Chiếc Hộp Giáng Sinh Chương 4


Chương 4
Dù chỉ hơn một lần lờ mờ nhớ lại giấc mơ đã ám ảnh giấc ngủ của tôi sau khi chúng tôi chuyển tới ở nhà Parkin, ký ức đó càng ngày càng hiện về rõ hơn hơn sau mỗi lần tôi ngủ.

Tôi không nhớ chính xác cái đêm tôi bắt đầu có những giấc mơ đó. Giấc mơ về thiên thần. Cần phải nói rằng tôi là người tin vào các thiên thần, cho dù đó không phải kiểu thiên thần với đôi cánh và đàn hạc trong những cuốn sách tranh. Với tôi, cái vỏ ngoài thiên thần đó dường như chẳng mấy nghĩa lý, cũng như hình ảnh những con quỷ đeo sừng và mang đinh ba. Đối với tôi, những đôi cánh thiên thần chỉ tượng trưng cho vai trò của họ như những người truyền tin thiêng liêng. Không kể những ý kiến khá là giáo điều của tôi về vấn đề này, sự thực là việc thiên thần trong giấc mơ của tôi từ trên trời bay xuống trong đôi cánh dang rộng chẳng làm tôi bận tâm. Trên thực tế, điều duy nhất làm phiền tôi với những giấc mơ ấy là sự trở lại thường xuyên và cái kết kỳ lạ của chúng. Trong mơ tôi thấy mình chỉ có một mình trên một cánh đồng lớn trải dài tít tắp. Không khí tràn ngập những dòng âm nhạc lâng lâng, đẹp đẽ đang tuôn trào du dương, ngọt ngào như suối từ trong núi chảy ra. Tôi nhìn lên và thấy một thiên thần dang rộng cánh đang từ từ bay xuống từ thiên đường. Rồi, khi còn cách nhau có một sải tay, tôi nhìn vào khuôn mặt bầu bĩnh của thiên thần, đôi mắt thiên thần hướng lên trời, và thiên thần hóa thành đá.

Dù chỉ hơn một lần lờ mờ nhớ lại giấc mơ đã ám ảnh giấc ngủ của tôi sau khi chúng tôi chuyển tới ở nhà Parkin, ký ức đó càng ngày càng hiện về rõ hơn hơn sau mỗi lần tôi ngủ.  Đêm nay, nó thật sống động, đầy màu sắc, âm thanh và các chi tiết, chiếm ngự toàn bộ suy nghĩ của tôi với vẻ siêu thực của nó. Tôi đột nhiên thức dậy, chờ cho mọi dấu vết của cái ảo ảnh ban đêm biến đi trong khi đầu óc tỉnh dần, nhưng không hề. Đêm nay âm nhạc ở lại. Một giai điệu nhẹ nhàng, trong như bạc bật ra ngọt ngào như một bài hát ru. Một bài hát ru không biết từ đâu tới.

Ngoại trừ đêm nay âm nhạc đã có khởi nguồn.

Tôi ngồi dậy trên giường, chăm chú lắng nghe trong khi đôi mắt quen dần với bóng tối. Tôi tìm được đèn pin ở cái kệ đầu giường bằng gỗ thông kê sát giường của chúng tôi, khoác lên mình cái áo choàng vải bông, lặng lẽ rời khỏi phòng, đi theo tiếng nhạc. Tôi thấy mình bước qua gian sảnh, qua phòng trẻ nơi tôi dừng lại và ngắm Jenna. Con bé đang ngủ say, không bị âm thanh làm cho thức giấc. Tôi đi theo tiếng nhạc tới cuối sảnh, dừng lại ở nơi có vẻ phát ra giai điệu, sau cánh cửa phòng áp mái. Tôi nắm lấy tay cầm và từ từ mở cửa. Ánh đèn pin chiếu vào căn phòng, tạo thành những cái bóng dài, dò dẫm. Bồn chồn, tôi bước tới chỗ có tiếng nhạc. Căn phòng vẫn lặng như tờ, và trừ tiếng nhạc đó ra, không có gì là sự sống. Khi tôi rọi đèn vào phòng, tim tôi đập dồn. Cái nôi đã mở toang ra. Tấm vải đầy bụi phủ lên nó giờ nằm nhàu nhĩ dưới chân nôi, trên sàn căn áp mái. Tôi lo lắng xem tiếp, cho tới khi rọi đúng đèn vào nơi phát ra sự khuấy động mê mẩn kia. Đó là cái hộp gia truyền có chạm khắc đẹp đẽ mà Barry và tôi đã phát hiện ra vào buổi chiều hôm chúng tôi dọn đồ tới. Chiếc hộp Giáng sinh. Lúc đó tôi không biết rằng nó có thể chơi nhạc. Chơi nhạc giữa đêm thì mới kỳ dị làm sao. Tôi nhìn quanh lần nữa để chắc rằng tôi chỉ có một mình, rồi dựng cái đèn pin trên sàn, cho nó chiếu lên xà nhà sáng cả căn phòng. Tôi nhấc cái hộp lên ngó nghiêng, tìm một cái chốt để tắt nhạc đi. Cái hộp nặng, phủ đầy bụi, trông vẫn giống như khi chúng tôi tìm thấy nó vài ngày trước đây. Tôi xem xét nó kỹ hơn nhưng vẫn không thấy một cái chìa để mở hay đoạn dây buộc nào, cũng chẳng hề có máy móc. Trên thực tế, nó chỉ là một cái hộp gỗ. Tôi mở cái khóa cài bằng bạc và từ từ mở nắp hộp. âm nhạc ngừng bặt. Tôi đưa đèn pin lại gần để kiểm tra cái hộp. Bên trong là vài tập tài liệu. Tôi chạm vào, rồi nhấc trang giấy đầu tiên lên. Một bức thư viết tay, giấy đã giòn vì thời gian và hơi ngả sang màu vàng. Tôi giơ lên gần đèn pin và đọc. Nét chữ trên đó thật đều đặn và đẹp mắt.

Mùng 6 Tháng Mười hai 914


Con yêu dấu của mẹ,

Tôi dừng lại. Tôi chưa bao giờ là loại người ham nhúng mũi vào chuyện riêng của người khác, càng không bao giờ thích đọc thư từ không phải của mình. Nhưng tại sao khi đó tôi không cưỡng nổi ham muốn đọc lá thư đó vẫn còn là một điều bí ẩn đối với tôi, như bản thân mảnh giấy kia. Sự thôi thúc mạnh tới nỗi tôi đọc hết bức thư mà không một thoáng nghĩ lại.

Tuyết Giáng sinh năm nay mới lạnh làm sao khi không có con. Cả hơi nóng của ngọn lửa cũng chỉ càng làm mẹ nhớ ra rằng mẹ khao khát có con ở bên mình biết bao. Mẹ yêu con. Mẹ yêu con biết nhường nào.

Tôi không hiểu vì sao lá thư khiến tôi sửng sốt, hay thậm chí nó có ý nghĩa gì. Ai là Con yêu dấu ở đây? Đây là nét chữ của Mary sao? Nó được viết ra gần hai mươi năm trước khi chồng bà qua đời. Tôi đặt bức thư trở lại hộp và đóng nắp. Tiếng nhạc không trở lại. Tôi rời khỏi gian áp mái và trở về phòng ngủ, ngẫm nghĩ về nội dung của bức thư. Điều bí ẩn rằng vì sao Chiếc hộp Giáng sinh lại phát ra tiếng nhạc, thậm chí làm thế nào nó chơi nhạc được, suốt đêm đó, vẫn không có lời giải đáp. 

Buổi sáng hôm sau tôi kể lại chuyện này cho một cô vợ chỉ quan tâm chút ít.

“Thế đêm qua em không nghe thấy gì sao? Không nghe thấy tiếng nhạc sao?” Tôi hỏi.

“Không. Anh biết đấy, em là người ngủ khá say mà,” Keri đáp.

Tôi lắc đầu nói, “Điều này thật lạ.”

“Vậy là anh nghe thấy cái hộp phát ra tiếng nhạc. Cái đó thì có gì là lạ?”

“Còn hơn cả lạ nữa,” tôi giải thích. “Những cái hộp nhạc không như thế. Chúng phát ra tiếng nhạc khi ta mở nắp hộp. Còn cái này ngừng chơi khi anh mở nắp nó ra. Và điều lạ nhất là dường như chẳng có máy móc gì gắn với nó cả.”

“Có lẽ đó là vị thiên thần của anh chơi nhạc,” nàng trêu.

“Có thể lắm,” tôi kêu lên kỳ quái. “Có lẽ đây là một trong những kinh nghiệm thần bí kiểu đó.”

“Thế làm sao anh biết được là tiếng nhạc phát ra từ cái hộp đó?” nàng hoài nghi hỏi.

“Chắc chắn.” tôi nói. Tôi nhìn lên và sực tỉnh về giờ giấc. “Chết tiệt, anh sẽ muộn mất, hôm nay lại mở cửa hàng.” Tôi khoác vội cái áo khoác và lao ra cửa.

Keri chặn tôi lại. “Anh không hôn tạm biệt Jenna à?” Nàng hỏi phân vân.

Tôi chạy lại phòng trẻ để hôn Jenna một cái.

Tôi thấy con bé đang ngồi trên một đống giấy cắt vụn, trong tay nó là một cái kéo đầu tròn của trẻ con.

“Bố, bố giúp con cắt mấy thứ này đi?” Nó bảo.

“Bây giờ thì không, con yêu, bố muộn làm rồi.”

Hai khóe miệng nó trễ xuống thất vọng.

Tôi vội vã hứa, “Khi nào bố về vậy.” Con bé ngồi im không nói gì khi tôi hôn lên đầu nó.

“Bố phải đi đây. Gặp lại con tối nay.” Tôi lao ra khỏi phòng, gần như quên khuấy cả bữa trưa Keri đã dọn bên cửa, vượt qua những dãy phố xam xám, lầy lội vì tuyết tan để tới cửa hàng cho thuê lễ phục.

*

*        *

Mỗi ngày qua đi, khi những tia nắng đầu tiên của bình minh trải rộng trên bầu trời mùa đông xanh thắm, người ta lại được thấy Mary nơi phòng khách phía trước, đang thư thái ngồi trong một cái ghế Thổ Nhĩ Kỳ lịch sự bọc đệm thật ấm, hơ chân trước lò sưởi. Trong lòng bà là cuốn Kinh thánh thứ ba. Cuốn mà bà giữ. Cái nghi lễ buổi sáng này đã có từ vài thập kỷ nhưng Mary vẫn có thể nói cho bạn biết nó bắt đầu từ khi nào. Đó là “Buổi đi dạo ban mai cho tinh thần,” - Bà bảo Keri như vậy.

Trong suốt mùa Giáng sinh, bà sẽ đọc thật kỹ càng những truyện về Giáng sinh trong sách Phúc âm, và chính ở nơi đây bà hoan hỉ đón mừng vị khách nhỏ không mời của mình.

“A, chào buổi sáng, Jenna,” Mary nói.

Jenna đứng ở ngưỡng cửa, vẫn mặc chiếc áo ngủ màu đỏ mà hầu như lúc nào đi ngủ con bé cũng mặc. Nó nhìn quanh phòng rồi chạy tới với Mary. Bà ôm nó thật chặt.

“Bà đang đọc gì đấy? Bà đang đọc truyện à?” Jenna hỏi.

“Một câu chuyện Giáng sinh,” Mary đáp. Mắt Jenna sáng lên. Nó trườn vào lòng Mary và tìm kiếm những bức tranh tuần lộc và Ông già Tuyết.

“Các bức tranh đâu cả rồi? Ông già Tuyết đâu ạ?” Nó hỏi.

Mary mỉm cười. “Đây làm một dạng truyện Giáng sinh khác. Đây là câu chuyện Giáng sinh đầu tiên. Về Đức chúa Hài đồng.”

Jenna cũng mỉm cười. Nó biết Chúa Jesus.

“Bà Mary ơi?”

“Gì vậy, cháu yêu?”

“Bố có ở nhà hôm Giáng sinh không?”

“Sao lại không, đương nhiên rồi, cháu ạ,” bà trấn an nó. Bà vuốt tóc trên mặt Jenna ra phía sau và hôn lên trán nó. “Cháu nhớ bố à, phải không?”

“Bố chỉ toàn đi thôi.”

“Bắt đầu việc làm ăn mới thì tốn nhiều thời gian công sức lắm.”

Jenna buồn bã ngẩng lên. “Công việc thì hơn ở nhà ạ?”

“Không, không có nơi nào bằng ở nhà đâu.”

“Thế tại sao Bố lại cứ muốn ở đó chứ không ở nhà?”

Mary dừng lại ngẫm nghĩ. “Bà đoán rằng tại đôi khi mọi người cứ quên mất,” bà đáp và kéo con bé sát lại gần hơn.

*

*        *

Những ngày lễ càng tới gần, công việc càng trở nên bộn bề, và dù có hoan hỉ với món thu nhập này, đêm nào tôi cũng thấy mình trở về nhà muộn màng sau một ngày làm việc triền miên. Khi tôi thường xuyên vắng mặt, Keri có được thói quen ăn tối cùng với Mary ở phòng làm việc nhỏ dưới nhà. Hai người đó còn thiết lập được nghi lễ uống trà bạc hà bên lò sưởi sau bữa tối. Sau đó, Mary sẽ theo Keri vào trong bếp và giúp nàng dọn dẹp đĩa chén, trong khi tôi, nếu lúc này đã về nhà, thì ở lại phòng làm việc nhỏ và hoàn thành nốt sổ sách trong ngày. Tối nay tuyết bên ngoài rơi nhẹ, tương phản với ngọn lửa ấm áp cứ phù phù, lép bép trong lò sưởi. Jenna đã được đưa vào giường, và trong khi Keri dọn bàn, tôi ngồi nán lại, đắm mình trong một cuốn catalogue những mẫu khăn thắt lưng và cà vạt đi kèm. Tối nay Mary cũng nán lại. Bà vẫn ngồi trong cái ghế cổ mà bà luôn ngồi để dùng trà. Mặc dù cũng thường xuyên theo Keri vào bếp, đôi khi uống trà xong, bà có thể lặng lẽ gà gật trong cái ghế bành của mình cho tới khi chúng tôi đánh thức bà dậy, đỡ bà vào phòng ngủ.

Mary đặt chén trà xuống, vươn người đứng dậy, đi tới chỗ cái giá sách bằng gỗ anh đào. Bà rút một cuốn sách từ trên giá cao xuống, khẽ phủi bụi và đưa cho tôi.

“Một câu chuyện Giáng sinh dễ thương đấy. Anh hãy đọc cho con bé nghe đi.”

Tôi đỡ cuốn sách trên cánh tay bà giơ ra và xem tên sách, Mỗi ngày Giáng sinh của William Dean Howells.

“Cảm ơn bà, Mary. Tôi sẽ đọc,” tôi mỉm cười, để cuốn sách xuống và trở lại với tập catalogue của tôi.

Bà vẫn nhìn tôi không dứt.

“Không, ngay bây giờ cơ. Anh hãy đọc cho Jenna bây giờ đi,” bà ngọt ngào nói.

Giọng của bà tha thiết, chỉ run rẩy bởi tuổi tác. Tôi đặt đám giấy má của tôi xuống, lại xem quyển sách, rồi ngó lên gương mặt trầm tĩnh của bà. Mắt bà ngời sáng bởi sự quan trọng của lời yêu cầu đó.

“Được rồi, Mary.”

Tôi đứng dậy khỏi bàn và đi lên phòng Jenna, tự nhủ không biết rồi tôi có xong việc với đám đơn đặt hàng không và cái cuốn sách cũ kỹ này có gì thần kỳ mà phải gấp gáp đến thế. Trên gác Jenna đang lặng lẽ nằm trong bóng tối.

“Con vẫn còn thức à, con yêu?” Tôi hỏi.

“Bố, tối nay bố quên đưa con vào giường đấy.”

Tôi bật đèn lên. “Bố quên à. Thế một câu chuyện thì sao nào?”

Nó nhảy lên trong giường, miệng cười sáng cả căn phòng. “Bố định đọc cho con truyện gì thế?” Con bé hỏi.

“Bà Mary đưa cho bố quyển sách này để đọc cho con.”

“Bà Mary có những câu chuyện hay lắm, bố ạ.”

“Thế thì đây hẳn là một truyện hay,” tôi nói. “Bà Mary có hay đọc cho con nghe không?”

“Ngày nào cũng đọc.”

Tôi ngồi xuống mép giường và mở cuốn sách cũ. Gáy sách giòn khẽ kêu loạt roạt khi tôi mở ra. Tôi hắng giọng và bắt đầu đọc to.

Cô bé bước vào phòng làm việc của cha, là điều mà sáng thứ Bảy nào cô cũng làm trước bữa ăn sáng, và năn nỉ cha đọc cho cô một câu chuyện. Sáng hôm đó cha cô cứ khấn lần mãi, vì ông rất bận, nhưng cô không chịu...

“Giống bố, bố ạ. Bố cũng bận quá đi,” Jenna nhận xét.

Tôi toét miệng với nó, “Phải, bố cũng thấy vậy.” Tôi tiếp tục đọc.

“Vậy là, có một con lợn nhỏ...” - cô bé đặt tay lên miệng bố ngăn lại. Cô nói cô đã nghe lắm chuyện về lợn đến nỗi cô đã phát chán vì bọn lợn rồi.

“Thế thì bố kể con nghe chuyện gì bây giờ?”

“Chuyện về Giáng sinh. Sắp đến mùa Giáng sinh rồi, giờ đã qua Lễ Tạ ơn.”

“Bố thì thấy là,” bố cô phản bác, “bố đã kể cho con chuyện Giáng sinh cũng nhiều như chuyện về lợn vậy.”

“Không sao! Giáng sinh hay hơn!”

Không như cô bé trong truyện, Jenna lăn ra ngủ trước khi tôi đọc xong câu chuyện.

Đôi môi mềm mại của nó khẽ mỉm cười, và tôi kéo chăn lên tới kín cằm con bé. Sự bình yên tỏa rạng từ khuôn mặt bé nhỏ ấy. Tôi nán lại một lúc, quỳ xuống bên giường hôn lên má nó, rồi đi xuống nhà làm nốt việc.

Tôi trở lại căn phòng nhỏ, thấy đám rèm ngồn ngộn đã được kéo lại cho thẳng, và hai người phụ nữ đang ngồi cùng nhau trong ánh sáng bập bùng, mờ ảo tỏa ra từ lò sưởi, khẽ khàng trò chuyện. Giọng nói êm dịu của Mary điềm đạm vang lên trong phòng. Bà ngẩng lên, nhận thấy tôi bước vào.

“Richard này, vợ anh vừa hỏi tôi một câu vô cùng lý thú. Cô ấy hỏi theo tôi giác quan nào của ta chịu tác động nhiều nhất bởi Giáng sinh?”

Tôi ngồi xuống bên bàn.

“Tôi yêu mọi thứ của mùa này,” bà tiếp tục. “Nhưng tôi nghĩ điều làm tôi yêu nhất ở Giáng sinh là những âm thanh của nó. Những cái chuông của Ông già Tuyết ở góc phố, các bài ca Giáng sinh quen thuộc trên máy hát, những tiếng hát ngọt ngào, lạc điệu của những người hát mừng Giáng sinh. Và những âm thanh hối hả nơi trung tâm thành phố. Tiếng loạt xoạt của giấy gói quà và túi đựng đồ nơi cửa hàng bách hóa cùng tiếng chúc tụng Giáng sinh của những người lạ. Và rồi là những câu chuyện Giáng sinh. Sự thông thái của Dickens và tất cả những người kể chuyện Giáng sinh.” Bà dừng lại như để nhấn mạnh. “Tôi yêu những thanh âm của mùa này. Ngay cả âm thanh của ngôi nhà già nua này cũng đổi khác khi mùa Giáng sinh đến. Các quý bà thời Victoria này dường như cũng có linh hồn.”

Tôi thành tâm đồng tình với bà nhưng không nói gì.

Bà ngẫm nghĩ về ngôi nhà cổ. “Bây giờ người ta không còn xây nhà như thế này nữa. Anh chị có thấy cái cửa đôi ở lối vào chính không?”

Cả hai chúng tôi gật đầu xác nhận.

“Vào những ngày xa xưa, trước khi người ta phát minh ra điện thoại...” Bà nháy mắt. “Tôi là một bà già rồi,” bà giãi bày, “giờ tôi hồi tưởng lại những ngày đó.”

Chúng tôi mỉm cười.

“... Vào thời đó khi mọi người nhận điện thoại, họ sẽ mở lớp cửa ngoài cùng ra để làm hiệu. Nếu cửa đóng thì có nghĩa họ không có ai gọi. Dường như những cánh cửa ấy luôn mở ra, trong suốt những ngày lễ.” Bà mỉm cười tha thiết. “Bây giờ làm thế thì có vẻ ngốc nghếch. Anh có thể tưởng tượng rằng gian đợi bên ngoài sẽ phải lạnh buốt ra sao.” Bà đưa mắt nhìn tôi. “Tôi lại lạc đề rồi. Hãy nói cho chúng tôi nghe nào, Richard, theo anh những giác quan nào của ta chịu tác động nhiều nhất bởi Giáng sinh?”

Tôi nhìn sang Keri. “Đầu lưỡi”, tôi đùa cợt. Keri trợn mắt.

“Không. Tôi xin rút lại. Tôi sẽ nói đó là khứu giác. Các mùi của Giáng sinh. Không chỉ đồ ăn, mà là tất cả. Tôi nhớ có lần, hồi tôi còn học tiểu học, chúng tôi làm những đồ trang trí cho Giáng sinh bằng cách cắm cả nhánh đinh hương vào một quả cam. Tôi nhớ nó đã cho cái mùi tuyệt diệu ra sao trong suốt mùa Giáng sinh đó. Giờ tôi vẫn như còn ngửi thấy. Rồi mùi của những cây nến thơm, và những bữa tiệc tùng nóng sốt và cacao có kem trong ngày lạnh. Cùng cái mùi hăng hăng của giày da ướt nhoèn sau khi anh tôi và tôi trượt tuyết xong. Mùi của Giáng sinh chính là mùi của tuổi thơ.” Những từ ngữ của tôi lại rơi vào im lặng, khi dường như tất cả chúng tôi đều đang đắm chìm trong cái quầng sáng ngọt ngào của những ký ức Giáng sinh, và Mary chậm rãi gật đầu như thể tôi đã nói được điều gì đúng đắn.

*

*       *

Đó là ngày thứ sáu của tháng Mười hai. Chỉ còn hai tuần rưỡi nữa là đến Giáng sinh. Tôi đã tới chỗ làm và Keri đã chuẩn bị xong mọi thứ cần thiết trong ngày. Nàng xếp đám bát đĩa của bữa sáng vào chậu để ngâm, rồi xuống nhà để chuyện trò và uống trà với Mary. Nàng bước vào căn phòng làm việc nhỏ nơi hàng sáng Mary vẫn đọc sách. Không thấy bà đâu. Trên ghế của bà là cuốn Kinh thánh thứ ba. Cuốn Kinh thánh của Mary. Dù biết đến sự tồn tại của nó, cả tôi và Keri đều chưa ai tận mắt nhìn thấy cuốn Kinh đó. Nó nằm trên cái đệm, trang sách mở rộng tới phần Phúc âm của Thánh John. Keri nhẹ nhàng luồn tay xuống gáy sách và cẩn thận nhấc lên. Cuốn Kinh thánh này cổ hơn hai cuốn kia, chữ in hoa mỹ và duyên dáng hơn. Nàng xem nó kỹ hơn. Mực in đã mờ đi, hoen ố vì độ ẩm. Nàng đặt một ngón tay lên trang sách. Thấy nó ẩm ướt bởi vô số những đốm tròn. Nước mắt. Nàng khẽ khàng giở những trang sách mạ vàng ở mép. Nhiều trang đã ố nhòe vì nước mắt. Những giọt nước mắt của những tháng năm trong quá khứ, trên những trang đã khô từ lâu và nhàu đi. Nhưng trang sách đang mở ra vẫn ướt. Keri đặt cuốn Kinh thánh trở lại ghế và bước ra sảnh. Cái áo len dày của Mary đã biến mất khỏi cây treo quần áo ngoài hành lang. Những cánh cửa phòng chờ khép hờ và dưới chân lớp cửa ngoài, tuyết tan ra ướt nhoèn cả sàn đá hoa lạnh, tiết lộ rằng Mary đã ra khỏi nhà. Sự vắng mặt của bà khiến Keri cảm thấy bất an. Mary hiếm khi rời nhà trước bữa trưa, và khi bà làm vậy, thường là sau khi đã cẩn thận báo trước cho Keri về những ngày du ngoạn đã được lên kế hoạch. Keri trở lên gác. Bốn mươi lăm phút sau, nàng nghe thấy tiếng cửa trước mở. Nàng chạy xuống nhà đón Mary, bà đang đứng trên ngưỡng cửa, ướt sũng và run rẩy vì lạnh.

“Ôi Mary, bà đi đâu vậy?” Keri kêu lên. “Bà lạnh cóng rồi kìa!”

Mary buồn bã ngước nhìn lên. Mắt bà sưng đỏ mọng.

“Tôi sẽ ổn thôi mà,” bà nói, rồi không một lời giải thích, trở về phòng riêng qua dãy hành lang.

Sau bữa trưa bà lại mặc áo choàng để ra ngoài. Keri bắt gặp bà trong sảnh đang chuẩn bị đi. “Tôi lại ra ngoài đây,” bà nói đơn giản. “Có lẽ tôi sẽ về muộn.”

“Lúc nào thì tôi làm bữa tối?” Keri hỏi.

Mary không đáp. Bà nhìn thẳng vào nàng, rồi bước ra làn không khí buốt thịt của mùa đông.

Gần tám rưỡi tối hôm đó Mary mới trở về. Keri càng lúc càng thấy thấy âu lo về cách xử sự lạ lùng của bà và chốc chốc lại ngó ra ngoài ban công ngóng đợi. Tôi vừa đi làm về, được kể sơ qua về tình hình trong ngày, và giống như Keri, cũng đang lo lắng đoán xem lúc nào thì bà về. Nếu lúc trước bà có vẻ bồn chồn, thì giờ lại khá hồ hởi. Bà cứ thế đề nghị dùng bữa tối một mình, sau lại mời chúng tôi cùng uống trà với bà.

“Tôi chắc rằng những hành động của tôi có vẻ hơi lạ lùng,” bà xin lỗi. Bà đặt cái tách xuống bàn. “Hôm nay tôi đến chỗ bác sĩ, vì những cơn đau đầu và chóng mặt mà tôi đang phải chịu đựng.”

Bà ngừng lại một hồi lâu căng thẳng. Tôi có cảm giác bà sắp nói ra một điều gì đáng sợ.

“Bác sĩ nói rằng tôi có một khối u đang phát triển trong não. Nó khá to, và vì vị trí của nó nên người ta không thể phẫu thuật được.” Lúc này Mary nhìn thẳng về phía trước, như thể nhìn xuyên qua chúng tôi. Nhưng những lời của bà bình tĩnh lạ lùng.

“Họ không thể làm gì được. Tôi đã đánh điện cho em tôi ở Luân đôn. Tôi nghĩ hai người cũng cần biết.”

Keri là người đầu tiên tới ôm Mary. Tôi ôm hai người và chúng tôi ôm nhau trong im lặng. Không ai biết phải nói điều gì nữa.

*

*         *

Chối từ, đó có lẽ là một cơ chế cần thiết của con người để đương đầu với những nỗi đau của cuộc đời. Những tuần tiếp theo đã trôi qua bình lặng, không có gì xảy ra. Chúng tôi lại càng dễ buông mình trong sự dối lòng rằng tất cả đều ổn và Mary sẽ mau chóng khỏi bệnh. Tuy nhiên, cũng mau lẹ như thế, những cơn đau đầu của bà trở lại và thực tại lại quất vào mặt chúng tôi một cách hiển nhiên như những cơn gió tháng Chạp buốt giá. Và còn một thay đổi lạ lùng nữa trong cách xử sự của Mary. Càng ngày bà càng có vẻ khó chịu với sự ám ảnh công việc của tôi. Giờ thì bà còn cho mình cái quyền ngắt quãng những nỗ lực của tôi ngày một thường xuyên hơn. Một buổi tối, bà hỏi câu này:

“Richard này, có bao giờ anh tự hỏi món quà Giáng sinh đầu tiên là gì không?”

Câu hỏi của bà cắt ngang sự mải mê tính toán món lãi hàng tuần của tôi. Tôi ngẩng lên.

“À không, không thể nói rằng tôi đã suy nghĩ cho kỹ về điều đó. Có lẽ là vàng, hương trầm, hay nhựa thơm. Theo thứ tự đó, thì là vàng.”

Tôi cảm thấy bà không hài lòng với câu trả lời của tôi.

“Nếu một lời cầu khẩn Vua James sẽ trả lời được câu hỏi của bà, tôi sẽ làm thế vào ngày Chủ nhật,” tôi nói, hy vọng thế là xong chuyện. Bà vẫn không nhúc nhích.

“Đây không phải một câu hỏi vớ vẩn,” bà nói cả quyết. “Biết được món quà Giáng sinh đầu tiên là gì là một việc quan trọng.”

“Chắc chắn rồi, Mary à, nhưng giờ thì đây mới là việc quan trọng.”

“Không,” bà ngắt lời tôi, “anh không biết bây giờ đâu mới là việc quan trọng.”

Bà đột nhiên quay đi, bước ra khỏi phòng.

Tôi im lặng ngồi một mình, sửng sốt vì câu chuyện vừa xong. Tôi đặt sổ sách kế toán sang một bên và leo lên gác về phòng của chúng tôi. Khi đã chuẩn bị vào giường, tôi hỏi Keri câu mà Mary đã hỏi tôi.

“Món quà Giáng sinh đầu tiên ư?” Nàng hỏi, lơ mơ buồn ngủ. “Câu hỏi này là một cái mẹo gì đó chăng?”

“Không, anh không nghĩ thế. Mary vừa hỏi anh và b c00 à ấy tỏ ra thực sự buồn vì anh đã không biết câu trả lời.”

“Vậy thì em hy vọng bà ấy không hỏi em,” Keri nói rồi lăn sang ngủ.

Tôi tiếp tục nghiền ngẫm câu hỏi về món quà Giáng sinh đầu tiên cho tới khi chìm dần trong giấc ngủ mơ màng. Đêm đó, thiên thần lại ám ảnh những giấc mơ của tôi.

*

*        *

Buổi sáng hôm sau bên bàn ăn sáng, Keri và tôi thảo luận về sự va chạm hôm trước.

“Anh nghĩ rằng bệnh ung thư cuối cùng cũng ảnh hưởng đến bà ấy,” tôi nói.

“Như thế nào?” Keri hỏi.

“Đầu óc bà ấy. Bà ấy bắt đầu mất trí.”

“Bà không mất trí,” nàng quả quyết. “Bà còn tinh tường như anh và em vậy.”

“Chắc chắn là không rồi,” tôi khăng khăng.

“Em ở với Mary cả ngày, em phải biết chứ.”

“Thế sao bà ấy lại xử sự như thế? Hỏi những câu quái dị như thế?”

“Em nghĩ bà đang cố gắng chia sẻ với anh điều gì, Rick ạ. Em không biết đó là gì, nhưng phải có điều gì đó.” Keri đi về phía chạn và bưng một hũ mật ong ra bàn. “Mary là một người nồng hậu, và cởi mở nhất mà em từng biết, ngoại trừ ...” Nàng dừng lại. “Anh có bao giờ có cảm tưởng bà vẫn đang giấu một điều gì đó không?”

“Điều gì?”

“Một điều gì bi thảm. Vô cùng bi thảm. Một điều gì có ý nghĩa quyết định đối với anh, mãi mãi làm thay đổi đời anh.”

“Anh không hiểu em đang nói gì vậy,” tôi nói.

Đột nhiên mắt Keri rơm rớm. “Em cũng không rõ. Nhưng có điều gì đó. Anh đã bao giờ trông thấy cuốn Kinh thánh mà bà ấy vẫn để trong phòng làm việc nhỏ chưa?”

Tôi lắc đầu. “Những trang sách hoen mờ vì nước mắt.” Nàng quay đi để trấn tĩnh. “Em thì nghĩ rằng có một lý do cho việc chúng ta lại ở đây. Có điều gì đó mà bà đang muốn nói cùng anh, Rick. Chỉ có điều anh đã không lắng nghe.”

Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/26289


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận