tôi cứ ríu lại Tôi ngã lăn trên đường. Trời trở mặt như trở bàn tay. Mới nắng đó rồi mưa đó. Trận mưa dai dẳng suốt từ ba giờ chiều đến tối mịt không ngớt. Tôi không thể không về, không thể đứng mãi ở hàng hiên này với thùng đồ nghề sửa xe đạp lỉnh kỉnh. Ngoài kìm búa ra còn bơm, bàn vá ép và một cái giỏ đựng đồ ăn cho ngày hôm sau. Số đồ nghề nghèo nàn đó tôi không thể gửi ai được, bởi tôi chẳng còn tin ai, từ khi bị thằng khách hàng nhóc lừa lấy mất chiếc xe đạp
Cái thân tôi cùng khổ, tôi chán đời, không tin đời. Một mảnh đất lắm người mà cũng nhiều ma. Tôi lụi hụi ngồi sửa xe đạp một mình, từ sáu giờ sáng đến chập tối
mới ra về, kiếm tiền mua kí gạo, chút mắm muồi về nuôi vợ và đứa con sơ sinh ở túp lều cạnh ao cá. Số tiền ít ỏi kiếm được của một tay thợ tồi, tay nghề thấp như tôi chẳng đáng bao nhiêu, mà chiều đến còn phải đóng góp tiền lời cho một tay cho vay nợ lãi chính là vợ một anh bạn thân của tôi, giúp đỡ bạn bè gặp cảnh nghèo khó.
Sau một thời gian dài tôi trả nợ mỗi ngày, tiền vốn vẫn còn nguyên, tôi chỉ trả nổi tiền lời. Tôi vẫn là một con nợ, con nợ kinh niên. Chiều đến, tôi ngồi nán kiếm thêm tí tiền còm về nuôi vợ con. Tôi chán đời nên uống rượu, tối về không bao giờ quên một xị đế cho mình.
Ngồi trong túp lều cạnh ao cá, uống rượu nhậu với mấy con tép kho muối, nghe tiếng ễnh ương kêu ngoài ao, nỗi sầu khổ dâng kín đầu óc, không giãi bầy nổi. Nó thấm vào máu tôi qua từng hớp rượu độc ẩm. Tôi sống không bạn bè, không đồng đội, không cả người thân. Ngoại trừ vợ và đứa con gái sơ sinh, nó nằm trong cái rổ, treo lên xà nhà thay cho võng, quấn tã bằng mớ giẻ rách. Vợ tôi còn quá yếu sau ngày sinh nở thiếu thốn, nhưng cũng phải lết ra ruộng hái rau dại và mót tép sót ở những xe đầu tép dùng làm lương thực cho cá. Tranh cướp con tép với đám trẻ nghèo quanh xóm. Tòi uất hờn, hận đời, vừa đưa võng cho con vừa uống rượu. Nhìn vào mặt con mà khóc. Sự cay đắng không thể nuốt xuống, tôi thốt ra thành lời với vợ: - Anh không thể không đóng tiền lời cho mụ ấy, nếu không nó xiết kìm xiết búa, lấy đồ nghề đâu mà kiếm ăn. Đã vậy còn bị công an dẹp lòng lề đường lấy mất bơm, bàn vá ép, phải lên tận phường chuộc, đóng phạt. Có được gạo ăn là do ngồi nán về muộn, nhưng lại gặp chợ vãn, mua gạo tiệm người ta đóng cửa không bán vì tưởng là thằng ăn cướp thừa cơ làm bậy.
Nhục ơi là nhục, tôi không buồn chán sao được.
- Nhưng anh uống ít thôi, anh nghĩ đến con của chúng ta chứ?
Tôi lại nhìn con, khóc tấm tức. Rồi đây tương lai con sẽ ra sao? Bố đã ngã ngựa rồi, bố kiệt sức, bố còn gượng dậy được không. Bố mòn mỏi, chán chường, tiêu sầu qua chén rượu.
Khi đó tôi thường nghe tiếng đàn Tây Ban Cầm và tiếng hát nữ của đôi vợ chồng bán vé số sống ngoài nghĩa địa gần ao cá vọng tới.
Đôi vợ chồng hàng xóm, chưa một lần tiếp xúc, anh chồng tật nguyền gảy đàn, chị vợ hát. Những bài ca về lính Cộng Hoà rẻ tiền mà hồi xưa tôi không thể chịu nổi, ghét luôn cả ca sĩ hát loại nhạc đó. Nhưng sao nay tôi lại thấy ngậm ngùi. Thương nhớ một cái gì đó không định hình. Một thuở nào tôi còn hành nghề viết văn làm báo, dự những đêm nhạc hội, khi thì ở tiền đồn heo hút nghe những bài ca của lính trong buổi phát thanh đêm, lời tâm anh êm dịu của Dạ Lan qua làn sóng điện.
Nay tôi là một anh già coi ao cá không lương. Được phép ở túp lều hai mùa mưa nắng quạnh hiu. Tôi hết thời, xa lìa nghề nghiệp sau nhiều năm tháng tù tội Đầu óc tôi mách bảo rằng tôi phải làm nghề sửa xe đạp kiếm ăn, nếu không chỉ có cạp đất. Đói khổ và trách nhiệm khiến đầu gối phải bò. Tôi đắp đổi qua ngày, dù với nghề sửa xe tôi chỉ là tay ngang.
Những đắng cay cuộc đời ngày nào đó sẽ thành sẹo trong đầu tôi. Như thương tật của người chiến binh lên da non, chai lỳ là sự đương nhiên của đời sống. Số phận xoay vần, định mệnh đã an bài.
Tôi suy nghĩ như thế qua trời mưa mù ngoài đường. Dù trời còn mưa, tôi cũng phải về. Mớ đồ nghề của tôi đã xếp gọn vào trong bao cát. Tôi địu nó lên lưng, đi bộ một quãng đường dài về lều ao cá.
Sắt thép có nặng trên vai, tôi nghĩ, cũng chưa nặng bằng thập tự giá Chúa vác lên đồi Golgotha. Tôi nặng nề đi dưới trời mưa, mua gạo, ít thức ăn và không quên xị rượu. Tôi nghĩ đến vợ và con, nàng cũng ngồi dưới mưa, trên đầu chùm miếng in lông ôm con vì lều bị dột. Ngọn đèn dầu leo lét, nàng giống như một con ma ngồi ru con, rũ rượi hốc hác. Vú nàng còn sữa cho con bú không? Sao nàng theo tôi để khổ thân như thế. Cái duyên chồng vợ này đi đến đâu, về đến đâu. Đứa con, hài nhi đang hòa nhập đời sống. Một tương lai mịt mù như mưa giăng bụi trên đường kia. Tôi rời con đường sáng đèn điện mưa giăng mờ, vào một con hẻm lầy lội, ngoằn ngoèo vang tiếng máy dệt. Xóm dệt gia công người Quảng Nam. Rời đi xa dần mớ âm thanh đều đặn và nhức nhối đó. Tôi đến khu nghĩa địa hoang.
Khu nghĩa địa đang bị giải tỏa, nhưng vẫn còn sót lại nhiều ngôi mộ xây kiên cố. Khu chôn người chết ấy lan đến tận bờ ao, nơi túp lều tôi đang cư ngụ. Từ phía sâu trong nghĩa địa, gạch vữa bị đập phá, xà bần ngổn ngang, cả những nắp ván thiên. Tôi nhìn thấy một ánh đèn vàng ệch, leo lét như bóng ma trơi, chỉ khác là đốm sáng đó không di động. Tiếng đàn Tây Ban Cầm và tiếng ca nữ từ đó văng vẳng vọng tới. Đôi vợ chồng tật nguyền dệt bài bản mỗi đêm để ngày mai đi bán vé số, dùng tiếng đàn lời ca mua vui cho đời. Thế nhân vơi sầu muộn mua giùm tấm vé số.
Tôi thấy đôi vợ chồng ấy nhiều lần đi lang thang qua chợ, tiệm cà phê, tiệm ăn uống. Chị vợ đi trước, giắt theo anh chồng cụt giò, mù, đi bằng một chân gỗ giả, nay đã mất bàn chân chỉ còn cái cọc chống xuống đất. Cái áo cải tạo rách tơi tả. Trên đầu đội cái be rê xẩm màu máu mà tôi không phân biệt được là loại be rê của Biệt Động Quân hay Nhảy Dù xưa kia. Có lẽ anh là chiến binh rồi thương phế
binh của chế độ cũ. Nhưng tôi thắc mắc, sao anh lại mặc áo cải tạo? Tiếng đàn lời ca như ma tru quỉ hờn giữa vùng nghĩa địa điêu tàn đó hấp dẫn tôi. Tôi đi tới như bị ma am. ánh đèn dầu, lời ca, tiếng đàn từ một nhà mồ song lập hắt ra. Trong mưa gió đêm hôm tôi vẫn nhận ra đó là một nhà mồ khá đẹp, xây gạch, tường granito, có chạy những đường hoa văn ghi số năm xây dựng, nhưng tôi không nhìn rõ.
Tiếng đàn lời ca bỗng im bặt. Chỉ còn ánh đèn vàng hiu hắt bóng hai người in lên tấm mộ bia lung linh như bóng quỉ.
- Em có nghe tiếng chân ai đó đi tới đây?
- Không đâu, có lẽ tiếng chân chó hoang.
Rõ ràng, người mù nghe không lầm mà em, anh có thể nghe được tiếng thở của một người, khác với tiếng thở chó hoang.
- Đêm mưa gió không thể có người nào tới nghĩa địa hoang này, ngoài vợ chồng mình. Tiếng người chồng cười hì hì, gấy lên một tiếng đàn:
- Ai đó ở ngoài cửa nhà mồ, xin mời vào nhà trú mưa.
Tôi tằng hắng, ho một tiếng bước lên bậc gạch. Tôi bước hẳn vào nhà mồ, hai vợ chồng thảm hại, họ như loài quỉ, người hủi bị cách ly đời sống:
- Tôi đây, không phải chó hoang, già ao cá tới thăm hàng xóm, được chớ ạ!
- Hân hạnh, xin mời ngồi, tìm viên gạch nào đó làm ghế. "Nhà tôi" không có khách viếng thăm bao giờ. Tôi tháo đồ nghề Linh kỉnh đeo trên người bỏ xuống, đang muốn tìm vài viên gạch kê làm ghế thì người thiếu phụ đã mau mắn làm xong cho tôi mấy cục gạch cao vừa tầm với chồng. Anh ta ngồi ở đầu mồ người đàn ông già mà tôi nhìn thấy hình trên tấm mộ bia. Quần áo tôi ướt lướt thướt, tôi ngồi xuống "ghế", dù sao cũng mới chỉ sơ giao, tôi cần tự giới thiệu: - Tôi là người bảo vệ ao cá, tối nay đi làm về qua thấy "nhà" đèn sáng, nghe tiếng đàn tiếng ca tiện thể vào thăm anh chị. Mình là hàng xóm với nhau, lần đầu tiên tôi ghé thăm. Có gì phiền anh chị không? Người chồng mù đặt chiếc đàn lên trên mả, chiếc mũ be rê vẫn đội trên đầu. Tôi nhìn chiếc mũ có lỗ thủng ngay trước trán như lỗ đạn xuyên, bên cạnh là huy hiệu lính nhẩy dù. Anh mù mau mắn: - ồ không, hân hạnh cho chúng tôi, lâu rồi không có bạn, nhà không có trà mời khách. Nhưng tôi có rượu, ông bạn dùng được chớ?
- Được mà, tôi cũng có một xị, miếng đậu hủ chiên chấm muối ớt đưa cay, mình ngồi với nhau được chớ?
- Vâng, vâng, hân hạnh, em đi thắp đèn lên để anh tiếp khách.
Người vợ đang ngồi bên lò than, nướng con khô. Chị nói:
- Thì đó, đèn vẫn sáng, có anh mù chớ có ai mù đâu
Anh mù chặc lưỡi cười:
- Tôi còn một mắt, nhưng cũng kể như mù hẳn rồi, tôi nhìn gì cũng chỉ thấy mờ mờ nên nhắm tịt lại luôn. Cứ coi mình là thằng mù lại khoẻ.
Chị vợ đã nướng xong con khô bốc mùi thơm lừng. Chị dọn đồ nhậu lên chiếc bàn gỗ bằng mảnh ván ọp ẹp. Tôi nhìn cái bàn thô sơ mà nghi ngờ quá. Tôi gõ gõ ngón tay lên gỗ, gỗ tốt. Anh mù nghe thấy:
- Một mảnh gỗ ván thiên đó, người ta đào mả lên láy xương cốt, quăng lại gỗ, tôi dùng làm bàn. Này em, sao không giải miếng ni lông nên cho đỡ gớm.
- Anh tha lỗi, anh làm khách ngại. Anh không biết giữ mồm giữ miệng gì hết.
Tôi đỡ lời chống chếch anh chồng:
- Không sao, tôi quen cảnh này mà, nhà tôi, cạnh ao cá dưới cây bạch đàn cũng có chiếc bàn đá bằng tấm mộ bia. Tôi thường ngồi đó uống rượu đêm trăng. Mình sống chung với ma quỉ mà dễ chịu. Tuyệt diệu, nào chúng ta bắt đầu, nhưng trước hết...
Anh mù cầm ly rượu nhỏ đã được róc đầy đổ xuống đất, nói:
- Trước hết mời thổ thần và những hồn ma quanh đây về uống rượu với anh em ta đã..
Tôi cũng làm như anh. Ngoài trời vẫn mưa gió, tiếng sét nổ điện nhoang nhoáng trên bầu trời đen. ánh chớp làm tôi nhìn rõ mồ mả ngổn ngang và cây cối ngả
nghiêng, túp lều của tôi cạnh ao cá. Tôi nghĩ đến vợ và đứa con sơ sinh của tôi, bé có giật mình khóc khi sét nổ không? Tôi ân hận:
- Ngồi chơi với anh chị một lát, còn vợ tôi và cháu nhỏ ở nhà..
- Anh ngồi chơi với tôi đã, cần thì vợ tôi sang bên đó với chị và cháu. Mình mới ngồi với nhau mà, đã có dịp nói chuyện gì đâu..
Tôi phải từ chối đề nghị đó, vợ tôi sẽ đứng tim nếu thấy người đàn bà hốc hác, gầy ốm tóc tai rũ rượi này hiện ra giữa căn lều hoang. Tôi nghĩ thế thôi, đâu dám nói ra sợ xúc phạm. Có thể trước kia người đàn bà này cũng có nhan sắc, nhưng nay thì giống ma quỉ. Cũng như tôi vậy, một con ma vất vưởng trên thế gian. Một đêm mưa bão những hồn ma hiện hình ngồi trong nhà mồ tụ tập uống rượu nói chuyện đời. Tôi nói:
- Thôi được chẳng dám phiền chị, tôi sẽ ngồi đây một lát. Hai chúng tôi cụng ly, người vợ anh mù cũng tham dự tí chút. Chị nhắc nhở chồng:
- Kìa anh, lột cái mũ trên đầu ra chớ, đội hoài à...
Anh ta lột cái mũ rúm ró bẩn thỉu ra, cầm ở tay trái. Tự nhiên tôi lại nghĩ anh ta cầm dĩ vãng, kỷ niệm trong tay. Anh đã mất đi một chân, đôi mắt ở chiến trường nào đó trong đời binh nghiệp lỡ. Chỉ còn lại đây cái mũ có dấu đạn xuyên thủng. Anh phải đội mãi, dù đã tả tơi như chính cuộc đời anh bây giờ. Còn cái áo học tập cải tạo kia, tôi lại thắc mắc về nó. Cũng là dấu chấm đánh dấu những ngày tù tội của người chiến binh bại trận. Tôi không hỏi điều đó. Sự thắc mắc để nguyên trong đầu.
Tiếng mưa gió ngoài trời gợi cảm ma quái không thể để chúng tôi ngồi lặng thinh, uống rượu mà không nối gì với nhau. Tiếng anh mù âm âm:
- Tôi không thể quên được những đêm mưa gió trong chiến trận, chúng tôi vừa đánh nhau vừa truyền tay nhau bi đông rượu đế để nung chí anh hùng, ấm lòng chiến sĩ. Có thằng cha chưa kịp nuốt hớp rượu đã gục xuống bên súng. Máu rượu hòa chung cùng mùi thuốc súng làm thành mùi khó tả thế nào ấy, tôi không tả nổi.
Anh bạn mù xác nhận anh từng là chiến binh, coi chiến trận như trò đùa. Tôi hỏi:
- Anh từng là quân nhân chế độ cũ?
- Đúng vậy, một chiến binh cho tới trước ngày tàn cuộc chiến.
- Anh là thương binh sau đó?
Anh mù lắc đầu:
- Không, tôi bị bắt làm tù binh rồi sau đó đi học tập cải tạo khi ta hoàn toàn bại trận. Tôi bị cụt giò mù mắt trong lao động. Tôi cuốc trúng mìn, không chết nhưng tật nguyền như anh thấy đó. Vết thương lành, tôi ở lại trại chăn bò và coi đồi nghĩa địa một thời gian, tôi vẫn còn một mắt để tìm vợ. Được coi là học tập tốt tôi được trở về vợ tôi vẫn chờ đợi. Tôi không còn nhà trong khu gia binh nữa. Chúng tôi sống lang thang bằng tiếng đàn của tôi và lời ca của vợ. Mãi sau cùng tôi tìm ở nhờ được "nhà" này. Hai ông bà cụ chủ nhà cũng nằm đây. Thay vì trả tiền nhà thì chúng tôi nhang khói cho các cụ, ngày rầm đốt vàng bạc tiền âm phủ xuống cho các cụ tiêu xài. Vì nhà đẹp kiên cố nên người ta chưa giải tỏa đến, nhưng cũng đến thôi. Vợ chồng tôi chưa biết đi đâu. Nhưng được ngày nào hay ngày nấy, như đời
sống mình vậy. Chúng tôi kiếm ăn từng ngày, từng bữa, chẳng xin xỏ ai hết. Đời sống bấp bênh nhưng thú vị. Thú vị nhất là tôi mù, không phải nhìn thấy đời. Bây giờ thì mù tịt rồi. Sống trong nghĩa địa này không nhìn thấy ma nên không sợ ma. Nhưng tôi nghe thấy ma nói chuyện, hỗn ma đồng đội tôi nói chuyện với tôi. Nhắc nhở lại những kỷ niệm và tình nghĩa, tôi chẳng đến đỗi quá cô đơn. Anh mù vầy vò cái mũ be rê trong tay. Điều thắc mắc về một thương phế binh phải đi học tập trong tôi đã được giải tỏa. Có lẽ lâu quá rồi anh không được dịp nói chuyện với ai, ngoài vợ. Anh tâm sự tiếp: - Như chủ nhân chiếc mũ này, trung sĩ Ninh, bạn tôi, anh chuyên đội mũ be rê khi ra trận, anh không đội mũ sắt, mặc áo giáp. Người anh nhẹ nhõm nhanh như một con sóc, quân trang anh mang trên người đơn giản tối đa, ngoài vũ khí cần thiết, bi đông rượu đế, cái be rê đỏ không bao giờ quên trên đầu. Anh nhìn thấy lỗ thủng cháy xém không? Một viên đạn trúng đầu khi anh xung phong. óc và máu anh đựng đầy cái mũ. Tôi giữ lại cái mũ làm kỷ niệm. Tôi đội nó và thường xuyên nghe hồn bạn tôi về nói chuyện lúc buồn phiền. Ngày tôi trúng mìn tưởng chết. Trong cơn mê loạn, tôi gặp lại bạn, anh nói tôi phải sống, sẽ trở về vì vợ tôi đang chờ đợi. Quả nhiên đúng như vậy.
Men rượu làm tôi hứng khởi: - Tuyệt vời, hiện giờ thì anh đang nói chuyện với một con ma trước mặt anh, đang uống rượu với nó đấy. Anh có "nhìn" thấy không?
Anh mù tợp một hớp rượu, hố mắt sâu hoắm hướng vào tôi:
Có chứ, anh giống như một con ma thật. Quần áo rách rưới, lam lũ đầu bạc. Người ta gọi anh là lão già coi ao cá. Nhưng anh chưa già, vì giọng anh còn rất trẻ. Có
hôm nghe anh ngâm thơ bên ao cá, có câu thơ như thế này: Chí chẳng thành, danh chẳng toại. Trai trẻ bao lâu mà đầu bạc. Trăm năm thân thương tà dương... Anh có đúng như tôi tả không nào?
Anh nói xong điểm nụ cười. Tôi nói:
- Đúng, anh tả tôi như một con ma rất đúng, chịu thầy.
Anh mù hứng chí nói tiếp:
- Đời sống anh bây giờ rất khổ, như vợ chồng tôi vậy. Tôi nghĩ trước đây anh không đến đỗi như thế. Tôi im lặng uống rượu. Anh ta đã tâm sự về cuộc đời anh. Tôi hiểu anh muốn tôi cũng nói về tôi. Tôi không thể không tâm sự khi đối diện với một con người thành thật, một con người hình thể đang biến dần thành con ma. Nhưng còn kết tinh được những tốt lành của con người.
- Tôi hiện đang giống một con ma như anh, sống vất vưởng trên dương gian, nửa là người nửa là ma. Đời sống này đã vùi dập tôi xuống tận cùng. Ngày nay thì thân tàn ma dại, có vợ và một đứa con sơ sinh. Tôi làm nghề coi ao cá, danh từ gọi là "nhân viên bảo vệ ao cá ". Tôi làm việc đó để lấy một chỗ ở, túp lều tồi tệ bên ao. Một ngày phải đẩy hai xe phân heo và đầu tép ở xưởng tôm đông lạnh dùng làm lương thực nuôi cá. Đầu tiên thì tôi hợp đồng làm việc có lương, chằng đáng bao nhiêu, nhưng sau người ta không trả lương nữa vì biết tôi đang cần một chỗ ở có bảo đảm phần nào do tôi là kẻ không hộ khẩu. Vì đói, tôi nhảy ngang ra nghề sửa xe đạp lề đường. Tôi thuộc loại thợ tồi nên kiếm ăn cũng chẳng khá, nuôi được vợ con bữa đói bữa no là may. Nghề chính trước kia của tôi là cầm bút, nhưng nay thì không dùng được nữa vì tôi hết thời roi.
Người bạn mù ngắt lời tôi bằng ly rượu mời:
- Tôi mù, tôi không nhìn thấy người nữa mà tôi chỉ nhìn thấy ma qua tâm anh. Những con ma đầy màu sắc. Anh là một con ma có mùi phân heo. Chúng ta là đồng đội, hai thằng đồng đội tật nguyền tìm đến nhau. Mưa gió và đêm đen xúi bẩy anh tìm tôi. Hai chúng tôi xiết chặt tay nhau rồi anh đưa tay quờ quạng tìm chiếc đàn. Chị vợ biết ý đưa đàn cho chồng. Tiện tay, anh choàng lên cổ vợ. Chị vợ ngồi dưới, nép vào cái chân cụt của anh. Giọng anh trạm trầm:
- Ngày đó ở một nơi chiến trường heo hút, có đoàn nữ sinh đi ủy lạo chiến sĩ, trong đó có một nữ sinh lên hát tặng chiến sĩ, tôi đệm đàn ghi ta. Chúng tôi cảm tình với nhau rồi thư từ qua lại. Khi về hậu tuyến, tôi cưới nàng. Nàng ở lại trại gia binh, tôi tiếp tục đi chiến đấu. Không dè đến hôm nay cũng lại tôi đàn nàng hát, dắt tôi đi khắp các ngả đường bán vé số, mang hy vọng cho người đời. Đúng là một nghiệp dĩ.
Anh mù bỗng thở dài, buông vợ, gẩy lên vài tiếng đàn lạc lõng, vô nghĩa: - Anh nên về với chị và cháu, anh cứ đi, tôi đàn hát tặng theo anh một bản nhạc. Bản nhạc anh đã từng nghe và chắc anh thích.
Tôi từ giã hai vợ chồng, lội qua những vũng nước và mồ mả giải tỏa ngổn ngang gạch vữa cùng gai góc cỏ dại. Tiếng hát người mù đuổi theo tôi. Bài Chiều Mưa Biên Giới của Nguyễn Văn Đông. Chiều mưa biên giới anh đi về đâu? Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu Lòng trần còn tơ vương khanh tướng... Thì đường đời mưa bay gió cuốn... còn buồn anh ơi...
Những bước chân bì bõm lội làm nhịp cho lời ca.
Tôi về đến túp lều thảm hại. Mưa gió dai dâng, không biết bắt đầu cho một cơn bão hay bão rớt? Tiếng đàn lời ca theo mãi tôi vào giấc ngủ mệt nhoài. Lần đầu tiên và lần cuối cùng tôi gặp đôi vợ chồng mù.
Một lần tôi đi về khuya, không còn nghe tiếng đàn và lời ca nữa. Cả đến ánh đèn ma trơi trong nhà mồ cũng tắt ngủm. Khu nghĩa địa đã bị giải tỏa san bằng. Tôi lầm bầm nói. Mình không hẹn tái ngộ mà, có đúng không? Từ đó tôi không còn gặp anh mù đội be rê đỏ, thủng lỗ đạn cùng vợ đàn ca trên những nẻo đường nữa. Hai vợ chồng đó biến mất như ma. Một thời gian sau, vợ chồng con cái tôi cũng bị đuổi khỏi ao cá.
Câu chuyện đêm mưa chỉ đơn giản thế thôi. Hãy coi như chuyện ma quỉ hiện hình. Những con ma trơi nhởn nhơ trong đêm tối. Tôi kể lại trong cơn điên dại.
Người ta cho tôi nói xàm về thân phận ma trơi. Mẹ đã già lắm, áng chừng cũng phải tám mươi tuổi.
Tóc mẹ bạc trắng, còn lơ thơ ít cọng trên đầu, nhưng lúc nào cũng trùm cái khăn rằn ri cũ vắt ngược bỏ ra phía sau đầu gọn ghẽ, lối đội khăn của phụ nữ Nam bộ lao động, tiện lau mặt khi tươm mồ hôi hoặc lau miệng khi dính quết trầu. Mẹ móm mém, trầu cau phải nghiền nát bằng cái cối đồng nhỏ xíu, cái chày nghiền có răng, lúc nào cũng ở bên mình mẹ. Da mẹ nhăn nheo, lưng còng, mắt kém, nhưng được cái đôi tai còn thính, còn nghe rõ tiếng người gọi mua hàng. Ngần ấy tuổi với một thể lực tàn tạ, mẹ vẫn phải lao động kiếm sống, dù nhu cầu sống của mẹ chẳng là bao.
Gánh sương sa hạt lựu nước dừa vừa lành vừa mát của mẹ mỗi ngày một nhẹ hơn, địa bàn gánh đi bán rong của mẹ cũng thu hẹp lại dần.
Xưa kia mẹ gánh đi bán tận phía trên chợ Bà Chiều, vòng ra Tân Định qua cầu Kiệu về Phú Nhuận, gần hết hàng mẹ mới trở về ấp Đông Ba, băng vào đường Thái Lập Thành (nay là đường Phan Xích Long) về khu Rạch Miễu. Nhà mẹ ở đó, trong một túp lều thảm hại. Mẹ sống cu ki một thân một mình. Được cái ai cũng thương mẹ, vì mẹ ở đây đã lâu năm, không mấy ai rõ từ hồi.nào đến giờ, mẹ trung thành với gánh sương sa. Đã nhiều thế hệ ăn món quà giải khát vừa lành vừa mát của mẹ.
Lối xóm không mấy ai rõ tên tuổi mẹ, họ đặt cho mẹ cái tên "bà mẹ sương sa", riết rồi thành quen.
Cũng đúng với số kiếp hai sương một nắng của mẹ. Chắc chắn trong con người già nua cũ kỹ ấy phải có một dĩ vãng. Bây giờ mẹ đi bán sương sa phải chống gậy, bởi một lần gánh sương sa qua cầu gỗ Trần Khánh Dư, mẹ bị té lọi giò. Ông thầy nắn xương La Văn Lường trong ấp Đông Ba nắn lại xương cất miễn phí cho mẹ. Ông khuyên mẹ nghỉ ngơi, đừng lao động nữa, vì mẹ đã vượt quá tuổi lao động. Mẹ không nói gì mà chỉ gạt nước mắt. Thầy Lường hiểu hoàn cảnh của mẹ, thầy tặng mẹ Sương Sa một cây gậy trúc, một xị rượu thuốc bóp xương khi nhức mỏi. Từ ngày ấy mẹ đắt hàng, do khách hàng thương tình, mà cũng muốn kín đáo giúp đỡ mẹ. Gánh hàng sương sa hạt lựu nặng vừa đủ sức, mẹ chống gậy gánh đi.
Mẹ đi loanh quanh mà hàng đã hết, địa bàn bán hàng của mẹ không còn phải đi xa trong một vùng rộng nữa. Mẹ giữ cây gậy chống đến bây giờ. Cái chân thứ ba này tốt đáo để. Mẹ Sương Sa sống một mình trong căn lều nát, nhưng mẹ không cho mình là người cô đơn. Mẹ tất bật trong mua bán, trong việc săn sóc cái bàn thờ gỗ
quí mà trên ấy thờ chồng con của mẹ. Cái bàn thờ dứt khoát phải sạch sẽ, nhang khói mỗi chiều tươm tất khi mẹ đi bán về. Ngày rằm mồng một, mẹ cúng cơm chay cho ba cha con nhà nó. Hằng năm ba buổi giỗ. Kẻ đi trước người theo sau. Còn mẹ chẳng biết sao đây, vì mẹ không có ai là thân quyến. Nhưng cũng chẳng đáng lo chi, mẹ đã qui y trên Chùa, gửi linh hồn mẹ khi nằm xuống nương nhờ cửa Phật. Cả cái tủ thờ này cũng sẽ được sư cụ trụ trì cho đệ tử khiêng lên Chùa, thi hài mẹ được thiêu, nắm xương tàn của mẹ bỏ vào hũ, lại nằm trên bàn thờ này, đời đời nghe lời kinh tiếng kệ. Sư cụ đã hứa với mẹ như thế. Nên khi rảnh rỗi, mẹ Sương Sa lại lên Chùa làm công quả. Buổi tối trước khi đi nằm, mẹ Sương Sa lau cái tủ thờ sạch bóng, bộ lư nhang sáng đẹp ánh vàng. Hai tấm hình hai đứa con trai của mẹ và tấm bài vị của ông chồng quá cố lúc nào cũng sạch bóng. Hai tấm hình bán thân của hai thằng con trái ngược nhau, cả hai đều bận quân phục, nhưng là quân phục của hai bên hai chếđộ kình chống nhau. Mẹ biết chứ, nhưng xét nét làm chi. Chúng đều trở thành người thiên cổ như cha chúng. Nghĩa tử là nghĩa tận. Trước bàn thờ là bộ ván ngựa mẹ Sương Sa nằm ngủ. Khi mệt, mẹ ngả lưng. Thường thường mỗi đêm mẹ thiếp đi lại nằm mộng thấy chồng con mẹ vẫy gọi rủ mẹ dạo chơi miền tiên cảnh.
Mẹ Sương Sa tỉnh giấc sau giấc mơ, nhìn lên mái tôn mục nát có những lỗ thủng lỗ chỗ, ánh sáng ban mai chan hòa trên mái lều như ngàn vạn những vì sao.
"Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm...Mái tranh nghèo ai người sửa sang...Khu vườn cũ hoa vàng trước ngõ... Cứ nghĩ đến câu hát ấy, bà mẹ Sương Sa muốn khóc. Câu hát ấy chính thằng Bờ, con trai lớn của mẹ, và bạn nó đã hát lần về phép thăm mẹ cuối cùng. Sau đó nó ra đi và đi mãi. Mẹ đã khóc đến chảy cả máu mắt. Như lần đầu mẹ khóc chồng trên sông Cầu Bông chảy qua Thị Nghè rồi ra cửa biển.
Khi đó con sông cầu Bông chưa ai gọi là con kinh hay con rạch, nước đen hôi thối. Hai bên bờ sông vắng vẻ, thưa thớt nhà cửa, là những mảnh ruộng đất bỏ hoang. Đứng ở cù lao Rạch Miễu này nhìn ra tuốt tận Thị Nghè.
Gia đình mẹ Sương Sa sống trên ghe trôi dạt từ sông nước miền Tây, đồng bằng sông Cửu Long lên. Nói là gia đình thì cũng hơi quá, vì chỉ có hai vợ chồng và một thằng con nhỏ chập chững biết đi, thằng Bờ, vì khi sanh nó, anh chồng phải tắp ghe vô bờ, nhờ người ở xóm ven sông kêu mụ đỡ đẻ. Rồi cũng mẹ tròn con vuông, vợ chồng đặt tên nó là thằng Bờ. Cuộc đời tưởng mãi trôi dạt trên sông nước. Bến cuối cùng họ dừng lại ở cù lao Rạch Miễu. Anh chồng nói với chị vợ:
- Mình đã qua biết bao nhiêu cái cầu xi măng có lính gác, cả Ta cả Tây, họ sắp đánh nhau rồi đó. Mình cũng hết sông rạch đi, phía trước kia là cửa biển. Ngoài đó có tàu chiến của giặc Pháp, đi không được, quay về cũng dở. Tao nghi ở trên cù lao này có nước ngọt, không phải nước phèn miệt Long An. Phía bên kia sông có lẽ là thành phố. Má nó lên kiểng Chùa kia xin nước đi.
Nơi gia đình mẹ Sương Sa dừng bước lênh đênh là cù lao Rạch Miễu tỉnh Gia Định. Nhà cửa lúp xúp trong đám lá cây rậm rạp kia là ấp Đông Ba. Bên kia sông là thành phố Sài Gòn, Tân Định, Dakao, đất Hộ, nối qua bằng mấy cây cầu xi măng: cầu Kiệu, cầu Bông, cầu Thị Nghè.
Tình thế sắp chiến tranh nên những cây cầu được canh gác cẩn mật, kỹ lưỡng, sự qua lại cũng khó khăn. Nhưng với dân bản xứ không khó khăn chi mấy. Con đường sông rạch có những chiếc ghe tam bản qua lại ở bất cứ khúc nào. Có những người chèo đò thuê, chuyên nghiệp hoặc tay ngang đều được hết. Anh chồng chị Sương Sa lợi dụng cái ghe của mình chở đò đưa khách qua lại khúc sông Cầu Bông. Anh cắm dùi làm nhà cho vợ con ở ngay cù lao ven sông. Chị vợ ra nghề bán sương sa hạt lựu, đời sống tạm thời ổn định. Chị vợ lại có thai khi chiến tranh bắt đầu bùng nổ. Người Sài Gòn chạy tản cư, cầu đường bị tắc nghẽn, người ta đổ xuống mé sông, những chiếc đò ngang đưa đồng bào sang bên kia bờ, nơi xa súng đạn. Địa đầu tỉnh Gia Định cũng được coi là miệt quê, chạy dài lên tận Bà Điểm, Hóc Môn hoặc Mười Tám Khu Vườn Trầu.
Anh chồng chị Sương Sa bận túi bụi ngày đêm với những chuyến đò, không thuần chỉ có đần mà cả những toán du kích nhập thành phố tiếp viện cho mặt trận Sài Gòn. Những chuyến đò trên sông nước cũng khá nguy hiểm, vì những chiếc ca nô tuần tiễu của giặc Pháp chạy dậy sóng, bắn thị uy vô tội vạ. Nhưng đôi khi cũng nhằm trúng mục tiêu. Những con đò tan nát từng mảnh, người chết máu loang đỏ khúc sông trong tiếng cười say máu như say rượu của lũ lính Tây trên ca nô.
Mẹ Sương Sa khi ấy còn trẻ lắm, bụng mang dạ chửa, gào khóc chạy như điên sau hồi súng nổ. Tiếng máy ca nô mất hút phía hạ nguồn dòng sông. Con đò quen thuộc tan nát, chỉ còn máu đào loang đỏ, nạn nhân táng mạng, không tìm thấy xác. Chị Sương Sa gào khóc chạy dọc theo dòng sông, thằng Bờ nhỏ bé lúp xúp chạy theo mẹ cũng nhễ nhãi khóc.
- Mình ơi, mình đâu rồi, còn sống với mẹ con em không, mình ơi!
Chỉ có gió sông vì vèo trả lời, chị Sương Sa gục ngã dưới chân cầu Bông, những xác người đã mất tăm chỉ còn những mảnh ván vụn của chiếc đò quen thuộc bập bềnh trôi về hạ nguồn. Mẹ con đành bồng bế nhau về chiếc chòi lá. Chị Sương Sa bỗng dưng thành góa phụ. Buổi tối hôm ấy, mẹ con chị Sương Sa đốt bó nhang cắm bên bờ sông van vái linh hồn chồng, van vái Phật Trời. Chị không còn nhớ mình van vái gì nữa, vì thời gian lâu quá rồi.
Chị Sương. Sa định cư luôn ở xóm này, dù không còn những chiếc đò bập bềnh trên sông nước, không còn người chồng vững tay chèo. Một nách chị ôm hai đưa con thơ dại. Thằng Bụi ra đời sau đó hai tháng. Chị đẻ nó trong bụi cây ven sông, khi giặc Pháp ruồng bố. Người goá phụ phải dùng răng tự cắn rốn cho con. Rồi thành phố cũng yên, chiến tranh lui ra ngoài xa, gánh sương sa nặng trũ trên vai, chị ở vậy nuôi con khôn lớn. Trời cũng thương hai đứa trẻ: thằng Bờ, thằng Bụi hay ăn chóng lớn. Thằng Bờ đã ra được sông câu cá, thằng Bụi có chiếc chạc ná bắn hạ được những con chim trời, thêm thắt vào bữa ăn đạm bạc của ba mẹ con.
Chị Sương Sa có thể giao nhà cho hai đứa trẻ nhỏ, lo việc buôn bán từ sáng đến chiều. Chị mơ ước mươi mười lăm năm nữa, khi có tuổi, chị sẽ làm bà nội, có cháu bồng. Một ước mơ giản dị của bất cứ con người bình thường nào. ôi sung sướng biết bao nếu điều mơ ước đó thành sự thật! Sao lại không, ngày kỵ giỗ nào của chồng, ba mẹ con không cắm nhang khấn vái! Linh hồn ông có sống khôn thác thiêng phù hộ độ trl cho ba mẹ con tui. Cũng do điều này chị ở vậy nuôi con, kiên quyết không bước đi bước nữa.
Đó là nói thuở mẹ còn trẻ kia, khi cô hàng bán sương sa nhan sắc còn mặn mà, một cô gái miệt sông nước Nam bộ, đôi mắt có buồn một chút, nhưng nụ cười thì tươi tắn dễ làm ngẩn ngơ khách si tình. Thuở đó cũng lại xa rồi...
Thằng Bờ đã lớn, khi chị Sương Sa bước vào tuổi già. Thằng Bờ cùng em là thằng Bụi dựng lại căn nhà cho mẹ khang trang hơn, mái lợp tôn và đổ nền láng xi măng, có thể gọi là một căn nhà được, không còn là túp lều tạm bợ nữa.
Đến lúc này mẹ Sương Sa lại có một ao ước khác:
- Tao ước chi có một cái tủ thờ để thờ ba mày, rồi sau này tụi bay thờ tao. Tao tính trước cả rồi, tao có ra ngoài chợ Bà Chiều chụp một tấm hình lộng kiềng để tụi bay thờ tao lên bàn thờ, cùng với bài vị của ba mày.
Thằng Bờ la lên:
- Má lẩm cẩm rồi, đang sống nhăn đã lo chuyện chết, được tôi sẽ mua cho má cái tủ thờ.
- Mày làm gì mà lo được, một tủ thờ làm bằng danh mộc, tao đặt đóng tận Bình Điền, đâu phải ít tiền, còn bộ lư nhang bằng thau, rồi dĩa trái cây ngũ qua...
- Được mà, con lo hết..
Có phải một lời nói gở không? Nhiều năm sau bà mẹ Sương Sa vẫn còn nhớ. Thuở ấy thằng Bờ tròn hai mươi tuổi. Số tuổi lý tưởng cho người ta bắt lính. Chiến tranh ác liệt xảy ra quanh thành phố, ở khắp mọi nơi.
Sau trận Mậu Thân đánh nhau trong nhiều thành phố, người chết đếm không xuể. Trên rạch Cầu Bông và những con rạch khác, xác người trôi bồng bềnh. Những con tôm đeo trên thi thể những xác vô thừa nhận no căng lương thực, đến đỗi cả tháng trời dân thành phố không dám ăn tôm, ăn cá sông. Mẹ Sương Sa còn nhớ
như in hình ảnh hãi hùng ấy. Thương cảm những xác người vô thừa nhận, trôi dạt vào gầm cẩu, mẹ thắp cho họ những nén nhang. Mẹ đứng bên ngoài chính trị và cũng chẳng biết chính trị là gì, như nhiều năm sau cũng vậy. Thằng Bụi khi đó mười lăm mười sáu tuổi chi đó, nó cũng đỡ đần được cho mẹ. Thằng Bờ bị bắt lính. Khi mẹ hay tin, lên Trung Tâm 3 thì thằng Bờ cầm lấy tay mẹ, nói chuyện thật tình:
- Nhà mình lấy tiền đâu mà chạy chọt, má đừng tính quẩn mất công. Tuổi này, đằng nào thì con cũng phải đi lính, con đăng lính luôn, em con được miễn dịch vĩnh viễn, ở nhà phụng dưỡng má. Rồi đây sẽ hết chiến tranh, người ta không còn bắn giết nhau nữa, con sẽ về với má với em, con sẽ có vợ có con, má có cháu nội bế bồng... Thằng Bờ nói trong nụ cười, giống hệt như nụ cười cha nó ngày nào, khi lái mái chèo quay con đò vào bến, nhìn thấy vợ con đứng đợi trên bờ.
Bà mẹ Sương Sa yên lòng.
Thằng Bờ nhiều lần về phép, nó bận quân phục rằn ri mũ nồi xanh. Nó nói nó ở Thủy Quân Lục Chiến, phải đi đánh nhau như điên mà chẳng hề hấn chi cả. Nó lại tặng mẹ tấm hình bán thân bận quân phục, tô màu trông "kền sì po" ra phết. Những lúc vắng con, mẹ Sương Sa mang hình ra ngắm cũng thấy đỡ nhớ.
Lần cuối cùng thằng Bờ về phép thăm mẹ, mang theo bạn bè về ăn nhậu rồi ca hát suốt một buổi chiều. Nó đã hát bài có những câu gở mồm gở miệng như thế. Mẹ Sương Sa thấy lo lo, rồi như những lần trước thằng con lại ra đi. Mẹ nhớ mãi dáng người cao cao, dẻo dai và cái cười nửa miệng giống hệt cha nó, khi chống ghe ra giữa dòng sông.
Một mùa hè đỏ lửa năm 72 ở Quảng Trị. Những trận đánh kinh hồn ở Cổ Thành, ở La Vang, trên đại lộ Kinh Hoàng, cướp đi bao nhiêu sinh linh, gây lo lắng cho những người có thân nhân tham chiến trong thời kỳ Việt Nam hóa chiến tranh. Mù chữ như mẹ Sương Sa mỗi ngày cũng mua báo nhờ người đọc nghe tin chiến sự.
Thủy Quân Lục Chiến đổ quân tiếp viện cho Quảng Trị. Thành phố Quảng Trị trở thành đống gạch vụn.
Hằng đêm mẹ Sương Sa cầu trời khấn Phật, cầu bình an cho con mình. Lời cầu xin đó có lẽ không thấu
Trời xanh nên mẹ Sương Sa phải nhận tin xấu. Người sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, thuộc phòng Quản Trị Nhân Viên đơn vị tìm đến nhà, đứng chụm chân giơ tay chào mẹ Sương Sa:
- Xin thành thật chia buồn với bác và gia đình. Đơn vị chúng tôi báo tin binh nhất Nguyễn Văn Bờ được vinh thăng hạ sĩ, đã anh dũng hy sinh vì tổ quốc tại mặt trận Mỹ Chánh Quảng Trị. Đơn vị đã cố công tìm kiếm mà không thấy thi hài hạ sĩ Bờ. Bà mẹ Sương Sa khóc ngất khi nghe tin dữ, thằng Bụi phải giật tóc mai cho mẹ mới lai tỉnh. Người sĩ quan vẫn lạnh lùng, không tỏ về xúc động. Trên tay ông còn cả xấp giấy báo tử, luật chiến tranh phải khắt khe như vậy rồi. ông ta nói một câu máy móc:
- Tổ quốc ghi ơn hạ sĩ Bờ, mang ơn các vị phụ mẫu đã cống hiến cho tổ quốc những đứa con dũng cảm. Mai bác ở nhà, chúng tôi tới đưa bác đi làm thủ tục nhận tiền tử tuất và từ nay bác được ăn tiền tổ phụ.
Người sĩ quan trao giấy báo tử rồi chụm chân chào, đằng sau quay dứt khoát, đúng quân cách. Tiếng động cơ xe Jeep nổ ngoài đường.
Thế là thằng bé tử trận, mất xác, như cha nó cũng mất xác trên dòng sông.
Thằng Bờ tử trận, để lại cho mẹ Sương Sa nỗi buồn, nhưng cũng để lại cả tiền tử tuất mà mẹ Sương Sa coi là quá lớn lao. Một đời mẹ chưa bao giờ cầm số tiền lớn như vậy.
Mẹ lại được ăn tiền tổ phụ, mẹ đỡ lo về mặt sinh kế. Nhưng nào mẹ có ham. Nghề bán sương sa bây giờ là bán chơi, nhưng mẹ yêu nghề và nhớ khách hàng, mẹ không thể ở không, đó cũng là cách giải khuây. Điều mừng vui nhất là thằng Bụi vĩnh viễn không phải đi lính, không phải ra nơi trận mạc nữa, sẽ được ở lại hợp pháp để phụng dưỡng mẹ già, để nối giỏi tông đường. Rồi chiến tranh cũng phải yên, phải chấm dứt thôi. Ngôi nhà này sửa lại khang trang, thằng Bụi sẽ có vợ, rồi những đứa cháu ra đời gọi mẹ Sương Sa là bà nội. Mộng ước bình thường của mẹ Sương Sa vẫn còn tồn tại... Bà mẹ Sương Sa nghĩ đến lời nói gở của thằng con hồi sinh tiền, mẹ lại nghĩ đến cái tủ thờ. Chồng mẹ, con trai của mẹ xứng đáng ngồi trên đó, dĩa ngũ quả và khói nhang linh thiêng gọi hồn người đã khuất về chứng giám cho người vợ, người mẹ gần trọn một đời đau khổ, nghiệt ngã triền miên..
Sẵn tiền trong tay, mẹ thực hiện ngay điều ước mơ ấy. Mẹ cùng thằng con còn lại đi ngay xe đò xuống Bình Điền đặt đóng cái tủ thờ bằng danh mộc, chạm trổ xà cừ
tinh vi, toàn là tiên cảnh, thanh bình như lạc vào xứ thần tiên mà người phàm không thể đến được. Núi non có cây tùng cây bách, trời có mây nổi, suối có hoa trôi, có đôi chim hạc bay cao tít. Trên thạch bàn có tiên ông ngồi đánh cờ, đoàn tiên nữ xách giỏ đào tơ dâng Tây Vương Mẫu. Tuyệt vời quá đi thôi.
Mẹ Sương Sa tin rằng một ngày nào đó mẹ nằm xuống, hồn mẹ phải được vui chơi miền tiên cảnh, không còn là ước ao nữa. Một đời mẹ sống hiền lành, trung hậu. Mẹ hiền như đất phù sa bồi bên bờ Cửu Long. Mẹ tin như thế và mãi mãi tin như thế. Một miền tiên cảnh vẫn chờ đợi mẹ lên dạo chơi, người ở cõi trên đón tiếp mẹ, không phải giống quỉ sứ đầu trâu mặt ngựa nhận lệnh Diêm Vương đi bắt hồn mẹ về địa phủ. Tiếng nhã nhạc cõi tiên nổi lên trong đầu mẹ mà chỉ mình mẹ nghe thấy, cảm được ý nghĩa của nó. Dù ngoài xa kia tiếng đại bác vẫn nổ ùng oang hằng đêm, những quả đạn pháo kích vẫn rơi vào thành phố. Trời kêu ai người đó dạ.
Khi mẹ Sương Sa mua được cái tủ thờ và bộ lư đồng như ước mong, thằng Bụi đề nghị mẹ mua thêm bộ ván ngựa dầy, cũng thuộc hàng danh mộc, mọt muôn năm không đục khoét được, kê trước tủ thờ để mẹ nằm nghỉ. Bộ ngựa không cần trải chiếu, mát rười rượi khi trời nóng bức. Mẹ Sương Sa đồng ý, sướng cho thân già của mẹ lại chiều được lòng thằng con hiếu thảo.
Thằng Bụi chống, sửa sang lại căn nhà cho thêm phần khang trang. Nó tự nhủ nó làm thay thằng anh khuất bóng.
Bài hát ngày nào anh nó hát trước lúc ra đi sẽ không còn ngậm ngùi mãi trong lòng mẹ: Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm... Mái tranh nghèo ai người sửa sang...? Có em đây, anh! Thằng Bụi nói thầm như thế khi nó trần lưng trên mái nhà. Nó lay thử cột nhà, lấy dây kẽm giăng kềm tứ phía, chắc lắm rồi, căn nhà không thể đổ ụp hay tốc mái khi gió bão. Hai mẹ con đứng ngắm căn nhà hài lòng..
Tất cả tình thương yêu của mẹ Sương Sa đều dồn cho đứa con còn lại, mẹ âu yếm hỏi con:
- Mày chịu lấy vợ chưa, má đi hỏi cho.
Thằng Bụi lắc đầu quầy quậy, mẹ Sương Sa hỏi tới:
- Hay mày ưng đứa nào, đưa về tao ngó được tao hỏi liền...
Thằng Bụi vẫn lắc đầu:
- Không đâu má, tôi chưa ưng lấy vợ, cũng chẳng mèo mỡ với con nào, chẳng để ý đến ai. Nghề nghiệp tôi chưa ổn định, chưa kiếm ra tiền làm sao nuôi vợ, ỷ lại má hoài coi sao được. Tôi muốn ở với má, làm ra tiền nuôi má đã, chuyện kia tính sau. Tôi chỉ sợ lấy con nào về, nó làm buồn lòng má, tôi mang tội với ba, với linh hồn anh hai tôi thôi. Con gái bây giờ ghê lắm, đâu có được những người như má, các bà già xưa. Thiếu gì đứa bỏ chồng con đi lấy Mỹ, lấy Đại Hàn...
- Mày đừng nói vậy, tội chết, có người thế nọ kẻ thế kia.
Câu trả lời của thằng Bụi dứt khoát, hiếu nghĩa trọn bề. Thôi thì hai mẹ con sống với nhau trong ít năm nữa, mẹ Sương Sa thầm nghĩ thế. Thằng Bụi tập sự theo nghề thợ tiện. Mẹ Sương Sa có vẻ hài lòng, thường khoe với hàng xóm: "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh".
Nhưng thằng Bụi không học được nghề trót lọt, nếu không nói là dở dang vì thời thế.
Căn nhà của mẹ Sương Sa và thằng Bụi xiêu vẹo vì Sài Gòn bị pháo kích liên miên. Tuy nhà không trúng đạn nhưng sức nổ gây áp suất mạnh thổi ào ào cũng làm cái nhà muốn bung ra, kết quả là nhà bị xiêu vẹo
Nhà cửa chưa kịp sửa sang lại thì giải phóng ập vào Một cuộc đổi đời vĩ đại qua những anh bộ đội lạ hoắc mà xưa kia họ được gọi là Vi Xi. Họ có vẻ hiền lành nhưng cũng thật kiên quyết. Có vậy họ mới đánh thắng được một triệu lính Cộng Hòa, đuổi được Mỹ. Giới lãnh đạo làm cách mạng của họ còn kiên quyết hơn, nói nhiều điều nhân nghĩa mà cứng rắn nghiêm minh. Quân bại trận, lớp lớp sĩ quan đi học tập cải tạo, để trở thành người tốt hơn, binh sĩ học tập ngắn ngày rồi trở về làm dân, để kiến thiết đất nước, dân từng bị chế độ cũ kìm kẹp được cai trị uốn nắn cho thích hợp với hoàn cảnh mới để trở thành nhân dân một nước tự do độc hạnh phúc, sàng lọc kỹ những tàn dư Mỹ Ngụy! Chính sách như thế. Mẹ con bà mẹ Sương Sa tạm thời yên ổn, sống trong chế độ mới. Chỉ có một lần, một cán bộ mà người ta gọi là cách mạng ba mươi (tức theo cách mạng ngày 30.4.75) tới nhà nạt nộ bà già, chỉ lên bàn thờ, ngay cái hình thằng Bờ mặc quân phục rằn ri, lính ngụy:
- Hộ này, hạ ngay cái hình thằng lính ngụy đánh thuê kia xuống, thờ cúng chi cái giống phản dân hại nước. Bà mẹ Sương Sa đang ngồi nhặt thóc và sạn trong kí lô gạo tổ vừa mua được ở Hợp Tác Xã, ngẩng lên hỏi:
- Chú nói sao?
Tôi nói là hạ ngay cái hình thằng lính ngụy kia xuống.
- Ơ hay, nó là con tôi mà, nó đã chết trận. Nghĩa tử là nghĩa tận, chú ơi.
Anh cán bộ ba mươi cười:
- à ra vậy, nhưng cũng phải hạ xuống không thì lôi thôi to đấy chết trận hả, tội ấy còn nặng nữa kia, có nợ máu với nhân dân.
Bà mẹ Sương Sa vẫn không rời mắt khỏi rá gạo, thủng thẳng nói:
- Đúng đấy, chính nó đã nợ máu tôi, ngày tôi đẻ nó trên bờ sông, tôi đã đổ biết bao nhiêu là máu...
Thằng Bụi ở trần, bận quần đùi, vê lên tận bẹn, như đóng khố, mặt nó đen nhẻm coi lì lì cuất hiện, hất hàm: - Này, hình thờ anh ruột tao đấy, muốn hạ hình đó thì mày bước vào mà hạ. Tao mời đó, cứ bước qua xác tao... Rõ ràng là một câu đe dọa rất giang hồ anh chị. Câu đe dọa của thằng cùi không sợ lở. Kìa, cây chĩa ba nhọn hoắt rung lên trong tay thằng thanh niên mới lớn. Răng thằng Bụi nghiến trèo trẹo, đôi mắt nó không hiền, đôi mắt dám ăn thua đủ: - Thằng Tèo, nếu mày không dám vào thì về đi. Mày về nhà mày hạ hình thờ bố mày xuống để làm gương, bố mày đi lính ngụy từ hồi nào đến giờ, cũng đã chết
trận rồi đó. Tao không lạ gì cái bản mặt mày đâu Tèo à... Đ.M cái quân theo đóm ăn tàn... Coi khí thế thằng này thiệt hung, nhịn đi là hơn, thằng Tèo trả lời yếu xìu:
- Tao hạ rồi.
- Chuyện của mày không làm gương được cho ai đâu, cút ngay!
Ngay chóc, nhà cách mạng ba mươi Nguyễn Văn Tèo phải lủi ngay. Cái thằng Bụi này có tiếng bắn chạc ná giỏi, bây giờ nó cầm cái chĩa ba xiên cá trên tay. Ai dè nó lại là con cái nhà này. Thế là chuyến lập công bị tổ trác. Thằng Tèo cúi xuống xỏ lại quai dép râu đi chưa quen. Bà mẹ Sương Sa nhắc nhở con:
- Mình không hạ hình anh hai mày thì thôi, ra lời làm chi cho nó thù oán mình.
Nhà mình còn quái gì mà mất nữa, má sợ cái chi! Thằng nào đến nói cái giọng xấc xược ấy nữa, má đơm chổi chà lên đầu nó cho tôi. Thằng Bụi nói xong quay ra bờ sông đâm cá chùm phục. Nó hy vọng tìm ra chút thịt cá cho mẹ ăn mặn miệng, chút bổ dưỡng cần thiết cho người già. Tội nghiệp bà ăn khoai lang khoai mì hoài, người gầy nhom. Gạo tổ do bà Năm Buồm bán, bà chỉ mua được hạn chế. Cái khó khăn chung của cư dân thành phố sau ngày được giải phóng.
Món quà mẹ Sương Sa bán, không phải nhu yếu phẩm cần thiết, khách ăn giải khát cũng được mà không cũng được. Món thèm thuồng của họ là cơm, gạo. Chuyện ấy người ta nghĩ rỗng không bao giờ có thể xảy ra ở miền Nam, vựa lúa gạo của cả nước. Thời kỳ còn chiến tranh, ruộng vườn không làm được thì dân có gạo viện trợ, chưa một ngày nào dân phải ăn khoai, mì thay cơm. Vậy mà thật đấy. Biết bao nhiêu là lý lẽ tung ra để biện bạch cho việc miền Nam thiếu cơm gạo. Chẳng ai cãi
làm chi cho mắc tội, vì vẫn có những phần tử được ăn cơm độn thịt gà hay sườn heo nướng. Có người ăn để mà sống thì cũng có người sống để ăn, để bù lỗ... Thời gian trôi trong rộn ràng qua loa phóng thanh của người cách mạng vinh danh cho cuộc chiến thắng thần kỳ. Phát động đủ thứ chiến dịch để xây dựng quê hương, kiến thiết xứ sở, đất nước bằng mười ngày xưa!
Một miền tổ quốc vốn đã bị kẻ thù làm cho thối nát, nay phải làm lại tất cả, coi như từ đầu, đạp đổ san bằng không thương tiếc bằng khí thế cách mạng có đường lối đúng đắn qua kinh điển. Thanh niên nam nữ lên đường làm thủy lợi. Những lời tuyên truyền huênh hoang, đội đá vá trời. Một dân tộc thần kỳ có thể làm được tất cả mọi chuyện, kẻ thù nào cũng đánh thắng, khó khăn nào cũng vượt qua! Tất cả phải nằm trong guồng máy quay, phải đều đặn và nhịp nhàng như vào máy khoa học kỹ thuật của nhà máy đóng nút chai nước mắm. Tất cả nên trở thành quốc doanh. Người ta nói nhiều quá đi thôi, vậy mà vẫn có những phần tử "xìu xìu ển ển". Thành phố phát động chiến dịch giãn dân đi kinh tế mới lập nghiệp. Kẻ nào chống đối lại là phản động. Nhân dân ngoan như cừu. Trong lúc ấy hai nước anh em lại giở mặt như giở bàn tay mà không biết ngượng. Đất nước núi liền núi sông liền sông ở miền Bắc đổ quân xâm lăng biên giới.
Miền tây nam tổ quốc, Căm Pu Chia có bọn Khơ Me đỏ ngày nào nào còn là bạn bè nay cũng bày đặt chuyện chiến tranh. Dù vậy chính sách trong nước đã đề ra vẫn được thực thi quyết liệt, vẫn đào kinh vét mương làm thủy lợi, vẫn tang gia sản xuất, vẫn phát động dân nghèo đi kinh tế mới lập nghiệp, khắp mọi quận, phường trong thành phố. Nhân dân có thể tự nhổ nhà mình, mang theo chổi cùn rề rách, nhà nước giúp phương tiện cho ra đi. ấp Đông Ba cũng có nhiều hộ tuân hành pháp lệnh, không đi hết gia đình thì cũng đi phân nửa. Những phần tử còn lao động được ra đi, ông già bà cả ở lại giữ nhà, đề phòng đường rút. Họ gạt nước mắt lên đường... "trong hạnh phúc tràn trề"! Báo, đài tường thuật vậy. "Tất cả
nhân dân đều hồ hởi phấn khởi lên đường xây dựng vùng kinh tế mới"! Báo, đài cũng tường thuật như thế. Thằng Bụi vô công rỗi nghề được bà Phấn, vợ một ông trung tá ngụy đang đền tội ác, trả nợ máu cho nhân dân ở một trại học tập cải tạo nào đó, thuê cùng một số thanh niên khác trong xóm đến phá xập ngôi nhà bà thành một đống gạch vụn, đồ đạc trong nhà cũng đập nát luôn, giá nào cũng không bán lại cho ai.
Người ta nói ngày trước chồng của bà tham nhũng, bóc lột nhân dân nên vẫn còn nhiều đô la, kim cương, vàng ròng.
Bà Phấn coi phá xong nhà, trả công sòng phẳng cho người thuê mướn rồi dắt lũ con ra đi. Lối xóm hỏi đi đâu, bà nói đi kinh tế mới ở quê nhà, để ông chồng bà học tập tốt, sớm trở về xúm họp với gia đình. Nhưng rồi ai cũng biết bà dắt con đi vượt biên, ông chồng bà chết bỏ xác trong trại cải tạo vì say khoai mì.
Phường, tổ họp phê bình bà Phấn ỷ có tiền bạc, "phát sinh" hành động ấy, là xấu xa phản động. Nhà cửa như thế mà không để lại cho "nhân dân", hoặc làm nhà trẻ, làm việc công ích, cũng cho nhân dân. Tồi tệ không chê được. Nhân dân phải lên án. Nhiều cái mồm phát biểu lao nhao như mở máy phát thanh và có những bộ mặt nghiệt ra. Chẳng còn ra làm sao sất cả. Một tấc không đi, một ly không rời, thế có nghĩa là ỳ thân xác ra. Thừng Bụi nghĩ nông cạn như thế cho gia đình mình. Không kinh tế mới, kinh tế cũ gì ráo. Cả gia đình chỉ có hai mẹ con, cái tủ thờ có bố và anh hai nó ngự trị trên đó... Một ngày đẹp trời, cán bộ phường xuống nhà bà mẹ Sương Sa động viên mẹ lên đường đi vùng kinh tế mới lập nghiệp. Mẹ Sương Sa đang ngồi trước rổ khoai lang, phải gọt đến ba phần tư khoai sùng bỏ đi, ngẩng lên hỏi:
- Các chú nói gì, tôi nghe không rõ và cũng không hiểu. Nói lớn giọng một chút, cái tai tôi điếc mất rồi.
Thật ra tai mẹ không điếc, mẹ giả đò thế thôi. Nhưng anh cán bộ vẫn phải lớn giọng giải thích, cố nhồi nhét vào cái đầu tối tăm của "bà già nhân dân" ở tỉnh thành mà quê mùa này hiểu thế nào là ý nghĩa cao đẹp của chính sách đi lập nghiệp Kinh Tế Mới.
Bà già lần thẩn:
- Thế hả, vậy thì có được ăn cơm không, lâu nay không ăn cơm, tao thèm lắm. Gạo tổ của bà Ba Thi bán ở bà Năm Buồm này tao ăn không đặng, nhiều sạn quá, khoai lang thì sùng đắng, tao phải bỏ quá nửa nè. Nói thiệt cho bay biết, mấy thứ này hồi trước người ta cho heo ăn, khoai sùng khoai đắng heo chê nên người ta phải nấu cám trộn với gạo, cho heo ăn. Vậy mà bây giờ bán cho người ăn thì tội chết, tao già, sống quá nửa đời người rồi, tính tao chân thiệt có sao nói vậy, tội lắm bay ơi...
Bà già thật quá sức lẩm cẩm, nhưng với cương vị người làm cách mạng, anh cán bộ cũng phải giải thích cho dân hiểu, dân nghe, phối hợp với tuyên truyền:
- Đó là khó khăn chung của nhân dân cùng chịu, chúng ta đang làm cách mạng, rồi đây đất nước sẽ được giàu đẹp, nhân dân cơm no áo ấm, ăn sang mặc đẹp Đồng chí lãnh đạo đã nói thế.
- Không dám đâu, tụi bay làm cách mạng đi, tao hổng thèm đâu, tao tuổi già sức yếu rồi...
Ngu ơi là ngu, anh cán bộ thầm kêu như vậy, giống người này cần được giáo dục, đả thông tư tưởng để biết thế nào là cách mạng, nếu bà còn trẻ, tôi sẽ gửi bà đi trường học tập cải tạo một khóa. Nhưng bây giờ thì vẫn kiên nhẫn, ngon ngọt, không được nổi nóng: - Má à, ta cần phải hy sinh, hễ là nhân dân Việt Nam, không kể già trẻ lớn bé đều phải hy sinh, bao nhiêu thế hệ người phải hy sinh xương máu để có ngày hôm nay, đất nước được độc lập tự do, phải noi gương nhân dân miền Bắc đã hy sinh suốt mấy chục năm qua. Ta thống nhất được đất nước, đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào... Tao đã hy sinh rồi, mạng sống của chồng tao, một thằng con trai tao dứt ruột đẻ ra. Bây giờ cha con nó ngồi cả trên tủ thờ kia, hai thằng bay thấy không? Hai anh cán bộ nhìn lên tủ thờ, họ thất kinh. Hình một thằng lính ngụy, đủ cả cân đai mũ mãng trông ác ra mặt, đập vào mắt họ, bà già này to gan thật:
- Nhưng má... có thể thờ thằng con, nếu thằng ấy bận quần áo khác... Bà mẹ Sương Sa lắc đầu, chẳng còn biết nói sao. Thằng Bụi xuất hiện. Nó vừa đi kiếm ăn ở ngoài chợ về, mặt nó coi có vẻ hình sự, côn đồ, vỡ giọng nói ồm om:
- Hình anh ruột tao đó, con đẻ của má tao. Mẹ tao ưa nói lẩn thẩn, nhưng tình thiệt, dù bà không biết chữ, nhà tao ba đời mù chữ, kể cả tao, nhưng tao cũng biết phải quấy. Tao nói cho tụi bay biết má con tao không đi đâu hết, má tao mất sức lao động rồi, còn tao đã trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, chưa biết ngày nào tao lên đường...
Thằng thanh niên không biết thế nào là lễ độ, mày tao vung xích chó, chẳng còn coi ai ra gì. Cũng chẳng trách nó được vì nó đã sống và lớn lên trong chế độ cũ nên thiếu giáo dục. Hai anh cán bộ đành rút lui. Còn gì mà nói nữa! Nhưng một
đồng chí cán bộ cũng ghi nhớ vào sổ đen: Hộ đó, trong con hẻm nhà không số, không tên đường, thuộc gia đình đáng lưu ý để giáo dục. Bằng cách nào thì hạ hồi phân giải, cấp trên quyết định...
Thằng Bụi mang về cho mẹ một bọc cơm nguội ngắt, một túi ni lông thịt heo kho nước dừa với hai cái hột vịt:
- Má đổ cái rổ khoai heo ăn kia đi, hấp cơm lên mà ăn, kho lại thịt heo hột vịt, "chất đốt" trong bếp còn mấy thanh củi đó. Má nhớ giặt cái bọc ni lông để trả lại người ta.
Bà mẹ Sương Sa ôm bọc cơm:
- Thiệt quí giá, người nào mà tốt vậy bay, sao không mang gạo thịt sống cho mà lại kho nấu chi cho mất công?
Tại má không biết đó thôi, những thứ này bạn con ở dưới quê mang lên làm quà cho bà con, phải nấu chín, mang những đồ sống lên thành phố không thoát khỏi trạm kiểm soát kinh tế đầu. Người mang sẽ mắc tội buôn lậu, thiếu gì người đã bị bắt.
Lạ nhi, tao mới nghe "chiêng" đố lần đầu trong đời. Nghĩ đến gạo trắng nước trong tao bắt thèm. Bà già trầu xỉa miếng thuốc lên hàm răng chiếc còn chiếc mất. Mẹ Sương Sa lo lắng miếng trầu từ Hóc Môn đưa lên bị coi là hàng lậu nữa thì thiệt tội nghiệp cho những bà già trầu.
Tâm thần mẹ Sương Sa mỗi ngày một thêm lẩn thẩn, lo lắng toàn chuyện không đâu. Mẹ không sõng vô tư buông thả như thằng con của mẹ. Như tinh thần truyền thống dân Nam bộ sống hôm nay không cần dành dụm cho ngày mai. Một xứ
chim trời cá nước, đời sống dễ chịu, bằng chứng là mẹ đã sống được gần trọn một đời người. Từ thuở cùng chồng trôi sông lạc chợ, lênh đênh trên sông nước, không biết đâu là bến là bờ.
Rồi thân góa bụa, một nách hai đứa con.
Thằng Bụi lên đường vào một sáng mùa xuân, khi pháo hồng còn nổ ran trong thành phố, mừng thêm một mùa xuân thanh bình. Khi đàn trẻ thơ chạy nháo lên trong phố phường nhặt pháo lép đốt nổ đì đùng góp vui ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền.
Bà mẹ Sương Sa cùng một số bà mẹ khác thuộc phường 6 ra sân hội trường ủy Ban Nhân Dân đưa tiễn con lên đường làm nghĩa vụ quân sự. Cờ rong trống mở rập rình. Trong buổi lễ tiễn đưa biết bao nhiêu là diễn văn nổ át cả tiếng pháo mừng xuân. Người ta thi nhau phát biểu, nói lên cái cao đẹp của việc tòng quân bảo vệ non sông gấm vóc, làm ngha vụ quốc tế, cứu giúp nước bạn anh em. Bởi vậy mới gọi là trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, trái ngược hẳn với chuyện lùa bắt trai trẻ đi quân dịch, hay gọi nôm na là bắt lính như thời ngụy. Các thanh niên thi hành ngha vụ quân sự được võ trang tinh thần, lý tưởng cao cả. Không có gì hãnh diện bằng, các thân nhân chiến sĩ cũng được thơm lây!
Tiếng vỗ tay nổi lên nhịp nhàng khi dứt bài diễn văn, do chính vị đọc diễn văn khởi xướng, đánh nhịp. Sau chót là màn chụp hình kỷ niệm. Nhà đạo diễn phó nhòm nhắc nhở những bà mẹ:
- Cười lên, các má các chị tươi lên nào, để chụp ảnh đăng lên báo, đài, nở mày nở mặt với năm châu bốn biển, đất nước có những bà mẹ chiến sĩ anh hùng. Thằng Bụi đã lên xe ra đi. Bà mẹ Sương Sa đứng nhìn theo con, nhưng bà không nhìn thấy nữa. Bụi đường cuộn lên sau xe tải. Bà lẩn thẩn quay trở về nhà mình. Bà thấy tâm hồn mình trống vắng trong căn nhà vốn dĩ quạnh hiu càng quạnh hiu hơn. Bà lẩm bẩm trong miệng:
- Buồn thấy mụ nội mà nó lại biểu mình phải cười. Con tao dứt ruột đẻ ra chớ có phải chúng nó đẻ đâu.
Bà mẹ Sương Sa được coi là mẹ chiến sĩ, có thể được coi là diện chính sách, nhà nước đặc biệt quan tâm giúp đỡ, nhưng bà vẫn phải ăn độn dài dài, khá hơn một chút có bo bo mà người ta gọi là cao lương, ăn đầy hơi và đau bụng thấy mụ nội. Bà mẹ Sương Sa không thể không chửi thề. Khá hơn một chút nữa thì ăn mì sợi nấu với nước muối thay cơm. Nhà nước vẫn bảo đảm với nhân dân rằng họ không để bất cứ người dân nào bị chết đói. Báo hại một chục năm sau, nhiều người nhìn thấy tô mì còn thất kinh, xe hủ tíu mì của chú Lì đầu xóm ế sưng ế xỉa, đến phải dẹp nghề xoay nghề ve chai.
Bà mẹ Sương Sa biết con bà đang chiến đấu bên Căm Pu Chia, làm nghĩa vụ quốc tế. Bà không mấy quan tâm mình thuộc diện nọ kia nào, mà chỉ lo lắng cho tính mạng thằng con bị "cáp dồn". Nó chưa một lần nào được về phép thăm mẹ, cũng chứng thư từ gì ráo, vì nó có biết chữ đâu, mà mẹ cũng lại mù chữ nữa. Tin tức biền biệt..
Gánh sương sa ngày một oằn nặng trên vai bà mẹ già. Cái nhà ngày một thêm xiêu vẹo, nó xuống cấp trầm trọng như sức khoe cùng tuổi tác ngày một cao của mẹ. Căn nhà sắp trở lại nguyên trạng cái lều hay cái chòi cũng vậy. Như thuở mẹ
Sương Sa cùng chồng trôi sông lạc chợ, lên cắm dùi ở đất này. Chỉ có cái tủ thờ lúc nào cũng sạch bóng. Đôi mắt thằng Bờ trên tủ thờ nhìn mẹ đăm đăm. Đôi mắt của nó lạc cả vào giấc mơ của mẹ. Con hài lòng hay oán hận mẹ, hỡi con? Đừng oán hận mẹ, nhé con. Tội nghiệp con quá! Mẹ dứt ruột đẻ con, dẫu rằng đời sống con có ngắn ngủi ở thế gian. Mẹ vẫn sống đây để chờ đợi em con, thằng Bụi, đứa con bé bỏng, út ít của mẹ, chỉ còn mình nó nối giòi tông đường... Mẹ Sương Sa thức giấc lúc trời sáng bạch. Mẹ nhìn thấy một trời đầy sao lúc ban ngày.
Bà mẹ Sương Sa được báo tin thằng Bụi hy sinh trong khi làm nghĩa vụ quốc tế bên Căm Pu Chia.
Một lời "tổ quốc ghi công" là đủ, cũng như mẹ đã nghe câu "tổ quốc ghi ơn " hồi thằng Bờ tử trận. Hình như hai câu ấy có khác nhau chút đỉnh, mẹ không quan tâm nữa, mẹ chỉ nghĩ đến con, đứa con mẹ phải dùng răng cắn rốn cho nó khi chạy giặc Tây.
Một đời mẹ ba lần khóc chồng, khóc con, mẹ khóc đến chảy máu mắt, đến chết giấc, ai thấu hiểu cho nỗi đau khổ của mẹ, chẳng còn ai cả, phải không? Thế là chỉ còn một mình bà mẹ Sương Sa còn lại ở thế gian, trong túp lều xuống cấp trầm trọng.
Trận mưa dầm tháng bẩy kéo dài lê thê cùng với lời khóc than của mẹ trong niềm bất hạnh tận cùng. Mẹ được cán bộ động viên tinh thần để khắc phục đau buồn. Phấn đấu sống để làm mẹ Việt Nam anh hùng. Nhưng nước non mẹ gì, mẹ buồn thì cứ buồn. Chuyện đau khổ là chuyện của mẹ thôi, ai mà chia xớt được. Tổ quốc ghi công là quá đủ. Tổ quốc còn nghèo, tổ quốc tặng mẹ một món quà nhỏ ghi công.
Giữa lúc mẹ Sương Sa cúng cơm thằng con, đốt giấy tiền vàng mã cho con tiêu xài trong cõi âm, mẹ tin rằng linh hồn nó còn lẩn quất đâu đây. Dù xác nó có mất ngoài sa trường, linh hồn nó vẫn ở bên mẹ. Kìa nhìn tro tàn giấy bay! Sự đau khổ buồn phiền của mẹ chỉ biết thể hiện như thế qua mê tín dị đoan của dân tộc suốt bao đời. Mẹ lại muốn một ngày nào đó, qua một trăm ngày con táng mạng, mẹ đi gọi hồn nó qua hồn Cậu linh thiêng, nghe lại lời nhắn nhủ cuối cùng của nó với mẹ. Bà thày, trung gian của người phàm với hồn ma, sẽ phán rằng, ba bố con nó đã gặp nhau, hiện họ đang tung tăng dạo chơi miền tiên cảnh, nhòm xuống thế gian thấy mẹ nó còn khoẻ mạnh, vẫn còn gánh sương sa rong ruổi trên từng chặng đường trong xóm nhỏ. Bố con nó sống sung túc vì được cúng cơm, được nhang khói, được tiêu những đồng tiền âm phủ, do mẹ nó đất cho. Bố con nó sẽ phù hộ cho bước đi của mẹ vững chãi, chân cứng đá mềm. Như vậy, bổn phận làm vợ, làm mẹ của mẹ vẫn chưa hết. Mẹ phải làm sao sống cho vừa lòng người thân ở cõi âm đang được dạo chơi miền tiên cảnh chờ đón mẹ, ít ngày, vì một ngày ở xứ tiên bằng một năm ở cõi trần. Mẹ tin như thế và nhất định chỉ tin như thế.
Trên tủ thờ bây giờ chỉ còn thiếu tấm hình của thằng Bụi, thuở sinh tiền thằng Bụi không có một tấm hình nào. Mẹ cầu xin linh hồn những người thân phù hộ cho mẹ
một lần được nhìn lại thấy mặt thằng con út ít. Lời cầu xin của mẹ hằng đêm được linh hiển, không phải trong giấc mơ, mà là thật. Một ngày cuối mùa mưa, một anh thương binh cụt giò tìm đến mẹ. Tặng mẹ tấm hình con trai mẹ, đóng khung lộng kiễng đàng hoàng. Tấm hình thằng Bụi bán thân, bận quân phục bộ đội, đầu đội mũ cối có dính sao vàng, nụ cười của nó tươi trẻ làm sao.
Anh thương binh giải thích:
- Cháu cùng đơn vị với Bụi, bạn bè chụp chung nhau tấm hình này hồi ở Căm Pu Chia làm kỷ niệm. Cháu cắt riêng ra hình của Bụi, đem phóng lớn đóng khung tặng lại bác. Cháu nghĩ bác cũng cần một tấm hình để trên bàn thờ như anh nó.
Bà mẹ Sương Sa cảm động vô cùng, lời khấn khứa cầu xin của bà đã linh hiển. Đúng là bà đã thấy lại con, bà phải để ngay lên tủ thờ, đứa bên phải, đứa bên trái cái bài vị của cha nó. Tuy hai cái hình mang hai bộ quân phục khác biệt nhau, nhưng có sao đâu, chúng nó vẫn là anh em ruột thịt do một mẹ sinh ra. Anh bạn thương binh cũng nói, chuyện bình thường để cho nó bình thường đừng làm nó thêm rắc rối nặng nề. Không một ai có quyền đặt vấn đề bắt bẻ mẹ phải thế này hoặc không được thế này. Còn ai khổ hơn mẹ, bất hạnh hơn mẹ suốt nửa thế kỷ qua.
Anh thương binh kể cho mẹ Sương Sa nghe về cái chết của con bà:
- Chiến tranh là tàn nhẫn, cháu nhớ ngày Bụi hy sinh cũng chính là ngày cháu bị bắn gẫy giò. Cháu bị thương nằm lại, bạn Bụi tiếp tục xung phong, một tiếng nổ lớn, cháu không còn nhìn thấy Bụi nữa, xác bạn tan ra từng mảnh bay tứ tán. Cháu về nằm Viện mà cứ nghĩ đến bạn cháu hoài, cháu tự nghĩ bác còn thiếu một tấm
hình của Bụi. Cháu xuất viện nghĩ ngay đến chuyện làm một tấm hình của bạn tặng bác... - Đúng, đúng, cháu nghĩ rất phải. Bác cám ơn cháu vô cùng. Trên đời này bác không quí gì hơn hai tấm hình của anh em nó, nhìn hình, bác thấy chúng chưa chết, vẫn còn lẩn quẩn bên bác như hồi nào. Thân bác một kẻ trôi sông lạc chợ còn gì quí hơn đâu
- Biết đâu là bến bờ.
- Vâng thưa bác, cát bụi lại trở về với cát bụi, như tên bạn cháu.
Tên Bụi của thằng Bụi có nghĩa khác, như gắn liền với tên anh nó, đánh dấu giai đoạn sinh ra nó, nhưng vì bà già dết nát quá nên không thể giải thích được Bà nói sang chuyện khác rồi đề nghị:
- Cháu ở lại ăn cơm với bác nhé, đừng từ chối, bác không còn ai ngồi ăn cơm cùng. Hôm nay, bác có hai con cá rô kho tộ, do một thằng nhỏ lối xóm mang cho, món thằng Bụi thích nhất đấy. Cháu ngồi ăn chung với bác như thằng Bụi từng ngồi ăn với bác khi nó chưa được con cá ngoài đìa.
- Vâng, thưa bác. Đáng lẽ cháu xin được từ chối, nhưng bác đã nói thế, cháu phải vâng lời.
Thằng nhỏ ăn nói ngoan quá. Bà mẹ Sương Sa vui lây, cười:
- Hằng năm cháu đến ăn giỗ nó nhé, gặp bạn bè thằng Bụi thì cứ rủ, đừng lo thiếu thốn, vì hồi này bác cũng kiếm ăn được. Bà con lối xóm thấy bác neo đơn nên cũng giúp đỡ, không khó khăn như hồi đầu giải phóng nữa. Nay người đi kinh tế
mới làm ăn thất bại đã trở về rồi đấy. Nếu ngày ấy thằng Bụi không cứng thì bác cũng bị lùa đi rồi, cán bộ người ta nói khéo ơi là khéo hứa hẹn đủ thứ...
- Rồi không có gì phải không hở bác?
-Bác không biết, vì bác không đi kinh tế mới, nhưng người đi rồi trở về nói lại như vậy.
Hai người ngồi ăn bữa cơm đạm bạc mà ngon miệng. Anh thương binh khéo đưa đẩy câu chuyện làm cho bà già vừa thương vừa hài lòng. Bà mẹ Sương Sa có cảm tưởng mình ngồi ăn với con trai mình thuở mẹ còn sung túc, anh ta cũng trạc tuổi con mẹ. Mẹ gắp thức ăn cho anh, mẹ gọi anh bằng con và xưng má. Ngoài trời cơn mưa cuối mùa vẫn dai dẳng. Chưa biết đến hôm nào trời mới nắng đây?
Bà mẹ Sương Sa bận tất bật từ buổi chiều đến sáng ngày hôm sau, cho bữa giỗ thằng Bụi. Lễ vật đóng góp cho bữa giỗ của bạn bè thằng Bụi mang đến hậu hĩnh từ ngày hôm trước, mẹ phải nhờ người hàng xóm sang làm phụ mới xong công chuyện. Mỗi năm mẹ phải lo chu toàn cho ba bữa giỗ của ba bố con, do tiền mẹ dành dụm từ gánh sương sa hạt lựu bán từng ngày. Mẹ tiếp tục nuôi chồng nuôi con ở bên kia thế giới mà mẹ tin rằng nhất định nơi đó là miền tiên cảnh.
Đời sống kinh tế của mẹ Sương Sa thời gian này cũng đỡ hơn. Nghe đâu đất nước mở cửa, nhân dân có đồng ra đồng vào tiêu xài, cũng hết luôn cảnh ngăn sông cấm chợ, lương thực được lưu thông. Gánh sương sa của mẹ cũng bán buôn khá hơn. Lại có Việt kiều về nước thăm lại quê hương, giúp đỡ bà con. Những sĩ quan ngụy
8bb2 quân, ngụy quyền ở tù cũng đã trở về và số đông đã ra đi, rồi lại trở về thành Việt kiều. Phần đông họ có lòng tốt, trọn vẹn tình làng nghĩa xóm. Bà trung tá Phấn ở ấp Đông Ba, ngày nào thuê thằng Bụi phá xập nhà trước lúc ra đi, nay cũng từ Mỹ trở về thăm lại xóm cũ, tình làng nghĩa xóm rôm rả. Nhà bà đương nhiên không còn nữa, bà ở khách sạn rồi về thăm bà con láng giềng. Bà lội đến thăm bà mẹ Sương Sa, nhìn hình thằng Bờ thằng Bụi trên bàn thờ, bà chấm nước mắt:
- Bà chỉ còn một mình thôi hả?
Bà mẹ Sương Sa trả lời theo thổ ngữ vùng sông nước Cà Mau, nơi bà đã ra đi theo chồng từ thuở còn con gái, từ đó trôi sông lạc chợ chưa một lần trở lại quê hương, nên cũng chẳng biết bà con ai còn ai mất:
- Dạ, có mình "ên", chồng con chết ráo trọi rồi, họ ngồi trên tủ thờ đó. Tôi còn phải sống để nuôi linh hồn họ. Nhang khói cho họ đỡ quạnh hiu.
- Bây giờ bà sống ra sao?
- Một gánh sương sa bán mỗi ngày, chiều về lo làm hàng cho ngày hôm sau, lo nhang đèn cho cái bàn thờ bố con nó, rảnh rang tôi lên Chùa làm công quả, nghe kinh. Đời sống vậy cũng được rồi. Bà con quanh đây thương mà giúp đỡ tôi, tiếng là chỉ có mình "ên" nhưng có sao đâu, tôi còn tình làng nghĩa xóm.
Bà mẹ Sương Sa không ngờ mình lại biết nói nhiều như thế trước một bà sang trọng. Bà mẹ Sương Sa còn tiếp:
- Khi nào tôi về chầu trời, tôi cũng muốn bố con nhà nó lên Chùa nghe kinh. Tôi đã có lời nhờ trước sư cụ rồi. Đó là mơ ước cuối cùng của bà lão, hết chồng bị giết lại đến con hy sinh vì những thế lực nào đó trên quê hương đầy những bất hạnh nghiệt ngã này. Sau những lời tâm sự nôm na và chân thành của bà lão, bà Việt kiều sang trọng biếu bà lão một chai dầu gió xanh Con ó gọi là quà nước ngoài để thoa bóp lúc trái nắng trở trời, một ít tiền để bà lão ăn trầu cau, sắm nhang đèn cho cái bàn thờ kia đỡ phần quạnh hiu. Bà lão Sương Sa lấy làm hả lòng hả dạ, cám ơn hết lời con người từ tâm. Sáng nay mẹ thức giấc, mở mắt ra lại nhìn thấy một trời đầy sao. Mái tôn quá mục nát đây mà mẹ không còn ớn ưc leo cao để tự che chắn cái mái nhà. Mẹ nằm nán trên bộ ngựa lên nước bóng láng, mát như bàn thạch. Nếu ngày ấy không liều mua thì cũng chẳng có bộ ngựa này, cái này cũng chính là xương máu của con mẹ. Mẹ thầm khấn khứa chồng con, mời họ về ăn giỗ, ngày giỗ nào cũng là ngày giỗ chung của ba người, họ đoàn tụ và gia đình đoàn tụ. Sáng nay bà mẹ Sương Sa không đi bán, dĩ nhiên mẹ phải ở nhà làm giỗ, dù đã có người giúp đỡ. Bữa giỗ đơn sơ nhưng cũng phải có út rượu ngon cho đám bạn bè của hai con. Chúng nó đến đều vì tấm lòng, nhưng cũng không quên mang theo lễ vật đèn nhang, hoa quả trái cây. Chúng đốt nhang đứng vái trước bàn thờ bạn. Hai chục năm đã qua, chúng đều trở thành những người đàn ông có tuổi, nhưng mẹ Sương Sa vẫn coi chúng như con cái, ngang bằng phải lứa với thằng Bờ thằng Bụi ngày nào. Chính họ cũng bawfng lòng như vậy, họ gọi bà già bằng má xưng con, tự coi mình như con cháu của bà. Hầu hết họ là người khuyết tật nạn nhân chính qua hai lần chiến tranh, thế hệ của thằng Bờ thằng Bụi. Họ quí mến nhau, coi nhau như anh em ruột thịt dưới một bà mẹ neo đơn cũng vì chiến tranh, vì thời cuộc.
Mỗi người trong bọn họ đều nghèo, sinh sống bằng nghề tự do trong cái đa dạng của nền kinh tế thị trường. Nhưng tất cả xúm lại, mỗi người một tay giúp mẹ làm bữa giỗ cúng người đã khuất. Để mẹ được rảnh rang ngồi nhai miếng trầu. Sau là để ngồi với nhau. Ngồi với nhau thoải mái, tự do, không còn phân biệt như thuở nào.
Những cây nhang cắm trên tủ thờ cháy hết, cong vòng mà không rụng tàn, mọi người nhìn lên. Bà mẹ Sương Sa mặt vui chớ không buồn, nói:
Bố con nó về đó, các con à. Ba nó và hai con cho tôi hạ đồ cúng xuống cho các anh em ăn nhậu, chắc tất cả đều đói cả rồi. Bà già nhắc nhở với đám con:
- Tao có lít rượu đế ngon cho tụi bay.
Một anh nói:
- Con cũng có mang rượu theo, không dám mang ra, sợ má la.
- Không, tao không la đâu. Chồng tao ngày xưa thường nói câu chữ "nam vô tửu như kỳ vô phong". Nhưng chúng mày không được uống say quá rồi làm bậy, nói bậy thôi.
- Chúng con xin hứa với má.
Anh Thuận lớn tuổi nhất, được xếp ngồi trên bộ ngựa với mẹ, cùng với các chú các bác lớn. Anh Thuận là bạn chiến đấu với anh Bờ ngày xưa, thuở còn đi lính Thủy Quân Lục Chiến chế độ cũ. Anh Bờ tử trận, sau đó anh Thuận bị thương cụt giò trở thành thương binh. Bây giờ anh Thuận không nhận được một sự trợ cấp nào. Anh làm nghề hát dạo bán vé số độ nhật. Cái chân gỗ của anh do di chuyển
lâu năm, đã mòn vẹt hết bàn chân, anh lại trở thành khập khiễng. Bữa giỗ năm nay, anh thay thế cái chân gỗ mòn bằng cây nạng. Anh Thuận hiền khô, trông chẳng dữ dằn tí nào, như sắc lính anh từng theo qua lời tuyên truyền. Đi đầu, anh cũng khoác theo cây đàn cũ. Anh hát xong, mời mọi người mua vé số, anh không nhận của bố thí.
Hai mươi sáu năm trước anh đã ngồi với Bờ ở căn nhà này. ăn bữa cơm canh chua đầu cá lóc của mẹ Sương Sa nấu làm tiệc tiễn con lên đường. Khi đó thằng Bụi vẫn còn nhỏ, gầy nhom. Anh ôm vai nó, vòng ôm chưa khít cánh tay. Vậy mà bây giờ nó đã ra người thiên cổ, ngồi trên bàn thờ kia trong quân phục bộ đội, mũ cối gắn sao vàng. Hình ảnh hai anh em chung một bàn thờ tương phản nhau.
Ngày anh Thuận và thằng bạn tên Bờ ra trận, cái tủ thờ này chưa có và bộ ván ngựa này cũng chưa có. Anh Thuận gặp lại mẹ Sương Sa sau mười lăm năm, khi anh đang hát và bán vé số dạo ngoài chợ. Mẹ òa khóc khi nghe hát bài quen thuộc thuở nào, mẹ ôm lấy anh gọi "con ơi". Từ đó mẹ Sương Sa đã già lắm, nhưng chưa già như hôm nay. Từ đó Thuận năng lui tới với mẹ, không bỏ một ngày giỗ nào của gia đình mẹ. Thực tình khi nào Thuận đến thì mẹ biết, mẹ cũng chẳng biết anh ở đâu, nơi nào trong cái thành phố ngày một thêm đông đúc này.
Anh Thuận ngồi ăn, uống tí rượu, cây đàn ghi ta cũ cũng không rời anh, nó tạm thời được chống cán lên tủ thờ.
Trời chính ngọ, nắng rọi lốm đốm hình trứng gà lên bàn thờ, trên bộ ngựa bầy mâm cỗ, bởi tại mái nhà nát. Những anh em ngồi chiếu dưới rượu đã ngà ngà say. Đám người ấy hầu hết là bạn bè thằng Bụi, đã một thời từng đi chiến đấu bên Căm Pu Chia trở về, ít người lành lặn. Có người bị thương đổ nhột mà còn sống, bây giờ hành nghề đạp xích lô, người bán vé số, người đi ve chai buôn bán bất cứ thứ đồ phế thải nào, nếu không nuôi được ai thì cũng nuôi được chính thân họ, những
đứa con của đất nước anh hùng. Lương gia đình diện chính sách như mẹ Sương Sa đây cũng chỉ đủ mua trầu cau nhai đỡ buồn. Nhưng cũng chẳng bao giờ nghe mẹ Sương Sa nói đến. Mẹ vẫn sống qua gánh sương sa hạt lựu nước dừa làm mát lòng khách thập phương, đêm đêm có nhang đèn cho chống con.
Một anh ngà ngà say đứng lên nói với mẹ:
- Má à, làm đơn đi, địa phương mình đang tuyển "mẹ Việt Nam anh hùng" đó.
- Phải tuyển sao mày, tao một chữ không biết, đơn mới từ gì?
- Má thuê người viết, má đủ điều kiện, má diện chính sách, mẹ liệt sĩ...
Một anh giật bạn ngồi xuống:
- Câm họng đi, đừng làm má khổ thêm nữa, má không trúng tuyển thì sao nào?
- Sao không trúng tuyển được, má dư điều kiện ma.
- Đồ ngu, mày banh mắt ra mà nhìn trên bàn thờ kìa, hai tấm hình của hai anh em nhà này...
Anh bạn lắm điều hiểu ra, gật gật đầu:
- ờ há!... Tao quên mất "chiệng" đó. Mà sao vậy há, cũng là "chiệng" bình thường thôi mà.
- Tao không biết, nhưng vẫn phải dè chừng. Mày nên uống ít thôi, tao biết tính mày cứ "xỉn" vào là nói lung tung.
Anh nhậu sắp "xỉn" úp cái ly không xuống, thái độ dứt khoát của những tay nhậu, khi không uống nữa:
- Đồng ý, tôi có tính xấu ưa nói khi nhậu, tốt nhất là không nói nữa.
Nhưng xung quanh bạn bè vẫn nhậu lia chia, phát ngôn vung vít nhiều ý kiến, nhưng chẳng hại gì, tất cả đều vì má, cho má, những gì tốt hơn lợi hơn cho đời sống má những ngày còn ở lại thế gian. Có anh em thấy mâm trên nắng rọi đến chỗ má và anh Thuận ngồi, lên tiếng:
- ý không được rồi, phải lấy cái gì, miếng bạt hay tấm ni lông che chỗ nắng rọi cho má mình chớ? Kìa, anh hai Thuận cũng bị nắng rọi trúng.
Giọng má từ tốn:
- Không sao đâu các con, má quen rồi.
- Đâu được, mùa nắng còn có mùa mưa nữa chớ.
- Mùa mưa thì tao giăng miếng ni lông lên cho nước lọt ra ngoài, mùa nắng tao bỏ tấm ni lông ra cho thoáng và nhìn thấy sao trên nóc nhà ban ngày... Tất cả cho rằng má nói chơi, mang ý nghĩa cay đắng cho số phận của mình. Nhưng không, má chân thật thiệt tình, sự ngay thẳng bẩm sinh. Mẹ Sương Sa nói lại: