Trời Sinh Quyến Rũ Chương 7

Chương 7
Riley Patriot sống ở Nashville, Tennessee, trong ngôi nhà gạch trắng có sáu cái cột trắng, sàn đá hoa cương trắng và chiếc Mercedes-Benz trắng bóng lộn trong ga ra.

Trong phòng khách, chiếc piano trắng khổng lồ đặt gần bộ đôi sofa trắng đồng bộ tấm thảm trắng muốt. Riley được phép vào phòng khách kể từ khi lên sáu, lúc con bé xịt tung tóe hộp nước nho ép ở đó.

Mặc dù giờ Riley mười tuổi, nhưng mẹ con bé vẫn chưa bao giờ tha thứ hay quên - chỉ là vụ nước nho ép, mà còn rất nhiều thứ khác - và giờ mọi chuyện quá muộn. Mười ngày trước, cả đám người thấy mẹ con bé, Marli Moffatt, ngã qua hàng rào chấn song bị gãy boong con tàu hơi nước Old Glory xuống dòng sông Cumberland. Mẹ con bé đập đầu vào thứ gì đó khi rơi xuống nước, khi ấy là ban đêm, và lúc người ta tìm thấy mẹ nó quá muộn. Ava, aupair[1] thứ mười triệu của Riley, dựng con bé dậy để báo cái tin đó.

[1] Aupair: từ được quốc tế hóa, dùng để chỉ những sinh viên được gửi ra nước ngoài sống như thành viên trong gia đình nhận nuôi. Aupair giúp gia đình nhận nuôi các công việc như trông trẻ, làm việc nhà và hằng tháng có khoản tiền tiêu vặt. Đổi lại họ được miễn phí ăn ở để thực việc học hành của mình.

Giờ, tuần rưỡi sau đó, Riley đường bỏ trốn để tìm anh trai nó.

Dù mới chỉ cuốc bộ có tòa nhà kể từ nhà nó, nhưng chiếc áo phông bám dính vào da con bé, thế nên Riley bèn mở khóa áo phao màu hồng. Chiếc quần nhung kẻ màu hoa oải hương của nó là cỡ mười hai to đùng, thế mà vẫn quá chật. Em họ Trinity của nó chỉ mang đồ cỡ tám , nhưng chỉ riêng bộ xương có chút da thịt nào của Riley thôi cũng to hơn cỡ tám ấy rồi. Con bé chuyển cái ba lô nặng trịch sang tay bên kia. Trọng lượng hẳn hơn nhiều nếu nó để lại cuốn sổ ảnh lưu niệm, nhưng con bé thể làm thế.

Nhưng ngôi nhà con phố nhà Riley nằm sát với đường, vài căn phía sau cổng, nên chẳng có chút vỉa hè nào, nhưng vẫn có đèn đường và Riley cố tránh chúng trong khả năng có thể. có nghĩa là ai đó tìm nó. Chân nó bắt đầu ngứa ran, và nó cố gãi qua lớp quần nhung, nhưng như thế chỉ càng làm cho cảm giác ngứa ngáy tệ hơn. Đến lúc con bé thấy chiếc xe đỏ ọp ẹp của Sal ở cuối tòa nhà tiếp theo hai chân nó như lửa.

Sal đỗ xe dưới ngọn đèn đường, như tên ngốc, và hút thuốc lá theo kiểu phập phù giập cục. Khi thấy nó, ta bắt đầu liên láo nhìn quanh, như kiểu nghĩ là cảnh sát có thể xuất bất cứ lúc nào. “Đưa tiền cho tao,” bảo khi con bé đến gần chiếc xe.

Riley thích đứng dưới ngọn đèn nơi mà bất kỳ ai ngang qua cũng có thể thấy chúng, nhưng tranh cãi mất nhiều thời gian hơn là đưa tiền cho . Riley ghét Sal. làm trong đội chăm sóc cây cảnh của bố mỗi khi học, đó là lý do Riley biết , nhưng phải là lý do con bé ghét . Riley ghét vì cứ tự xoa bóp mình khi nghĩ là chẳng có ai nhìn, rồi khạc nhổ, và những thứ bẩn thỉu. Nhưng mười sáu tuổi rồi, và kể từ khi lấy được bằng lái từ bốn tháng trước, Riley trả tiền để đưa nó chỗ này chỗ kia. là tài xế dở ẹc, nhưng trước khi đủ mười sáu tuổi, Riley chẳng có nhiều lựa chọn cho lắm.

Con bé rút tiền từ túi trước của chiếc ba lô màu xanh. “Giờ là trăm đô. Tôi đưa anh phần còn lại khi chúng ta đến trang trại.” xem rất nhiều phim điện ảnh, nên nó hoàn toàn biết người ta nên chia tiền ra thế nào.

trông như thể muốn vồ ba lô của con bé, nhưng như thế chẳng có ích gì cho , vì con bé giấu phần tiền còn lại trong tất. đếm tiền, mà theo Riley như thế thô bỉ vì nó đứng ngay trước mặt , chẳng khác nào gọi nó là kẻ lừa đảo hạng nặng vậy. Cuối cùng, nhét tiền vào túi quần jean. “Ông già tao mà phát ra chuyện này là nện tao nhừ tử luôn đấy.”

“Ông ta phát ra từ tôi được. Anh là kẻ duy nhất ba hoa thôi.”

“Mày làm gì với Ava?”

“Peter ở lại qua đêm. Chị ấy chẳng biết được đâu.”

Aupair của Riley đến từ Hamburg nước Đức từ hai tháng trước. Peter là bạn trai của Ava, và tất cả nhưng gì họ làm với nhau là hôn hít. Khi mẹ Riley còn sống, Ava được phép cho Peter vào nhà, nhưng khi bà qua đời rồi gần như đêm nào anh ta cũng ngủ lại. Phải đến bữa sáng Ava mới phát ra Riley bỏ , mà ngay cả lúc đó cũng chưa chắc, vì mai hai người họ phải học do có hội thảo cuối năm của giáo viên. Riley dán mẩu giấy lên cửa phòng viết là nó bị đau bụng và đừng đánh thức nó dậy.

Sal vẫn chưa vào xe. “Tao muốn hai trăm rưỡi. Tao quên mất vụ xăng xe.”

Riley kéo cửa xe, nhưng khóa cửa. Con bé gãi chân. “ Tôi đưa anh thêm hai mươi đô nữa.”

“Mày giàu mà. Mày đâu cần phải kẹt xỉ thế.”

“Hai lăm đô, và chỉ thế thôi. Tôi đấy, Sal. Tôi chẳng muốn đến mức đấy đâu.”

Dối trá trắng trợn. Nếu muốn đến trang trại của anh trai nó nó tự khóa mình trong ga ra và nổ máy chiếc Benz của mẹ nó - nó biết cách - rồi ngồi trong xe cho đến khi ngạt thở mà chết. Chẳng ai có thể bắt nó ra ngoài, kể cả Ava, hay dì Gayle của nó hay thậm chí là bố nó - làm như bố thèm quan tâm nó có chết hay vậy.

Sal hẳn phải tin nó vì cuối cùng cũng mở khóa cửa. Riley thả chiếc ba lô xuống sàn ghế trước, rồi chui vào thắt dây an toàn. Bên trong chiếc xe bốc mùi thuốc lá va mùi hamburger thiu. Nó lôi bảng chỉ dẫn từ MapQuest[2] trong ngăn có dây khóa của chiếc ba lô ra. Sal ngoặt xe ra khỏi lề đường mà chẳng buồn nhìn xem có chiếc xe nào trờ tới hay .

[2] MapQuest: trang web trực tuyến miễn phí cung cấp bản đồ và chỉ dẫn lại của Mỹ.

“Cẩn thận”

“Thả lỏng . nửa đêm rồi. Chẳng có ai đâu.” có mái tóc nâu bết bền bệt, và vài cọng râu cằm mà nghĩ là làm mình trông rất ngầu.

“Anh phải đường cao tốc số 40,” nó .

“Làm như tao biết ấy.” quăng điếu thuốc qua cửa sổ xe. “ radio giờ người ta toàn mở đĩa của chị em nhà Moffatt. Tao cá mày phải kiếm được cả triệu đô.”

Tất cả những gì Sal muốn đến là tiền và sex, mà Riley tuyệt đối muốn về sex, nó bèn giả vờ nghiên cứu bản đồ, mặc dù nó thuộc lòng mọi thứ.

“Mày may mắn,” Sal tiếp tục. “Mày chẳng phải làm việc hay gì cả, thế mà vẫn có cả đống tiền ấy.”

“Tôi có được tiêu đâu. Tiền vào tài khoản ủy thác của tôi hết.”

“Mày có thể tiêu chỗ tiền mà bố mày cho mày.” chỉ lái xe bằng tay, nhưng nếu Riley gì về chuyện đó, nổi điên lên ngay. “Tao thấy bố mày khi lão đến dự đám tang. Lão ta thậm chí còn chuyện với tao. Lão ta tử tế hơn mẹ mày nhiều. Nghiêm túc đấy. ngày nào đó tao mặc quần áo ngầu như lão và lượn lờ đây đó con limo.”

Riley thích người khác về bố nó, mà người ta cứ thích , như kiểu họ tưởng nó giới thiệu họ hay đại loại thế trong khi nó gần như chẳng bao giờ gặp được bố. Giờ khi mẹ nó mất, bố dự định chuyển Riley đến trường nữ sinh Chatsworth, trường nội trú nơi tất cả mọi người ghét nó vì nó béo ị và chẳng ai muốn làm bạn với nó trừ phi muốn tiếp cận bố nó. Giờ nó học ở Kimble, nhưng đó phải trường nội trú, và thậm chí chuyện học cùng lớp với đứa em họ Trinity còn tốt hơn là ngôi trường phải ngủ lại đó. Nó cầu xin bố cho nó được ở lại Kimble và sống với Ava trong căn hộ hay gì đấy, nhưng bố bảo là như thế được.

Đó là lý do vì sao nó phải tìm anh trai nó.

Thực ra anh ấy là anh cùng cha với nó, và anh ấy là bí mật. Chỉ số người biết Riley và anh ấy là ruột thịt, và thậm chí Riley cũng biết bố nó có người con khác từ lâu, rất lâu rồi nếu nó nghe lỏm được mẹ nó và bồ cũ của mẹ chuyện. Mẹ nó là thành viên trong ban nhạc chị em nhà Moffatt, cùng với dì Gayle, mẹ của Trinity. Hai người họ biểu diễn cùng nhau từ khi mười lăm tuổi, nhưng sáu năm rồi họ chẳng có bài hit nào trong bảng xếp hạng quốc gia, và CD mới của họ Everlasting Rainbows cũng được khả quan cho lắm, đó chính là lý do họ có mặt con tàu hơi nước tối hôm ấy, để tiến hành vụ quảng bá với cả đám đài phát thanh đến tham dự cuộc hội thảo ở Nashville. Giờ, với thông tin đại chúng về vụ chết đuối của mẹ nó, bản CD leo lên đầu các bảng xếp hạng. Riley nghĩ mẹ nó vui vì chuyện này, nhưng nó chẳng chắc lắm.

Lúc mất mẹ nó ba tám tuổi, hơn dì Gayle hai tuổi. Cả hai người họ cùng gầy nhom với mái tóc vàng, bự, vài tuần trước vụ tai nạn, mẹ Riley đến gặp bác sĩ làm mặt của dì Gayle và tiêm mấy mũi cho môi căng phồng. Riley nghĩ trông mẹ như con cá, nhưng mẹ nó bảo nó giữ cái quan điểm ngu ngốc đó cho riêng mình. Nếu Riley biết trước mẹ nó ngã khỏi tàu chết đuối, nó chẳng bao giờ gì cả.

Góc cuốn sổ lưu niệm đâm vào cổ chân nó qua cái ba lô. Riley ước gì mình có thể lôi cuốn sổ ra xem ảnh. Chuyện đó luôn làm thấy nó khá hơn. Nó túm lấy bảng điều khiển. “Anh nhìn đường có được ? Đèn đỏ kìa.”

“ sao? Có cái xe nào lao đến đâu.”

“Nếu bị tai nạn, anh mất bằng cho xem.”

“Tao bị tai nạn.” mở radio nhưng rồi lại tắt . “Tao cá là bố mày chơi đến cả chục nghìn đứa con rồi ấy nhỉ.”

“Anh im mồm !” Riley ước gì nó có thể nhắm mắt lại giả vờ mình ở đâu đó khác, nhưng nếu nó trông chừng Sal lái xe, rất có thể tông vào đâu đó.

Khoảng lần thứ nghìn, con bé tự hỏi biết anh trai có biết nó . Năm ngoái, khi nó phát ra chuyện về anh ấy, đó là điều thú vị nhất từng xảy đến với nó. Nó bắt đầu làm cuốn sổ ảnh lưu niệm bí mật ngay lập tức, dán từng bài báo Internet, thêm những bức ảnh của anh ấy mà nó tìm được báo và tạp chí. ảnh anh ấy luôn tỏ ra hạnh phúc, như thể anh ấy chẳng bao giờ nghĩ những điều dơ bẩn về người khác, và như thể anh ấy có thể trân trọng bất kỳ ai, ngay cả nếu người đó xinh đẹp hay gầy hay mới có mười tuổi.


Mùa đông năm ngoái, nó gửi cho anh ấy lá thư đến trụ sở của đội Chicago Stars. Nó chưa nhận được hồi đáp gì, nhưng nó biết những người như bố và anh nó nhận nhiều thư đến nỗi họ chẳng tự mình đọc hết được. Khi đội Stars đến Nashville để thi đấu với đội Titans, nó lên kế hoạch gặp anh. Nó định lén trốn và tìm chiếc taxi để đến sân vận động. Khi đến đó, nó tìm xem các cầu thủ ra từ cửa nào và chờ anh. Nó hình dung ra mình gọi tên anh rồi anh nhìn thấy nó, và nó , “Chào anh, em là Riley. Em là em của anh đây.” Cả gương mặt anh ấy sáng bừng hạnh phúc, rồi khi biết về nó, anh ấy bảo nó đến sống với anh hay thậm chí chỉ ở với anh trong kỳ nghỉ để nó phải ở với dì Gayle và Trinity như lúc này.

Nhưng thay vì đến xem trận đấu của Titans, nó lại bị viêm họng phải nằm cả tuần giường. Kể từ đó, nó gọi đến trụ sở của Stars cả đống lần, nhưng dù nó có gì với người trực tổng đài họ cũng chẵng bao giờ cho nó số điện thoại của anh.

Họ ra khỏi Nashville, và Sal bật radio to đến nỗi ghế ngồi của Riley rung lên. Nó cũng thích mở nhạc to, nhưng tối nay trong khi nó lo lắng thế này . Nó tìm ra thông tin về trang trại của anh trai nó vào cái ngày sau lễ tang khi nghe bố chuyện với ai đó điện thoại. Khi tra tìm cái thị trấn mà bố nó nhắc đến và thấy nơi đó nằm ở phía Đông Tennessee, nó hào hứng đến mức váng vất. Nhưng bố nó chẳng trang trại nằm chính xác ở đâu, chỉ bảo ở gần Garrison, và vì thể hỏi bố, nó bèn sử dụng khả năng thám tử của mình.

Nó biết người ta mua nhà và trang trại từ các đại diện nhà đất vì bồ cũ của mẹ nó từng làm nghề này, vậy nên nó tra tìm Interner tất cả các công ty nhà đất quanh Garrison. Sau đó nó bắt đầu gọi cho họ bảo rằng nó mười bốn tuổi và làm bản báo cáo về những người phải bán trang trại.

Hầu hết các đại lý nhà đất đều rất tử tế và kể cho nó nghe đủ các thể loại chuyện về mấy cái trang trại, nhưng vì những chỗ đó vẫn còn rao bán, nên nó biết đó phải là của anh mình. Tuy nhiên, hai ngày trước, nó gặp được chị làm thư ký, và chị ta kể Riley nghe về trang trại Callaway và chuyện vận động viên nổi tiếng vừa mới mua trang trại đó, nhưng chị ta được phép ra đó là ai. Người phụ nữ đó cho Riley biết cái trang trại đó nằm ở đâu, nhưng khi Riley hỏi liệu vận động viên nổi tiếng kia giờ có mặt ở đó , chị ta bắt đầu nghi ngờ và bảo là chị ta phải . Riley suy luận như thế nghĩa là có. Ít ra nó cũng hy vọng thế. Vì nếu anh ấy ở đó, nó chẳng biết mình làm gì nữa.

lần trong đời Sal lái xe cũng qua tệ, có lẽ bởi vì đường cao tốc khá thẳng. xỉa ngón tay cái về phía ba lô của Riley và hét toáng lên át tiếng nhạc. “Mày có cái gì ăn ?”

Nó muốn chia phần ăn nhanh của mình, nhưng nó cũng chẳng muốn dừng lại. Rồi lại bắt nó trả tiền cho xem, thêm nữa chuyến bị kéo dài, thế nên nó sục vào ba lô đưa cho ít bánh quy giòn. “Anh gì với bố anh?”

dùng răng xé túi bánh. “Ông ấy nghĩ tao ngủ qua đêm ở nhà Joey.” Riley chỉ mới gặp Joey có lần, nhưng nó nghĩ anh ta tử tế hơn Sal. Nó bảo cho Sal số đường phải rẽ, mặc dù cũng còn lâu mới đến nơi đó. Nhưng nó sợ nếu mình ngủ thiếp phóng vọt qua mất, vì càng nhìn các đường kẻ trắng đường, nó càng khó ngăn hai mắt khỏi díp lại...

Thoáng cái, nó choàng tỉnh khi chiếc xe trượt vèo và bắt đầu quay tròn. Vai nó đập vào cánh cửa, dây an toàn siết lấy nó. radio, 50 Cent gào thét, và cái bảng thông báo kia lao thẳng vào chúng. Nó hét lên trong tiếng nhạc, và tất cả những gì nó có thể nghĩ đến là giờ nó thể nào gặp anh trai nó hay sở hữu trang trại nuôi cún khi nó lớn lên được nữa.

Ngay trước khi chúng đâm vào bảng thông báo, Sal giật mạnh vô lăng, và chiếc xe tròng trành khựng lại. Riley thấy gương mặt trong ánh đèn bảng điều khiển. Miệng há ra, mắt trợn trừng hoảng hốt. Nó muốn chết, bất chấp những gì nó từng nghĩ về chiếc Benz của mẹ nó và cái ga ra.

Bên ngoài, yên tĩnh bao trùm lên chiếc xe. Bên trong, 50 Cent đọc rap, nhưng Riley thốt lên những tiếng thút thít, trong khi Sal đại loại là hớp khí để thở. Đoạn đường cao tốc thoai thoải ở phía sau bọn chúng, và con đường tối thui, chỉ có ngọn đèn lớn chiếu sáng rọi xuống bảng quảng cáo chợ của thuyền trưởng G. ĐỒ ĂN. BIA. ĐỒ UỐNG CÓ GA. BÁNH KẸP. Dù vô cùng muốn tìm anh trai nhưng nó ước gì mình nằm giường ở nhà. Đồng hồ bảng điều khiển chỉ 2:05.

“Đừng có như trẻ trâu nữa !” Sal xổ ra. “Đọc bản chỉ dẫn ngu ngốc đó xem nào.”

quay xe vòng lai ngay chính giữa con đường đồng tối thui, thế nên nó biết là chúng xoay tròn về hướng ngược lại. Nách nó đẫm mồ hôi, còn tóc ướt bết vào da đầu. Tay nó run lẩy bẩy khi nó vuốt thẳng bản chỉ dẫn đường. Sal tắt radio mà cần nó phải cầu, và nó đọc lên những gì chúng phải làm, tiếp 5,9 dặm đường Smoky Hollow, sau đó rẽ phải vào đường Callway thêm 1,3 dặm, trang trại nằm ở đó.

Sal bảo nó đưa cho gói Cheese Nips nữa. Bản thân nó cũng ăn gói và sau đó, vì vẫn còn quá sợ, nên nó lại ăn thêm ít bánh cốm gạo Rice Krispies Treats nữa. Nó buồn tiểu khủng khiếp, nhưng lại thể bảo với Sal như thế, vậy nên nó siết chặt hai chân lại với nhau và hy vọng chúng đến nơi sớm. Sal còn nhanh như trước nữa. Sau vụ suýt tông xe, lái bằng cả hai tay, và tắt radio. Chúng vượt qua đường Smoky Hollow vì trời quá tối thấy được bảng chỉ và thế là phải quay lại.

“Sao mày cứ ngọ nguậy nhiều thế?” Sal vẫn có vể rất điên tiết, như thể chuyện chịu chậm lại khi ra khỏi đường cao tốc là lỗi của nó vậy.

Nó thể là mình buồn tiểu. “Tôi mừng vì chúng ta gần đến nơi rồi.”

Nó căng mắt tìm bảng hiệu đường Callaway điện thoại của Sal đổ chuông. Cả hai cùng nhảy dựng lên. “Cứt .” Khuỷu tay va vào cửa xe khi cố lôi điện thoại ra khỏi túi áo khoác. Trông thực hoảng sợ, và khi trả lời điện thoại, giọng gần như the thé. “A lô?”

Ở tuốt phía bên kia chiếc xe, Riley vẫn có thể nghe thấy tiếng bố Sal gào lên, hỏi ở chỗ chết tiệt nào và bảo nếu quay về ngay lập tức ông ta gọi cảnh sát. Sal sợ bố, và trông như sắp sửa khóc òa lên. Khi ông bố cúp máy, Sal dừng xe ngay giữa đường và bắt đầu gào vào mặt Riley.

“Đưa tao số tiền còn lại! Ngay lập tức!”

Trông như kiểu phát điên. Riley rúm người lại ghế. “Ngay khi chúng ta tới đó.”

túm áo khoác của nó mà lắc. Chút bong bóng dãi phì ra từ khóe miệng . “Đưa tao mày hối hận.”

Nó giập người ra, nhưng làm nó sợ đến nỗi nó đá tung cả giày. “Tôi có tiền đây.”

“Nhanh lên. Đưa ngay cho tao!”

“Đưa tôi đến trang trại trước .”

“Nếu mày đưa tiền cho tao ngay, tao đánh mày.”

Biết , nó đành vồ lấy tất lôi tiền ra. “Tôi đưa cho anh khi chúng ta đến đó.”

“Đưa cho tao ngay lập tức!” vặn cổ tay .

Nó ngửi thấy mùi Cheese Nips trong hơi thở của , cộng thêm mùi gì đó chua chua. “Bỏ tôi ra!”

nạy ngón tay của nó ra vồ số tiền. Rồi giật tung dây an toàn của con bé, với qua người nó mở tung cửa. “Ra ngoài!”

Nó hoảng sợ đến nỗi bắt đầu khóc òa. “Đưa tôi đến trang trại trước . Đừng làm thế này. Xin anh đấy.”

“Ra ngoài ngay!” đẩy nó mạnh. Nó cố bám lấy cánh cửa, nhưng bị trượt ngã lăn ra đường. “Đừng có mà với ai đấy,” gào lên. “Nếu mày với ai, mày hối hận.” quang ba lô của nó ra, sập cửa lại phóng .

Nó nằm giữa đường cho đến khi tiếng động cơ xe biến mất. Tất cả những gì nó nghe thấy là tiếng khóc của chính nó. Trời quá tối, là đêm tối nhất trong toàn bộ cuộc đời nó. Chẳng có cây đèn đường nào như ở Nashville, và thậm chí còn chẳng thấy trăng, chỉ có khoảng xam xám sau những đám mây, hẳn là mặt trăng náu phía sau đó. Nó nghe thấy tiếng chân kéo lê và nhớ lại bộ phim nó xem, trong đó có gã đàn ông nhảy từ trong rừng ra, bắt cóc nọ rồi đưa về nhà và cắt ra. Ý nghĩ đó làm nó sợ chết khiếp, đến nỗi nó vồ ngay cái ba lô rồi chạy băng qua đường về phía cánh đồng.

Khuỷu tay chỗ bị đập xuống đường lúc nó ngã giờ ran rát, chân đau, và nó buồn tiểu đến nỗi són ít ra quần. Bặm chặt môi, nó vật lộn với khóa quần. Vì cái quần quá chật nên hì hục mãi nó mới kéo khóa xuống được. Nó dán mắt vào khu rừng bên kia đường trong lúc hành . Khi xong và tìm thấy tờ giấy ăn, nó có thể thấy hơn chút trong bóng tối, và chẳng có gã nào lao ra từ rừng cây, nhưng răng nó vẫn va vào nhau lập cập.

Nó nhớ bản chỉ dẫn MapQuest. Đường Callaway thể xa đến thế, và khi tìm thấy con đường đó, tất cả những gì nó phải làm là bộ 1,3 dặm đến trang trại; 1,3 dặm đâu có xa. Chỉ có điều nó chẳng nhớ được nó và Sal theo hướng nào.

Nó lấy ống tay áo khoác chùi mũi. Khi Sal đẩy nó ra khỏi xe, chẳng hiểu sao nó bị lăn đoạn rồi mất phương hướng. Nó tìm tấm bảng hiệu trong bóng tối, nhưng vì con đường lên dốc nên tất cả những gì nó có thể thấy là bóng tối. Biết đâu chiếc xe hơi tới? Nhưng thế nào nếu tên bắt cóc lái xe đó? Hay kẻ giết người hàng loạt?

Nó nghĩ có thể lúc chúng lên dốc bố Sal gọi điện. Mặc dù chắc lắm, nó vẫn nhặt ba lô lên và bắt đầu bước vì nó thể ở đây mãi. Những tiếng động buổi đêm ầm ĩ hơn nhiều so với nó tưởng. Tiếng cú kêu như ma quỷ, gió thổi răng rắc qua các cành cây, và có nhưng thanh trơn tuột mà nó hi vọng phải là rắn vì nó cực kỳ sợ rắn. Cho dù có cố kìm nén đến mức nào những tiếng thút thít khe khẽ vẫn buột ra từ miệng nó.

Riley bắt đầu nghĩ về mẹ. Nó nôn thốc vào thùng rác khi Ava báo cho nó biết tin đó. Đầu tiên, tất cả những gì nó có thể nghĩ đến là bản thân nó và chuyện gì xảy đến với nó. Nhưng sau đó nó nghĩ lại rằng mẹ thường hát những bài hát ngớ ngẩn cho nó nghe. Đó là khi Riley còn là đứa nhóc dễ thương, trước khi nó phát phì và mẹ nó thôi còn thích nó nữa. Trong suốt lễ tang, Riley cứ tưởng tượng ra cảnh mẹ nó hẳn phải hoảng sợ ra sao khi cảm thấy nước tràn vào phổi, và nó bắt đầu khóc dữ dội đến nỗi Ava phải đưa nó ra khỏi nhà thờ. Sau đó, bố nó bảo nó được phép đến nghĩa trang lúc làm lễ mai táng, và bố cùng với dì Gayle cãi nhau to về chuyện đó, nhưng bố nó sợ dì Gayle như những người khác, thế nên Ava đành đưa Riley về nhà, cho nó ăn bao nhiêu bánh pop-Tarts tùy thích, rồi đặt nó lên giường.

Gió quất lên mái tóc nâu rậm của Riley, chẳng phải màu vàng bóng mượt như mẹ nó hay dì Gayle và Trinity. “Màu này đẹp đấy, Riley. Như màu tóc ngôi sao điện ảnh vậy.”

Đó là những gì Riley tưởng tượng ra anh trai của nó về tóc nó. Anh ấy giống như bạn thân của nó vậy.

Càng xa lên đồi, nó càng khó thở hơn, và gió càng đẩy nó về sau mạnh hơn. Nó tự hỏi biết mẹ nó thiên đàng có nhìn xuống nó lúc này và có khi còn cố nghĩ cách giúp nó hay . Nhưng nếu ở thiên đàng hẳn mẹ nó tám chuyện điện thoại với bạn bè và hút thuốc rồi.

Chân Riley như thiêu đốt ở chỗ chúng cọ vào nhau, nó nhức buốt, và nếu đúng hướng hẳn đến giờ nó phải thấy bảng hiệu rồi. Cái ba lô trở nên nặng đến nỗi nó phải kéo lê. Nếu chết ở đây, nó tự hỏi liệu có con sói nào ăn mất mặt nó trước khi có người tìm thấy nó , mà có khi chẳng ai biết được đó là nó, Riley Patriot ấy chứ.

Khi vẫn chưa lên đến đỉnh đồi nó thấy bảng hiệu kim loại uốn cong. ĐƯỜNG CALLAWAY. Cái bảng hiệu cũng dốc lên. Con đường nhựa vụn nát hai bên lề, và nó vấp ngã. Chiếc quần nhung kẻ của nó rách toạc, và nó băt đầu khóc, nhưng nó ép mình đứng dậy. Con đường này thẳng như con đường vừa nãy mà ngoằn ngoèo khiến nó hoảng sợ vì nó biết được có gì ở phía bên kia.

Nó gần như chẳng quan tâm mình có chết lúc này , nhưng muốn chó sói ăn mất mặt mình, nó bèn tiếp tục bước tới. Cuối cùng, nó lên đến đỉnh đồi. Nó cố nhìn xuống xem biết đâu thấy được trang trại, nhưng trời quá tối. Ngón chân nó bị ép chặt trong đôi giày thể thao khi nó bắt đầu xuống đồi. Cuối cùng, rừng cây cũng mở ra đôi chút, và nó thấy hàng rào thép gai. Gió thổi lạnh ngát má nó, nhưng bên trong chiếc áo phao màu hồng người nó ướt sũng mồ hôi. Dường như nó cuốc bộ cả trăm dặm rồi. thế nào đây nếu nó vượt qua trang trại mà thậm chí còn chẳng nhận ra?

Ở chân đồi, nó thấy hình thù gì đó. con sói! Tim nó đập thình thịch. Nó chờ đợi. Có cảm giác trời phải sáng rồi mới phải, nhưng . Hình thù đó chuyển động. Nó thận trọng bước bước về trước, rồi bước nữa, càng lúc càng đến gần hơn cho đến khi nó thấy đó là hộp thư cũ. Có lẽ có chữ ở bên hông, nhưng trời quá tối làm nó đọc được, và dù sao chắc cũng chẳng phải tên anh nó, vì những người như anh và bố nó đều cố để người ta biết nơi họ sống. Nhưng đây hẳn là trang trại của anh ấy, thế nên nó rẽ vào.

Con đường nay mới là tồi tệ nhất, toàn sỏi chứ rải nhựa và cây cối cao to khiến trời càng tối hơn. Nó lại ngã, và gót chân nó nhức nhối vì sỏi. Cuối cùng, nó rẽ qua khúc quanh nơi còn cây cối và nhìn thấy ngôi nhà, nhưng chẳng có bóng điện nào sáng. bóng cũng . Nhà nó ở Nashville có điện báo trộm, để nếu có trộm đến gần vào ban đêm nó sáng lên. Nó ước gì ngôi nhà này cũng có điện báo chống trộm, nhưng nó nghĩ ở nông thôn có thứ này.

Nhấc ba lô lên đến gần, nó thấy nhiều nhà hơn. Có bóng dáng cái nhà kho. Lẽ ra nó phải nghĩ đến chuyện mình làm gì nếu chẳng còn ai thức. Mẹ nó ghét phải thức dậy quá sớm. Có thể anh trai nó cũng thế. Tệ nhất là, thế nào nếu anh trai nó thực có ở đây? thế nào nếu anh ấy vẫn ở Chicago? Đó là điều mà nó cố hết sức nghĩ đến.

Nó cần nơi nghỉ trước khi trời sáng. Nó sợ phải đến nhà kho, thế nên nó nhìn về phía ngôi nhà. Từ từ, nó thẳng lên con đường mòn.

Nguồn: truyen8.mobi/t124464-troi-sinh-quyen-ru-chuong-7.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận