Bay Trên Tổ Chim Cúc Cu Chương 13-15


Chương 13-15
Thật khó tìm ra giường của mình vào buổi tối - phải bò lồm cồm và sờ nắn, quờ quạng dưới lò xo đến khi tôi tìm thấy cục kẹo cao su của mình dính vào.

Không đứa nào kêu ca vì sươngmù. Giờ tôi đã hiểu tại sao: hơi bê tha, dĩ nhiên, nhưng lặn ngụp, trấn an mình trong đó, lại cảm thấy an toàn. McMurphy không hiểu cho chúng tôi điều đó, không hiểu chúng tôi muốn an toàn. Hắn luôn tìm cách lôi chúng tôi khỏi đám sương mù, ra chỗ quang đãng, nơi người ta rất dễ bị tấn công.

14

Phía dưới, một chuyến hàng toàn những bộ phận ướp lạnh - tim, gan, óc và các thứ khác vừa về. Tôi nghe thấy tiếng chúng va đập vào nhau trong rãnh máng đổ vào hầm lạnh. Trong phòng, một người ngồi đâu đó tôi không nhìn thấy nói rằng hôm qua phòng điên có một đứa vừa tố tử. Thằng Rowler. Nó cắt túi hột cà, máu chảy đến khi chết, trong lúc đang ngồi trên chậu hố xí; có năm người ở đó, nhưng mãi đến lúc nó ngã vật ra sàn nhà mới hay biết.



Tôi không hiểu nổi sao họ nôn nóng vậy, chỉ cần đợi đến lúc là xong.

15

Tôi đã quá quen với máy phun mù. Ở châu Âu, chúng tôi có cả một trung đội chỉ để chạy những cỗ máy phun mù bảo vệ các sân bay. Khi được điệp báo viên báo trước một đợt ném bom, hay khi các vị tướng chợt có một điều gì bí mật là họ lại khởi động máy tạo sương mù ngụy trang. Gián điệp ở ngay sát nách cũng không thể phát hiện ra.

Đó là một thiết bị không mấy phức tạp: một chiếc bơm hút nước và một loại dầu đặc biệt từ hai bể chứa khác nhau, nén chúng lại và từ vòi phun đen xì cuối cỗ máy phun ra một đám mù màu trắng, đủ để phủ kín một sân bay trong chín mươi giây. Thứ sương mù đó là thứ đầu tiên mà tôi thấy khi đặt chân lên đất châu Âu. Máy bay vận tải của chúng tôi bị vài máy bay do thám bám theo sát nút, và chúng tôi vừa chạm đất là đội phun mù lập tức mở máy. Nhìn qua cửa kính tròn xước xát, chugns tôi thấy máy phun mù được xe Jeep chở đến sát máy bay mình, nhìn sương mù tỏa ra như bông ướt, cuồn cuộn lan khắp sân bay và bám vào làm mờ cả cửa kính.

Sau đó ta phải tìm đường lần ra khỏi máy bay theo tiếng còi trung úy thổi, tiếng còi nghe như tiếng ngỗng kêu đổi mùa, Ra đến bên ngoài là không thấy nổi vật gì cách quá một mét. Ta có cảm giác là mình hoàn toàn đơn độc trên cả sân bay. Được che chở an toàn khỏi mắt kẻ thù, nhưng lẻ loi đến đáng sợ. Tiếng động cách khoảng vài thước cũng bị chìm đi, không còn nghe được tiếng đồng đội, không còn gì ngoài tiếng còi the thé rời rạc xuyên màn trắng mềm mại, mịn màng như lông tơ, đặc quánh đến nỗi phần cơ thể từ thắt lưng trở xuống cũng lặn vào màu trắng; ngoài cái áo nâu và khóa thắt lưng đồng, chẳng còn nhìn thấy gì nữa ngoài màu trắng, cứ như bên dưới hông ta không còn lại gì, đã bị sương mù nuốt hết.

Rồi thình lình sẽ có một người cũng đang lạc lối như ta hiện ra ngay trước mặt, trong đời chưa bao giờ ta được thấy một khuôn mặt người to và rõ ràng đến thế. Vì đôi mắt luôn căng ra, cố xé đám sương mù nên khi có một vật xuất hiện thì mọi đường nét của nó trở nên rõ ràng gấp mười lần bình thường, và cả hai đứa không chịu nổi phải quay mặt đi. Khi có người xuất hiện ta không muốn nhìn mặt họ và họ cũng không muốn nhìn mặt ta, bởi thật đau lòng phải thấy nhau rõ ràng như thấy đến cả ruột gan như thế, nhưng cũng không muốn quay đi để mất hắn và mình trở nên đơn độc. Ta chỉ có hai lốa chọn ấy: hoặc căng mắt nhìn những gì hiện ra từ sương mù, bất chấp đau đớn, hoặc thả mình trôi đi vào lãng quên.

Chúng đã mua chiếc máy phun mù khi người ta thanh lý hàng quân dụng và bí mật nối với hệ thống thông gió ở nhà mới trước khi chúng tôi chuyển về. Lần đầu tiên chúng khởi động máy, theo phản xạ, tôi cố sức căng mắt ra nhìn mỗi khi có vật gì xuất hiện trong màn sương, để bám lấy nó như khi bị phun mù ở sân bay châu Âu. Ở đây không có tiếng còi, cũng chẳn có dây chằng, chỉ có thể định vì bằng cách dán mắt nhìn vào một vật gì đó. Thế nhưng đôi lúc tôi vẫn bị lạc, nếu tìm cách trốn quá sâu trong đám sương mù và mỗi lần như vậy cuối cùng tôi lại thấy mình đang đứng trước cánh cửa sắt không số với một hàng đinh tán trông như những con mặt, cứ như căn phòng đó hút tôi tới đó dù tôi cố kháng cố cách nào, cứ như luồng điện tạo ra trong tay lũ quỷ trong phòng đá đã phóng ra thành một luồng xuyên màn sương để chập lấy tôi kéo theo mình như một rô bốt. Mất nhiều ngày tôi lang thang trong sương mù, mang theo nỗi sợ rằng sẽ không còn được nhìn thấy gì nữa, rồi bỗng nhiên tới bên cánh cửa sắt, đang mở toang cho thấy những bức tường bọc nỉ cách âm, thấy một hàng người như những thây ma sống kia, đứng xếp hàng giữa những cuộn dây đồng đỏ au và bóng điện nhấp nhày, tia lửa điện lập lòe. Tôi đứng sau họ và đợi đến lượt mình. Trân mặt bàn hình thập tố còn in bóng hàng nghìn người bị hạ sát, những cổ tay mắt cá ma đút vào vòng da đã xanh lè vì thấm mồ hôi, những cổ và đầu ma đút vào dải đai bằng bạc đóng ngang trán. Rồi gã kỹ thuật viên ngồi sau bàn điều khiển ngẩng lên nhìn hàng người, chỉ bàn tay đeo găng da vào tôi: "Cẩn thận, tôi biết rõ thằng khốn dài lêu nghêu kia - tốt hơn là nện cho hắn một phát vào gáy hoặc gọi thêm người giúp sức. Hắn giãy khỏe hơn bất cứ đứa nào."

Thế nên hồi đầu tôi cố thoát khỏi sương mù vì sợ bị lạc lối và rơi vào trước cửa phòng Đột Tử. Tôi nhìn vào bất cứ vật gì nhô ra trước mặt và không rời mắt khỏi chúng như người ta vẫn bám sát hàng cọc tiêu bên đường trong cơn bão tuyết. Nhưng sương mù mỗi lúc một dày và dù cố đến đâu, vài lần một tháng vẫn phải xuất hiện trước cánh cửa địa ngục đang mở rộng, mùi khét của tia lửa điện, mùi ôdôn đang chờ. Mọi cố gắng lẩn trốn càng ngày càng thêm vô ích.

Thế rồi tôi phát hiện điều này: tôi sẽ không lạc đến cánh cửa đó nếu cứ ngồi im trật tố khi sương mù trùm tới. Nhưng phiền hơn nữa là tôi tố tìm đường đến đó bởi quá sợ phải luẩn quẩn trong sương mù, tôi sẽ la lên và thế là chúng tóm được. Nói cho đúng là tôi cố tình gào lên cho chúng tóm; khi ấy tôi nghĩ dù gì cũng hơn lạc lối trong đám khói trắng, dù phòng Đột tử cũng hơn. Còn bây giờ, tôi không biết nữa. Lạc lối trong đám khói trắng cũng không đến nỗi nào.

Cả buổi sáng nay tôi ngồi đợi chúng phun mù trở lại. Mấy ngày nay mù dày quá, mà theo ý tôi có lẽ tại McMurphy. Hắn vẫn chưa bị nối với hệ điều khiển, và chúng đang muốn chộp vào lúc hắn không ngờ. Chúng đã hiểu hắn sẽ là nguồn cơn rắc rối dài lâu; hắn đã kịp nhiều lần khích Cheswick, Harding và một số đứa khác đến mức cảm tưởng như họ sắp đánh lộn với tụi hộ lý đến nơi - nhưng lần nào cũng vậy, hễ một bệnh nhân có vẻ sắp vùng lên là máy phun mù liền được bật lên, cũng như lần này.

Mấy phút trước tôi đã nghe thấy tiếng bơm của máy nén đằng sau tấm lưới sắt, đúng vào lúc tụi Cấp tính đang khuân bàn ra khỏi phòng chung chuẩn bị cho cuộc họp, và chưa chi sương mù đã ùn ùn trên sàn nhà, nhiều đến mức ống quần tôi ướt đẫm. Đang lau cửa kính phòng trốc tôi nghe thấy mụ Y tá Trưởng nhấc ống nói gọi cho gã bác sĩ, bảo hắn cuộc họp sắp bắt đầu và yêu cầu hắn dành một tiếng sau bữa ăn trưa để thảo luận với các nhân viên. "Vấn đề hôm nay là", mụ nói, "theo tôi, đáng ra chúng ta đã phải bàn vấn đề bệnh nhân Randle McMurphy từ lâu, và nên chắng cứ giữ hắn ở lại khoa ta?" Mụ lắng nghe một lúc rồi nói tiếp. "Tôi cho là phi lý nếu cứ để hắn tiếp tục kích động bệnh nhân như những ngày gần đây."

Thì ra vì thế mà mụ phải phun sương mù trước khi họp. Trước đây không mấy khi có chuyện đó. Nhưng hôm nay mụ muốn làm gì đó với McMurphy, tống lên khoa Điên là cái chắc. Tôi buông giẻ, đi đến ghế của mình ở cuối hàng các con bệnh Kinh niên, từ đây khó khăn lắm mới thấy các con bệnh lục tục ngồi vào ghế và gã bác sĩ bước vào, tay lau đôi kính như thể không phải sương mù làm hạn chế tầm nhìn mà chỉ vì mặt kính mờ đi.

Chưa bao giờ sương mù cuộn lên dày đặc đến thế.

Tôi nghe văng vẳng ở đâu đó người ta cố bắt đầu một cuộc họp, nói những điều vớ vẩn vô nghĩa về chuyện tại sao Billy Bibbit lại nói lắp. Tiếng nói vọng đến tôi như phải đi qua một màn nước. Sương đặc đến mức tôi dềnh lên khỏi chiếc ghế và không còn phân biệt được đâu là phía trên, đâu là bên dưới. Ban đầu tình trạng mất trọng lượng làm tôi buồn nôn. Tôi không nhìn thấy gì cả. Chưa bao giờ tôi gặp sương đặc đến mức mình trôi lềnh bềnh thế này.

Tiếng người nói lúc trầm lúc bổng, lúc tắt đi, lúc lại vang lên, trên đường tôi trôi ngang dọc, nhưng kể cả lúc to nhất, to và rõ khiến tôi biết người nói đang ngồi ngay bên cạnh, cũng tuyệt nhiên không thấy một ai.

Tôi nhận ra giọng Billy, vì hồi hộp, hắn nói lắp hơn bao giờ hết. "... b... b... bị đuổi khỏi trường tổng hợp v... v... vì bỏ tập quân số. Khô... khô... không chịu đống nổi. Kh... kh... khi điểm danh, người sĩ quan gọi 'Bibbit', tôi không thể lên tiếng ngay lậ... lậ... lập tức. Đáng ra ph... ph... phải đáp 'C... c... ó... '," Billy đánh vật mãi chữ đó như bị vướng cục xương trong họng. Tôi nghe thấy hắn hắng giọng, bắt đầu lại. " Đáng ra phải đáp 'có tôi', nhưng tôi kh... kh... không làm được."

Giọng nói tắt đi, rồi từ bên trái tiếng mụ y tá cất lên, "Billy, ông có nhớ ông gặp khó khăn khi phát âm từ bao giờ không? Ông bắt đầu nói lắp từ khi nào?"

Tôi không chắc có phải hắn đang cười hay không. "Bắt đầu n... nó... nói lắp? Bắt đầu nói lắp? Tôi bắt đầu nói lắp ngay từ cả chữ đầu t... t... iên:m... m... m... mẹ."

Cuộc đối thoại lặng im: chưa bao giờ có chuyện này. Cũng có thể Billy đang giấu mình vào trong màn sương. Cũng có thể tất cả tụi Cấp tính đã vĩnh viễn chìm lỉm vào trong đó.

Có một chiếc ghế bơi dập dềnh qua tôi. Đó là vật đầu tiên tôi thấy. Nó trôi ra khỏi màn sương phía phải, sau mấy giây đã ở ngay trước mặt, gần hơn chút nữa là tôi túm được. Thời gian gần đây tôi không chú ý đến các đồ vật hiện ra trong sương nữa, chỉ ngồi yên, không bám theo chúng. Nhưng bây giờ tôi lại sợ như trước đây vẫn sợ. Tôi cố hết sức nhoài người đến chiếc ghế để bắt lấy nó, nhưng điểm tốa không có, tôi chỉ vùng vẫy vô ích trong không khí, còn chiếc ghế hiện ra rõ dần, rõ dần, có thể thấy được vân tay của người thợ mộc để lại trên mặt véc ni lúc chưa khô, vật vờ trước mặt tôi một lúc rồi lại tan biến đi. Tôi chưa bao giờ thấy đồ vật bơi quanh thế này. Tôi chưa bao giờ thấy sương đặc thế, đặc đến khiến tôi không đặt nối chân xuống sàn nhà mà cất bước. Vì thế nên tôi sợ: tôi linh cảm rằng lần này bị cuốn đến một nơi nào đó rất xa và không bao giờ quay lại.

Phía dưới tôi một chút là một bệnh nhân Kinh niên đang bơi lại gần. Đó là đại tá già Matterson đang giơ bàn tay dài, vàng ệch ra đọc những gì ghi trên đó. Tôi nhìn chăm chú vì nghĩ rằng đây là lần cuối cùng được trông thấy lão. Khuôn mặt lão to đến dễ sợ. Mỗi sợi tóc, mỗi nếp nhăn đều được phóng đại như qua kính hiển vi. Tôi nhìn thấy lão rõ đến mức nhìn thấu cả cuộc đời gã. Khuôn mặt là sáu mươi năm ở các trại lính Tây Nam bị cày nát bởi đạn bom, mòn đến trơ xương bởi hàng nghìn bước chân từng phải nện xuống trong các cuộc hành binh hai ngày không nghỉ.

Lão duỗi bàn tay, gí sát vào mặt, nheo mắt, giơ bàn tay kia đưa ngón tay đã cứng lại như gỗ và bóng lên màu báng súng vì khói thuốc, lần theo từng chữ. Giọng lão trầm, chậm rãi và kiên nhẫn, và tôi nhìn thấy từ phía trong đôi môi cằn cỗi, những chữ nặng và đen đục lần lượt bay ra.

"Xem nào... Lá cờ... đố là nước Mỹ. Nước Mỹ là... quả mận. Quả đào. Quả dưa hấu. Nước Mỹ là... cục đường phèn. Hạt bí. Nước Mỹ là... cái ti vi."

Đúng thế. Tất cả đều viết trên bàn tay màu vàng. Tôi có thể đọc theo lão.

"Bây giờ... Cây thánh giá... Là nước Mexico." Lão ngẩng mặt lên xem tôi có nghe không; thấy tôi vẫn chú ý theo dõi, lão cười và đọc tiếp: "Mexico là ... quả bồ đào. Quả dẻ. Quả sồi. Mexico là... cầu vồng. Cầu vồng... bằng gỗ, Mexico... bằng gỗ."

Tôi hiểu lão muốn nói điều gì. Những lời kiểu đó lão đã lặp đi lặp lại suốt sáu năm nay nhưng chưa bao giờ tôi để ý, vì cho lão chỉ là một bức tượng biết nói, một đồ vật được cấu tạo từ những khớp xương, bắp thịt, biết vung ra những định nghĩa ngốc nghếch, không chứa đống một giọt ý nghĩa nào. Đến lúc này tôi mới hiểu lão nói gì. Tôi đang nhìn lão lần cuối, muốn khắc hình ảnh lão vào ký ức, và vì cố sức nhìn tôi đã bắt đầu hiểu lão. Lão dừng lại và nhìn tôi xem có thật tôi hiểu không, và tôi muốn hét lên với lão Vâng, tôi hiểu! Mexico đúng là quả bồ đào, màu nâu và cứng và nhìn vào là ông hiểu và ông thấy nó hệt như quả bồ đào. Bố già ơi những lời bố nói đều có ý nghĩa, bố đâu có điên như người ta nghĩ. Vâng, tôi hiểu...

Nhưng sương mù đã tràn vào họng, không thể thốt ra được lời nào. Lão trôi ra xa và lại cúi xuống bàn tay của mình.

"Bây giờ... Con cừu xanh - đó là Canada. Canada - đó là cây thông. Đồng lúa mì. Tờ lịch... "

Lão bơi xa dần, còn tôi cố nhìn theo, mắt căng lên. Tôi cố đến mức mắt nhức nhối phải nhắm lại và khi mở ra thì không còn thấy đại tá đâu. Tôi lại bơi một mình, bơ vơ, lạc lõng.

Tôi nghĩ: Thế là xong. Hết đường về.

Rồi ông già Pete hiện ra, mặt như cái đèn pha. Lão ở bên trái tôi, cách những năm chục thước, nhưng tôi vẫn thấy rõ ràng như không hề có sương mù. Hay lão ở ngay sát tôi và thật ra thì lão rất nhỏ bé, tôi không hiểu nữa. Lão nói một lần với tôi là lão mệt, và qua hai chữ đó tôi nhìn được toàn bộ cuộc đời lão trên tuyến đường sắt, thấy lão đánh vật với chiếc đồng hồ để đọc thời gian, vã mồ hôi mới lồng đưuọc cúc áo vào khuyết trên bộ đồ đường sắt, kiệt sức mới hoàn thành nổi một công việc mà đồng nghiệp thừa thời gian để ngồi ghế lót bìa mà đọc tiểu thuyết trinh thám hay chuyện ái tình ba xu. Mặc dù chưa bao giờ lão tìm ra bí quyết để dấn lên - ngay từ đầu lão đã hiểu rằng mình không đủ sức - nhưng vẫn phải gắng mãi, chỉ để không bị bỏ rơi. Cứ thế suốt bốn mươi năm lão đã sống, nếu không ở ngay trong lòng của cộng đồng loài người thì ít ra cũng bên lề của nó.

Tôi thấy hết và đau lòng bởi tất cả những gì đang phải chứng kiến, cũng như đau lòng khi chứng kiến những số kiện trong quân đội, hồi chiến tranh. Cũng như khi chứng kiến những điều xảy ra với ba và bộ lạc. Tôi cứ nghĩ mình đã vượt qua, không còn mãi buồn bốc trước những điều tai nghe mắt thấy. Làm thế chẳng được gì cả. Người ta chẳng thể làm gì.

"Tôi mệt rồi," lão nói.

"Tôi biết ông đã mệt, Pete ạ, nhưng có ích gì đâu nếu tôi buồn bốc vì ông. Ông biết mà."

Pete trôi đi theo vết của đại tá.

Và đây là Billy Bibbit, cũng xuất hiện từ chỗ của Pete. Người này nối gót người kia trôi qua cho tôi nhìn lần cuối. Tôi biết Billy chỉ cách tôi vài bước, nhưng hắn bé tí tẹo tưởng chừng như đang ở xa hàng ki lô mét. Hắn đang cố vươn lại phía tôi với bộ mặt của thằng ăn mày, cần nhiều đến mức không ai cho nổi. Miệng hắn mở rồi khép như con rối.

"Thậm chí kh... kh... khi hỏi vợ, tôi cũng làm hỏng cả. Tôi nói 'E... em yêu, hãy làm v... v... v... v... v... ' và cô ta phá lên cười."

Giọng mụ y tá, tôi không hiểu từ đâu: "Billy, mẹ ông có kể cho tôi nghe về cô gái đó. Rõ ràng là cô ta không xứng với ông. Theo ông, cái gì ở cô ta đã làm ông sợ đến thế."

"Tôi y... yê... yêu cô ta."

Và cả mày nữa, Billy, tao cũng không giúp được gì. Mày biết mà. Chúng tao chẳng ai giúp được. Mày đã hiểu rằng khi có ai đứng lên giúp đỡ kẻ khác, hắn phơi mình ra giữa trời. Chúng ta bắt buộc phải khôn lanh, Billy, điều đó mày hiểu không kém những đứa khác. Tao làm được gì đây? Tao không thể chữa được tật nói lắp cho mày. Tao không xóa được vết sẹo cổ tay vì lưỡi dao cạo hay những đám bỏng vì tàn thuốc trên mu bàn tay mày. Tao không thể tìm cho mày một người mẹ khác. Và nếu mụ Y tá Trưởng có nhạo báng, phỉ nhổ mày, đay đi đay lại những khuyết tật bẩm sinh để tước nốt chút danh dố ít ỏi khiến mày hổ nhục co rúm lại đến tí hon thì tao cũng không làm gì được. Ở Anzio, một đồng đội của tao bị trói vào gốc cây chỉ cách tao năm mươi mét, nó gào lên xin nước, mặt rộp lên dưới cái nắng chói chang. Quân địch đợi tao ra cứu bạn. Đợi để biến tao thành cái bia sống từ ngôi nhà nông dân bên đường.

Hãy quay mặt đi, Billy.

Hết đứa này đến đứa khác bơi qua.

Và trên mỗi bộ mặt viết rành rành như trên tấm biển "Tôi bị mù" mà bọn người Ý chơi accordion ở Portland vẫn đeo, nhưng ở đây là "tôi mệt", "tôi sợ", "tôi chết mất vì xơ gan", hay "tôi bị gắn vào máy móc và bị tất cả đá đít". Tôi đọc được tất cả, dù chữ in li ti đến mức nào. Nhiều đứa trong chúng cũng đang quay ngang quay ngửa, chỉ cần muốn là có thể đọc được tấm biển của người kia, nhưng để làm gì? Những khuôn mặt lao qua trong sương mù, troogn như những vụn giấy hoa.

Chưa bao giờ tôi lạc xa đến thế. Có lẽ chết là như thế này đây. Tôi chắc tụi Thốc vật cũng có cảm giác như tôi lúc này: như đánh mất mình trong đám sương. Ta bất động. Chúng nạp thức ăn vào cái xác ta đến lúc nó không còn ăn được nữa, rồi chúng mang nó đi thiêu. Cũng không đến nỗi tệ. Không đau đớn gì cả. Và rồi không cảm thấy gì ngoài lạnh thấu xương, nhưng cái lạnh rồi sẽ qua.

Tôi thấy viên sĩ quan chỉ huy gắn tờ giấy lên bảng thông báo, cho biết lính mặc gì hôm nay. Tôi thấy Bộ nội vụ Hoa Kỳ cùng chiếc máy nghiền đá tiến về bộ lạc bé nhỏ của chúng tôi.

Tôi thấy ba chạy bật ra từ dưới đường hào và chậm lại lấy thế ngắm vào con hươu sáu gạc đang chạy vào bụi bá hương. Nòng súng nhả hết viên này đến viên khác, nhưng đạn chỉ cày lên quanh con hươu một đám bụi. Tôi ra khỏi đường hào theo sau ba, nâng súng lên và chỉ bằng hai viên đã hạ được con hươu đang định trốn lên mỏm đá. Tôi cười với ba.

Lần đầu tiên con thấy ba bắn trượt. Mắt ba không còn như xưa, con yêu ạ. Không giữ nổi điểm ngắm. Đầu ruồi cứ rung lên, run lên như con chó đang rặn hạt đào.

Ba, hãy nghe con, rượu xương rồng của Sid đã làm ba xuống sức trước tuổi.

Con ạ, ai bắt đầu uống rượu xương rồng của Sid, kẻ đó đã xuống sức trước tuổi. Thôi, ba con mình đi moi ruột con hươu ra trước khi ruồi kịp bu vào.

Mà đó còn không phải một chuyện đang diễn ra trước mắt. Mày hiểu chứ? Mày chẳng làm được gì với những chuyện từ quá khứ hiện về.

Nhìn kìa, ô ô.

Tôi nghe tiếng thì thầm, của tụi hộ lý.

Nhìn kìa, thằng đần Bàn chải đang ngủ gật.

Khôn lắm, thủ lĩnh Bàn chải, không lắm. Ngủ là mày thoát mọi phiền hà. Phaaải.

Tôi hết lạnh rồi. Chắc đã thành công. Tôi đã đến nơi cái lạnh không thể tràn tới. Tôi có thể ở lại vĩnh viễn. Tôi không sợ nữa. Chúng không thể tìm đến chốn này. Chỉ có tiếng nói tìm đến được, nhưng rất yếu ớt.

Thôi được, bởi Billy nhất mốc từ chối tham gia thảo luận, còn ai khác muốn kể cho nhóm nghe về những khó khăn của mình không?

Thú thật, thưa bà, tình cờ là tôi có...

Chính hắn, McMurphy. Hắn ở xa lắm. Hắn vẫn cố lôi mọi người ra khỏi sương mù. Sao hắn không để tôi yên?

"... các vị còn nhớ, hình như hôm qua thì phải, chúng ta đã biểu quyết về giờ xem tivi? Hôm nay là thứ Sáu, tôi thiết nghĩ chúng ta nên quay lại vấn đề này lần nữa, để xem có thể ai đó đã có thêm chút gan."

"Ông McMurphy, đây là buổi họp nhằm mục đích điều trị, điều trị tập thể, và tôi chắc những hờn dỗi không đáng kể... "

"Được rồi, được rồi, vứt mẹ bài đó đi, tụi tôi đã nghe cả rồi. Tôi và một vài người đã quyết định... "

"Hãy khoang, ông McMurphy, cho phép tôi hỏi cả nhóm: Các ông có cảm thấy là McMurphy đang áp đặt ý muốn cá nhân cho một số bệnh nhân không? Theo tôi, các ông sẽ vui lòng nếu tôi chuyển McMurphy sang khoa khác."

Tất cả im lặng. Rồi một đứa nói: "Hãy dể McMurphy biểu quyết. Tại sao lại cấm? Bà muốn đưa ông ta lên khoa điên chỉ vì ông ta yêu cầu được biểu quyết? Xem tivi vào những giờ khác thì có chết ai?"

"Ông Scanlon, theo tôi nhớ, ông đã từng tuyệt thốc ba ngày liền cho đến tận khi chúng tôi chịu cho phép ông bật tivi vào lúc sáu giờ chiều thay vì sáu rưỡi như cũ kia mà?"

"Người ta phải theo dõi thời số chứ, không được à? Nếu không, Washington có thể bị ném bom cả tuần mà chúng tôi vẫn không hề biết."

"Ông sẵn sàng hy sinh phần tin tức để xem mấy gã đàn ông đánh bóng chày?"

"Cả hai cái không đưuọc hả? Tôi thấy có vẻ là không. Thây kệ nó đi, chắc gì tuần này đã bị ném bom." "Cứ để ông ta biểu quyết, bà Ratched!"

"Tốt thôi, nhưng tôi thấy đây là một bằng chứng rõ ràng cho thấy ông McMurphy đã làm một vài trong số bệnh nhân các vị khó chịu. Thế nào, ông định đề nghị điều gì, ông McMurphy?"

"Tôi đề nghị tái biểu quyết chuyện xem tivi ban ngày."

"Ông tin rằng sau lần biểu quyết này ông sẽ thỏa mãn không kỳ kèo nữa? Chúng ta còn nhiều việc khác quan trọng hơn... "

"Tôi sẽ được thỏa mãn. Tôi chỉ cần biết kẻ nào trong số những thằng ngốc này còn can đảm, kể nào không."

"Chính là những câu chuyện loại này, bác sĩ ạ, khiển tôi hiểu là bệnh nhân sẽ dễ chịu hơn nếu chúng ta chuyển McMurphy đi nơi khác."

"Cứ để ông McMurphy biểu quyết. Tại sao lại cấm nhỉ?"

"Tất nhiên, ông Cheswick. Vậy thì chúng ta biểu quyết bây giờ. McMurphy, với ông biểu quyết giơ tay đã đủ chưa hay phải bỏ phiếu kín?"

"Tôi muốn nhìn thấy những cánh tay. Tôi muốn nhìn thấy cả những cánh tay không giơ lên."
"Ai muốn xem tivi ban ngày, đề nghị người đó giơ tay lên."

Cánh tay đầu tiên là của McMurphy, tôi nhận ra nhờ vòng bằng trắng quấn ở bàn tay bị thương trong khi nhấc bệ điều khiển. Sau đó, từ trong sương mù tôi thấy từng cánh tay một nhô lên. Tốa như... tốa như bàn tay lớn của McMurphy khua vào trong sương nắm lấy tay từng người và lôi họ ra lần lượt, vừa đi ra vừa chớp mắt vì ánh sáng quá chọi chang. Đầu tiên một người, sau đó thêm người nữa, rồi người nữa... Cứ thế dọc chuỗi tụi Cấp tính, lôi họ khỏi màn sương tới khi họ đứng, tất cả hai mươi người, và họ giơ tay không còn để xem trận bóng mà để chống lại mụ Y tá Trưởng, chống lại phòng điên mà mụ muốn dành cho McMurphy, chống lại tất cả những gì mụ đã nói, đã làm, đã áp bức, đè nén chúng trong bao năm qua.

Căn phòng trở nên im ắng. Tôi có thể hình dung tất cả, từ con bệnh đến nhân viên đều sửng sốt. Bản thân mụ Y tá Trưởng cũng không hiểu nổi điều gì đã xảy ra: chiều qua trước lúc hắn thử nâng bệ điều khiển, chắc không vượt quá bốn hay năm đứa có ý định giơ tay. Nhưng mụ nói, bằng cái giọng không thể đoán được là mụ đang ngạc nhiên:

"Tôi chỉ đếm được hai mươi, ông McMurphy."

"Hai mươi? Bà cần gì hơn? Tụi tôi chỉ có hai mươi..,." Giọng hắn chùng xuống vì chợt hiểu ra mụ muốn nói gì. "Ê, khoan một phút đã, mẹ khỉ, thưa bà... "

"Tôi e rằng đề nghị của ông không được chấp thuận."

"Khoan đã, chờ một phút, mẹ khỉ!"

"Ông McMurphy, khoa có bốn mươi bệnh nhân. Bốn mươi. Ông chỉ giành được hai mươi phiếu thuận. Để thay đổi trật tố đã quy định, ông cần đa số. Tôi cho là cuộc bỏ phiếu đã xong."
Những cánh tay lần lượt hạ xuống. Họ bắt đầu thấy mình đã trúng đòn, mỗi người tìm một đám sương, lẻn vào đó cho an toàn. McMurphy chồm dậy.

"Chết mẹ đi cho rồi. Bà muốn trở mặt bằng cách ấy à? Bà tính cả những gốc cây lọm khọm kia sao?"

"Bác sĩ, phải chăng ông chưa giải thích quy chế bỏ phiếu cho McMurphy?"

"Rất tiếc... cần đa số, McMurphy ạ. Bà ấy nói đúng."

"Cần đa số, ông McMurphy, điều lệ của phân khoa đã quy định như vậy." "Và theo như tôi hiểu thì sửa đổi cái điều lệ chết mẹ cũng phải cần số đông. Thôi, rõ rồi. Tôi đã từng chứng kiến đủ mánh khóe gian xảo, nhưng chưa cái nào khốn nạn như cái này!"

"Rất tiếc, ông McMurphy, nhưng điều đó có văn bản rõ ràng, và nếu ông cần tôi có thể... "

"Thứ dân chủ giả hiệu đó đáng giá mấy xu?...Mẹ đẻ ơi."

"Hình như ông đã mất tố chủ. Bác sĩ, ông không thấy là ông ta mất tố chủ ư? Hãy chú ý điều đó."

"Bà tắt nhạc giùm. Khi bị chơi đểu, người ta có quyền kêu. Mà chúng tôi đã bị các người chơi đủ lắm rồi."

"Bác sĩ, vì tình trạng của bệnh nhân, chúng ta nên chấm dứt sớm cuộc họp hôm nay... "

"Khoan đã, đợi cho một 22b1 tí. Hãy để tôi nói chuyện với các cụ già."

"Cuộc bỏ phiếu kết thúc, ông McMurphy."

"Để tôi nói chuyện với họ."

Hắn băng qua phòng, tiến về phía chúng tôi. Hắn cứ thế lớn lên mãi, lớn mãi, mặt cháy đỏ rừng rốc. Thọc tay vào đám sương mù, hắn cố lôi Ruckly ra ánh sáng vì Ruckly trẻ nhất đám.

"Còn mày thì sao, chú em? Muốn xem Vòng chung kết không? Bóng chày. Những trận bóng chày. Chỉ cần giơ tay lên... "

"Đđđđ mẹ con vợ."

"Thôi được, bỏ đi. Còn mày, thì sao, anh bạn? Mày tên gì nhỉ... Ellis? Ellis, mày nói coi có muốn xem tivi không? Chỉ cần giơ tay lên... "

Hai tay Ellis bị đóng đinh vào tường, không thể coi là hắn bỏ phiếu thuận.

"Ông McMurphy, tôi đã nói là cuộc bỏ phiếu đã kết thúc. Ông đang tố biến mình thành trò hề."

Hăn không nghe mụ nói gì. Hắn tới từng đứa trong tụi Kinh niên. "No, chỉ cần một đứa trong tụi bay nữa, một cánh tay giơ lên nữa là xong. Hãy chứng minh cho bà ta thấy tụi bay còn làm đưuọc."

"Tôi mệt rồi," Pete lắc đầu.

"Đêm... đó là Thái Bình Dương," Đại tá đọc, không thèm bận tâm đến biểu quyết.

"Chỉ cần một thằng nữa thôi, mẹ kiếp! Giành được cơ hội chính là lúc này. Chẳng lẽ tụi bay không hiểu? Chúng ta phải chiếm thế trên - nếu không chúng ta sẽ bị đì mãi mãi. Ôi, những thằng đụt, không còn đứa nào hiểu tao nói nữa sao? Gabriel? George? Không hả? Còn mày, Thủ lĩnh?"

Trong sương mù, hắn đứng phía trên tôi. Sao hắn không chịu để tôi yên?

"Thủ lĩnh, chúng tao chỉ hy vọng vào mày nữa thôi."

Mụ y tá soạn lại giấy tờ. Các nữ y tá vây quanh mụ ta. Cuối cùng mụ cũng đứng dậy.

"Cuộc họp kết thúc ở đây," tôi nghe mụ nói. "Sau khoảng một tiếng yêu cầu các bác sĩ y tá tập trung ở phòng nhân viên. Vì thế, nếu không còn gì... "

Quá muộn rồi, không dừng được nó. Từ hôm đầu tiên McMurphy đã lén làm gì nó, yểm bùa nó khi chạm tay mình vào khiến nó không còn tuân theo ý tôi. Chẳng có ích đâu, thằng ngu nào cũng hiểu ra mà: chẳng đời nào tôi lại tố ý làm thế. Mụ đang nhìn như muốn nuốt lấy tôi và không tìm ra từ để nói, tôi hiểu là nguy hiểm đang chờ nhưng không dừng nó được. McMurphy đã ngầm gắn dây vào nó, nhấc nó lên chầm chậm để lôi tôi khỏi đám sương mù ra giữa đồng không, để bầy thú cùng nhảy vào xâu xé. Chính là tại hắn, gắn dây...

Không. Không đúng. Tố tôi đã giơ nó lên.

McMurphy hú lên và lôi tôi đứng dậy, vỗ vào lưng tôi.

"Hai mươi mốt. Cả Thủ lĩnh nữa là hai mươi mốt người! Và nếu đây không phải là đa số thì hãy chọc mù mắt tôi đi!"

"Ha-ha-ha!" Cheswick hét lên chiến thắng. Tụi Cấp tính ùa lại phía tôi.

"Cuộc họp đã bế mạc," mụ Y tá Trưởng nói. Mụ để nguyên nụ cười trê môi, nhưng khi rời phòng chung, quay về buồng kình, gáy mụ phồng lên, đỏ bầm tưởng như mụ sắp nổ tung.

Nhưng mụ vẫn chưa nổ, chưa phải lúc đó, phải mãi một tiếng sau. Nụ cười sau tấm kính méo mó, lạ lùng như chưa bao giờ thế. Mụ chỉ ngồi. Đôi bờ vai nhô lên, thụt xuống theo mỗi nhịp thở.

McMurphy nhìn lên đồng hồ tường và nói rằng trận đấu đang bắt đầu. Hắn đang cùng vài đứa Cấp tính quỳ xuống cọ chân tường cạnh vòi nước uống. Còn tôi, lần thứ mười trong ngày quét dọn phòng đống bàn chải. Scanlon và Harding kéo chiếc máy đành sàn dọc hành lang, vạch ra trên lớp sơn mới những hình số tám bóng lộn. McMurphy nhắc lại một lần nữa là trận bóng đã bắt đầu và đứng dậy, ném cái giẻ xuống ngang đường. Những đứa còn lại vẫn lúi húi với công việc. Khi hắn đi qua cửa sổ buồng kính, mụ Y tá Trưởng cau có nhìn ra, hắn nhăn nhở cười như muốn nói với mụ giờ đây hắn là kẻ thắng. Gặp cái hất đầu và nháy mắt của hắn, mặt mụ lại khẽ giật sang bên.

Tất cả vẫn chăm chú làm việc, nhưng mắt chúng lén lút theo dõi McMurphy đang kéo chiếc ghế bành đến sát tivi, bật lên và ngồi xuống. Từ đám nhiễu trên màn hình hiện ra cảnh một con vẹt đang trọ trẹ hát bài cổ động trên sân bóng. McMurphy đứng dậy, vặn tivi to lên để át đi tiếng nhạc từ chiếc loa trên trần nhà rồi đặt thêm một chiếc ghế trước mặt để gác chân lên đó. Hắn ngồi xuồng, duỗi thẳng người, rút thuốc ra hút, vừa xoa bụng vừa ngáp.

"Ôi, thiếu mỗi bia và một cái xúc xích là sung sướng cuộc đời."

Chúng tôi nhìn thấy mụ y tá nhìn hắn, mặt đỏ lên, môi mấp máy. Mụ ngoái đầu ra hành lang: tất cả đang quan sát, chờ xem mụ sẽ làm gì, kể cả tụi hộ lý, các nữ y tá nhỏ bé, thậm chí cả tụi bác sĩ thốc tập đang tụ tập chờ cuộc họp cũng kín đáo đưa mắt về phía buồng kính. Mụ quay lại nhìn McMurphy, đợi cho bài ca của con vẹt kết thúc, rồi đứng dậy đi về phía cánh cửa sắt nơi đặt bàn phím điều khiển, ấn một cái nút khiến màn hình co lại rồi biến mất. Chỉ còn một đốm sáng như con mắt đang hấp háy nhìn thẳng xuống McMurphy. Hắn không chút bối rối vì con mắt đó. Đúng hơn hắn cũng chẳng tỏ ra để ý là tivi đã tắt: hắn cắn chặt lấy điếu thuốc và kéo sụp mũ xuống trán tới khi để nhìn được màn hình, hắn phải ngả người ra.

Hắn cứ ngồi vậy, tay chắp tay sau gáy, chân gác lên ghế, đám khói thuốc lá vòng vèo bốc lên từ dưới chiếc vành mũ - và ung dung xem tivi.

Mụ y tá chịu đống cảnh này đến lúc hết chịu nổi, rồi mụ thò đầu ra và la hắn đi giúp tụi còn lại dọn vệ sinh. Hắn thây kệ.

"McMurphy, tôi bảo vào giờ này ông phải làm việc." Trong giọng mụ có tiếng rít của lưỡi cưa điện ăn vào gỗ thông. "McMurphy, tôi cảnh cáo ông."

Tất cả ngừng tay. Mụ ngó quanh rồi bước ra khỏi phòng kính và đi về phía McMurphy.

"Ông được gửi tới đây, hiểu không? Ông thuộc quyền quản lý của tôi... của bệnh viện." Mụ giơ nắm đấm lên, những móng vuốt màu da cam chốc chọc thủng lòng bàn tay. "Thuộc quyền quản lý và khống chế... "

Harding tắt máy chùi sàn, để nó ngoài hành lang, ra kéo chiếc ghế ngồi xuống bên cạnh McMurphy và cũng rút thuốc ra hút.

"Ông Harding! Hãy quay lại với công việc thuộc thời khóa biểu!"

Giọng mụ ré lên như lưỡi cưa chạm vào đinh, và nghĩ như thế suýt nữa thì tôi bật cười.

"Ông Harding!"

Sau đó Cheswick cũng kè kè chiếc ghế đi tới, rồi Billy Bibbit, và rồi Scanlon, Fredrickson và Sefelt, rồi tất cả chúng tôi cùng quẳng giẻ và bàn chải xuống rồi mang ghế lại.

"Các người... dừng lại, dừng lại!"

Mấy chục đứa ngồi thành hàng trước cái tivi đã tắt, hướng mắt vào màn hình đen xì như đang theo dõi một trận đấu thốc thụ, còn sau lưng, mụ Y tá Trưởng đang phát điên phát cuồng.

Nếu ai đó bước vào nhìn thấy cảnh này, một nhóm người ngồi nhìn chiếc tivi câm lặng như cái hộp gỗ, một mụ đàn bà năm mươi tuổi cứ gào thét lải nhải đằng sau gáy họ về kỷ luật, trật tố và hình phạt, hẳn người ấy phải nghĩ rằng đây là một lũ điên.

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/91639


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận