Phần 3 Tôi liên tục sáng tạo ra các món mới, đến nỗi ngay cả một kẻ hoàn toàn thờ ơ và dễ dãi với việc ăn uống như Nakajima cuối cùng cũng phải thốt lên: món giăm bông như vậy có lẽ là đủ rồi!
Tiếp theo là quãng thời gian vui vẻ khi đi mua màu nước cùng cậu đàn em nhờ tôi phụ giúp việc vẽ tranh tường, hay khi sắp xếp, chuẩn bị cọ vẽ, hoặc lúc chúi mũi xuống bàn để đựng phác thảo.
Lúc cắm cúi vào phác thảo, tôi thấy vui như đang làm thiết kế cho một mô hình thu nhỏ. Tôi sẽ không chép y nguyên phác thảo đó lên tường, nó chỉ là bức vẽ nháp cho dễ hình dung, tuy nhiên việc vẽ mọi thứ ở kích thước nhỏ cũng đem đến cho tôi một niềm vui riêng. Một niềm vui giống như chơi đồ hàng hồi bé. Các chi tiết nhỏ mà người cũng nhỏ. Song ở trong đầu, tất cả đã được chuyển sang kích thước thật.
Bức tường dùng để vẽ tranh thấp và chạy dài, nên tôi định sẽ vẽ những chú khỉ ồn ào tiếp nối nhau thành một dòng chảy, nhưng lại chưa nghĩ ra được một ý tưởng cụ thể tuyệt vời hay phù hợp nhất cho địa điểm đó. Chính tôi cũng cảm thấy ngạc nhiên vì sự nghèo nàn trong sáng tạo của mình và đắn đo không biết có nên tham khảo ý kiến bọn trẻ trước hay cứ đợi tới nơi rồi hẵng tính. Dù không phải là hoàn toàn, nhưng tôi đang bế tắc về ý tưởng.
Nếu chỉ vẽ những thứ giống như dân không chuyên thì thà để cho người của tòa thị chính thành phố vẽ còn nhanh hơn. Tôi cần một ý tưởng mang tính cá nhân và khác biệt. Ý tưởng đó là gì? Tôi từng có kỉ niệm gì với lũ khỉ? Lần cuối cùng tôi nhìn thấy khỉ là khi nào? Liệu có cần phải tới vườn thú để tìm hiểu về chúng hay không? Giữa lúc bối rối như vậy, một chuyến đi xa để thay đổi tâm trạng thật vừa khéo.
“Đồng ý, vậy thì chúng mình sẽ làm một chuyến pích ních?” Tôi trả lời mà mắt thì nhìn tạp chí.
Nhưng khi bất giác ngẩng lên, nhận ra sắc mặt Nakajima, tâm trạng ngọt ngào của tôi tắt ngấm. Sắc mặt hắn nói rằng đó chẳng phải là chuyện chơi.
Để tôi kể thêm khi đó hai chúng tôi đang làm gì. Buổi sáng, trong bối cảnh mối quan hệ của chúng tôi hoàn toàn không có tiến triển gì hơn, tôi thức giấc, làm món ốp lết bằng một quả trứng duy nhất (tất nhiên có cả giăm bông) và chia đôi, trong khi tôi đang sơn móng chân ở một tư thế không lấy gì làm dễ coi thì Nakajima chú mục vào chiếc PowerBook viết báo cáo. Và đúng lúc tôi định đi pha trà vì thấy Nakajima buông tiếng thở dài thì hắn đưa ra đề nghị đó với tôi.
Đúng như Sayuri nói, hắn đang theo học ở quận bên trong một trường mà chỉ những kẻ xuất sắc mới có thể vào được, chứ không phải thứ đại học nghệ thuật làng nhàng như của tôi và Sayuri.
Tất nhiên tôi từng hỏi hắn:
“Làm thế nào để học giỏi như cậu? Có phải từ nhỏ cậu đã thích học rồi không?”
Thoạt tiên hắn nghĩ rất lung, rồi trả lời tôi:
“Chợt có một ngày, tớ bỗng nhiên thích học để lấy lại cái gì đó.”
“Sau khi mẹ cậu mất?” Tôi hỏi.
“Đúng thế. Bố mẹ tớ bắt đầu lục đục từ khi tớ vắng mặt, đến một hồi thì ở riêng, rồi cuối cùng ly hôn. Vì thế mà hoàn cảnh của tớ có phần giống với Chihiro. Đến giờ, tớ vẫn phải xin tiền sinh hoạt và học phí, thỉnh thoảng tớ cũng có gặp bố, nhưng thôi, chưa nhắc đến chuyện đó vội, hồi mẹ mất tớ đã vào cấp ba rồi, tớ quyết định không sống cùng bố nữa… thì cậu bảo từ ngày ly hôn, bố tớ toàn sống ở quê, chỗ tỉnh Gunma. Tớ chả muốn bỗng nhiên phải chuyển nhà. Vả lại, bố tớ thì đã đi bước nữa và có con riêng. Thành ra tớ quyết định sống một mình, nhưng không thiếu tiền đến mức phải đâm đầu đi làm thêm, cũng chẳng có duyên với sự xa xỉ nên bỗng dưng cực kỳ rảnh rỗi. Vì thế tớ đã suy nghĩ rất nhiều. Tớ muốn sống một cuộc đời không quá sa đà vào trần thế, chỉ dừng lại ở mức tối thiểu, được làm những gì là của mình và cố gắng làm một vài điều nho nhỏ có ích cho người khác. Và thế là, sau khi tìm hiểu rất nhiều, tớ quyết định nghiên cứu về gien.”
“Tớ không hiểu tại sao cậu lại chọn một ngành khó như vậy, có người nào đó thân thiết với cậu làm nghiên cứu trong lĩnh vực này đúng không?” Tôi hỏi.
Nakajima lại trả lời bằng cái cách lúng búng trong miệng:
“Ừm, trong thời gian xa cách bố mẹ, có một người lớn duy nhất mà tớ kết thân vốn học ngành di truyền, rất nhiều câu chuyện tớ nghe được từ người này đã khiến tớ có ý nghĩ biết đâu học ngành này sẽ thú vị.”
“Sau khi mẹ mất, chỉ còn lại một mình, buồn bã rảnh rỗi nên tớ cắm đầu vào học điên cuồng. Tất nhiên, tớ chỉ đặt duy nhất một mục tiêu là thi đỗ, hơn nữa do ngại giao tiếp với mọi người nên tớ đã quyết định tự học chứ không đến lớp luyện thi.”
Sau đó hắn cặn kẽ, tỉ mỉ giải thích cho tôi phương pháp tự học của mình.
Tôi tự hỏi: “Trong thời gian xa cách bố mẹ nghĩa là thế nào?”, nhưng chỉ im lặng nghe hắn giải thích.
Hắn nói có thể tách rời đầu óc khỏi thân xác để tập trung. Nhưng cũng thêm vào rằng, việc đó đối với hắn tuy không khó, nhưng rồi hắn nhận ra là sẽ rất nguy hiểm nếu làm thế trong thế giới thực.
Cách kể của Nakajima càng bình thản bao nhiêu, câu chuyện của hắn càng trở nên kỳ vĩ bấy nhiêu.
Trong thời gian từ khi bắt tay vào học cho tới lúc thi đậu vào ngôi trường mục tiêu, hắn đã giảm mất hai mươi ki lô cân nặng. Hắn cũng kể rằng, sau đó hắn chẳng ăn được gì nên đã ngã gục trên đường, rồi đến bệnh viện, nhờ được truyền dinh dưỡng mà sống sót cho đến ngày nay.
“Muốn trở thành bác sĩ mà cậu lại để mình như thế sao?”
Hắn cười như nắc nẻ khi tôi hỏi vậy. Hắn bảo hiện hắn đang học tại Bộ môn Nghiên cứu Y học nằm trong Khoa Y học, tức là sau đại học, nhưng đó không phải nơi người ta học để trở thành bác sĩ mà để trở thành nhà nghiên cứu.
Hắn nói, việc học không thể nào dừng lại được nên hắn thử tách đầu óc mình ra khỏi thân xác, không ngờ kết quả học tập càng ngày càng tiến bộ đến nỗi khiến hắn say mê và suýt chút nữa thì đánh mất thân xác.
“Nhờ thế mà tớ thấm thía một điều là thân xác bao giờ cũng phản ứng chậm hơn đôi chút so với thời điểm não đưa ra chỉ thị.” Nakajima nói.
“Chậm như thế nào?”
“Ban đầu, khi ra mệnh lệnh ám thị, mọi việc khá đơn giản, tớ thiết lập sao cho chức năng cơ thể được đưa về mức thấp nhất và chuyển phần năng lượng đó lên não. Mọi việc thuận lợi khiến tớ có lẽ đã tự tin thái quá. Nhưng, biết giải thích thế nào nhỉ, dần dà có cái gì đó giống như gia tốc đã giành mất quyền kiểm soát, đến nỗi mặc dù tớ đã ra lệnh dừng lại để hấp thu dinh dưỡng và cử động chân tay song mọi thứ chỉ có thể dừng lại một cách từ từ theo quán tính giống như chiếc đu quay vậy. Ngay từ đầu tớ đã không tính tới độ trễ ấy nên gần như bỏ mặc cơ thể mình và chỉ chút nữa là không kịp. Bởi vậy mà tớ suýt chết.”
“Nakajima này, tớ biết cậu làm được điều đó, nhưng nên dừng lại đi. Cơ thể sẽ quá tải đấy. Hậu quả sau này đâu có nhỏ, phải không?” Tôi nói.
“Ừ, biết thế nên tớ không còn học bằng cách ấy nữa. Bây giờ thì chỉ năng nhặt chặt bị thôi.” Nakajima cười.
Ghê thật đấy, chỉ năng nhặt chặt bị mà lên được cao học, không ai hướng dẫn mà tự viết luận văn, tra cứu số liệu, đọc các sách vở có liên quan, đúng là một kẻ có khiếu học hành. Tôi chỉ còn biết khâm phục.
“Cắm đầu cắm cổ vào học, bỗng một ngày tớ nhận ra rằng: với đà này, chắc chắn mình có thể học hết chương trình tiến sĩ, và nếu cứ chuyên cần viết luận văn thì sẽ lấy được bằng tiến sĩ. Tớ nghĩ, nếu được thế mình sẽ tìm một công việc ở Nhật Bản, biết đâu có thể đầu quân cho một viện nghiên cứu nào đó đáp ứng được điều kiện. Thế nhưng cứ ở mãi Nhật Bản và sống tiếp như hiện nay, tớ chẳng thấy có gì tốt đẹp phía trước, nên tớ đang hơi đắn đo. Tớ dần cảm thấy cần phải đi ra ngoài. Ngày xưa vì phải vật lộn để sống nên tớ chẳng có thời giờ suy nghĩ về điều này.” Nakajima bình thản nói.
“Về điều ấy thì tớ không rõ, nhưng một khi đã làm được việc kia thì cái gì mà Nakajima chả làm được. Bất cứ cái gì. Nếu cậu có ý định.” Tôi nói.
Đi ra ngoài tức là đi ra nước ngoài, phải chăng có nghĩa là hai chúng tôi sẽ chia tay nhau? Tôi thầm nghĩ.
Chẳng hóa ra, đối với Nakajima, nhà tôi chỉ là chốn nương thân tạm cho tới khi thoát khỏi Nhật Bản thôi sao…
Tuy nhiên, tôi cảm thấy đó chưa phải là chuyện để bàn vào lúc này.
Mặc dù nói muốn đi gặp bạn nhưng vẻ mặt Nakajima thì trái ngược hẳn, trông quá u buồn, nên tôi mới hỏi:
“Cậu nhất định phải gặp người bạn ấy bây giờ sao?”
Nakajima đáp:
“Không phải vậy, mà tớ nghĩ, nếu là bây giờ thì tớ có thể gặp được.”
“Ý cậu là, nếu có tớ đi cùng?”
“Phải… Nếu có một người tính tình vui tươi như cậu đi cùng.”
“Nhưng mà tớ cũng chẳng vui tươi được như cậu nghĩ đâu. Có lẽ vậy.”
Không phải tôi bực mình, mà là tôi thấy có lỗi với hắn.
Rất có thể Nakajima chỉ đang phóng đại quá mức nét tính cách dứt khoát, điềm nhiên tôi thể hiện khi sống cùng với hắn, hoặc vẻ bề ngoài vui tươi tôi thừa hưởng từ mẹ mà thôi. Nếu vậy, và nếu sau này hắn phát hiện ra mặt tối tăm, u ám ở tôi thì người cảm thấy bị phản bội nặng nề chính là hắn.
“Tớ biết. Vì vậy mà dù cố gắng thế nào tớ cũng không diễn đạt được điều mình muốn nói, nhưng tớ cho như thế là vừa đủ. Cách nói này làm cậu khó chịu, nhưng tớ cho liều lượng như thế là lý tưởng.”
Có lẽ tôi đã hiểu ra điều hắn muốn nói.
Nếu dùng cách nói khác, người như Nakajima chắc chắn có thể biểu đạt được chính xác câu chuyện vắt kiệt thân xác cho học hành của hắn, về sự phân bố cảm xúc trong tính cách của tôi. Nhưng có lẽ vì hắn phải hạ thấp mức độ cho phù hợp với tôi, thành ra mọi sự diễn đạt mới trở nên mơ hồ.
Tuy vậy, tôi nghĩ rằng cứ để Nakajima nói ra điều gì đó vào lúc này sẽ tốt cho hắn nên quyết định tiếp tục lắng nghe và cố làm ra vẻ chưa hiểu.
“Bởi lẽ, điều Chihiro coi trọng nhất là tình yêu, phải không nào? Mặc dầu vậy, nhưng cậu không hề có ý định kiểm soát người khác.” Nakajima nói.
“Cũng chưa chắc đã coi trọng đến thế.” Tôi đáp.
“Nhưng cậu luôn rất quý trọng người mẹ đã mất của mình đúng không? Tất nhiên, tớ nghĩ những chuyện vướng bận trong lòng thì gia đình nào mà chả có, song, như một lẽ hết sức bình thường, tình yêu và sự thù ghét là ngang nhau, cậu đồng ý không nào? Bất chấp ước lượng của cậu cho kết quả nào lớn hơn.”
“Đúng, điều đó thì đúng.”
“Cậu cũng đâu có ghét bố phải không?”
“Ừ, tớ không ghét. Mà ngược lại, tớ nghĩ mình thương ông. Tớ có cảm giác, bù đắp lại những thiếu hụt về địa vị pháp lý, tớ được ở trong một môi trường dễ dàng bày tỏ tình yêu hơn so với các gia đình thông thường khác. Bởi không có khuôn khổ nào ràng buộc, nên mỗi người trong gia đình tớ đều đã nỗ lực bày tỏ theo cách riêng của mình.”
“Đúng vậy, chính cái đặc điểm ‘không cho rằng gia đình là một cái gì đó đương nhiên’ của cậu khiến tớ thấy an tâm. Cậu nhìn mọi người đúng như bản chất của họ, cậu cũng không đòi hỏi tớ phải thế này hay thế kia, mà nhìn tớ bằng con mắt bình thường, phải không nào?” Nakajima điềm tĩnh nói.
“Tớ thích điều này ở cậu. Tớ rất nhạy cảm, tới mức bệnh hoạn, với bạo lực nên cảm nhận được ngay. Trong khi hầu hết mọi người thường gây ra những bạo hành nho nhỏ với người khác, mặc dù không định thế. Chihiro thì rất ít khi như vậy.”
“Còn Nakajima thì sao?” Tôi hỏi.
“Giờ tớ mới nói thật, trước khi mẹ mất, lúc nào tớ cũng cảm thấy nặng nề. Mẹ chẳng nghĩ đến ai khác ngoài tớ, vì thế bố mới phát chán mà bỏ đi.” Nakajima nói. “Nặng nề lắm, nhưng dạo phải sống xa nhà một thời gian dài vì nhiều chuyện, tớ luôn thấy nhớ mẹ, ấy vậy mà khi về sống cùng thì lại luôn thấy nhớ mẹ, ấy vậy mà khi về sống cùng thì lại luôn bị tình yêu của mẹ, người đẻ ra tớ, đèn nén… chẳng hạn, tớ chỉ đi ra ngoài một chút là nhất định mẹ sẽ hỏi bao giờ về, nếu về trễ một tẹo thôi, mẹ tớ sẽ vừa khóc vừa đợi. Kiểu người như thế đấy.”
“Hơn nữa, tớ sống trong trạng thái bình thường chưa được bao lâu thì mẹ mất, khiến lòng tớ càng lúc càng rối loạn. Khía cạnh lý tưởng, cùng với áp lực gây ra bởi một thứ giống như sự đắm đuối phụ nữ đều hằn sâu trong lòng tớ dưới lớp vỏ là hình tượng của người mẹ.”
“Tuy nhiên, khía cạnh lý tưởng thì thật là vĩ đại, tới nỗi cảm thấy mình như bị nuốt chửng và quá nhỏ bé, khiến tớ nghĩ nếu không có mẹ thì tớ đã không ở đây lúc này. Tớ nghĩ suốt cuộc đời này, mình không thể bày tỏ hết nỗi niềm biết ơn với mẹ, kể cả nếu bà vẫn đang còn sống.”
“Mẹ con tớ từng có một giai đoạn tồi tệ. Cũng từng có giai đoạn lạc lối vào một mê cung vô phương hóa giải, giống như đôi trai gái yêu nhau vậy. Dạo ấy, cả hai đều phải thường xuyên đến bệnh viện, tinh thần kiệt quệ, nên mẹ con tớ, theo gợi ý của bác sĩ, đã tới sống ít lâu ở ngôi nhà nhỏ của một người họ hàng. Hai mẹ con lặng lẽ sống suốt một thời gian dài trong ngôi nhà trống tênh và cũ nát ở vùng thôn dã ấy. Mùa hè thì mát nhưng mùa đông lạnh không tưởng nổi, tớ lúc nào cũng gần như chết cóng. Tuy vậy, phong cảnh rất đẹp, lúc nào cũng trông thấy hồ, có nét gì đó vừa buồn vừa đẹp.”
“Hiện giờ, người bạn trong câu chuyện tớ kể lúc nãy đang sống ở đấy, nên tớ muốn tới thăm, nhưng cứ mỗi lần định đi là những kỉ niệm cũ lại hiện về làm tớ vã mồ hôi lạnh như thế này. Mấy năm gần đây, đã vài lần định đi nhưng lại lấy nê chuyện này chuyện nọ, xong rồi thôi. Tớ không rõ cái gì khiến mình sợ hãi: kỉ niệm với mẹ hay ký ức với người bạn.”
“Nếu nó gợi lại những điều nặng nề thì đi làm gì chứ?” Tôi nói. “Đi vào khi mình có thể đi được, lúc mà mình tự nhiên muốn đi, như thế cũng được chứ sao?”
Nghe thế, Nakajima bỗng tỏ ra buồn bã.
“Nhưng như thế tớ sẽ không gặp được người bạn ấy. Sẽ không bao giờ gặp được.”
“Lần gặp gần nhất là bao giờ?” Tôi hỏi.
“Lần cuối tớ đi cùng với mẹ, khi ấy bà vẫn còn sống… nên chắc là cách đây khoảng mười năm. Có thể xa xưa hơn cũng nên. Thỉnh thoảng tớ cũng thử gọi điện thoại, nhưng mà…” Nakajima trả lời.
“Nhưng cậu muốn gặp trực tiếp chứ gì?”
“Tớ muốn gặp trực tiếp. Đó là những người tớ muốn gặp nhất trên đời này. Tớ không thể ngăn mình muốn gặp họ. Nó thường trực trong tớ. Gần đây, kể từ khi sống cùng Chihiro, tớ càng muốn gặp, tới mức không thể kìm lòng được nữa.” Nakajima nói.
“Cậu nói họ, có nghĩa là nhiều người?” Tôi hỏi lại.
“Ừ, hai người sống ở đó đều là những người bạn cũ, một người anh trai và một cô em gái.” Nakajima đáp.
Tôi không biết Nakajima định đưa mình tới đâu, song tôi rất tin tưởng ở hắn. Tin đến từng thớ thịt. Hàng ngày, khi nhìn thấy nhau, nếu trong hắn có điều mâu thuẫn dù chỉ thoáng qua, tôi sẽ lập tức nhận ra. Dù tâm hồn Nakajima có những gai góc, nhưng trong mắt tôi hắn luôn thành thật.
“Được, vậy thì đi nhé. Có xa không?”
“Phải chuyển qua tàu điện, chắc mất chừng ba tiếng.”
“Tốn nhiều tiền không?”
“Tớ mời cậu đi nên sẽ chi tiền.”
“Không cần đâu, tớ cũng thích đi mà.”
“Tớ sẽ chịu toàn bộ chi phí đi lại.”
“Thôi nào, hiện tớ đang khá dư dật đấy. Lại vừa có công việc mới.” Tôi cười.
“Tại sao cậu có gan đi cùng tớ tới một nơi chưa biết?” Nakajima hỏi với vẻ ngạc nhiên. “Nếu là tớ, thì tớ chịu.”
“Thì bởi đó là nơi mà Nakajima rất muốn đi mặc dù chẳng dễ dàng gì với cậu, không phải vậy sao?” Tôi đáp. “Tất nhiên tớ sẽ đi cùng, nếu không ai khác ngoài tớ có thể đi cùng. Vì bây giờ ngày nào cậu cũng ở nhà tớ. Và vì ngày nào tớ cũng gặp cậu, nhất là việc gặp cậu xuất phát từ ý muốn của tớ.”
Nếu tôi thực sự đang yêu thì chắc đã không thể nói được những lời như thế. Hoặc tôi sẽ cố tình trêu ngươi để cho hắn phải sốt ruột, hoặc sẽ không thể diễn đạt sao cho rành mạch. Trong lời lẽ của tôi lúc này chỉ có sự quý mến. Nói cụ thể hơn, mà điều này thì tôi chưa hiểu rõ lý do, tôi sợ phải làm hắn bị tổn thương hơn nhiều lần so với việc làm tổn thương bất kỳ người bình thường nào khác. Chỉ nghĩ tới điều đó thôi tôi đã rùng mình và cảm thấy như bị một tảng đá nặng đè lên ngực.
“Cảm ơn cậu.” Nakajima khẽ nói.
Hôm sau, chúng tôi lên tàu điện hướng về phía Bắc.
Sau khi xuống tàu ở một ga nhỏ, chúng tôi đi bộ ròng rã trong tiết trời còn se lạnh nhưng cũng chỉ ở mức khiến da mặt tê tê.
Thỉnh thoảng, ánh nắng lạnh lẽo lại lọt xuống qua kẽ mây.
Nhiều cây cối cuối cùng cũng bắt đầu nảy lộc. Những nụ mầm đang dần trở nên căng mập, ở bất cứ một cành cây xám xịt nào cũng lác đác những sự mập mạp đầy nhục cảm như thế thở phập phồng. Không khí trong lành khiến tôi cảm thấy người sảng khoái. Sự huyên náo trước nhà ga của một thị trấn thôn quê nhanh chóng tắt ngúm, chỉ có hai người bước đi qua những góc phố quê rất đỗi bình thường. Vẫn còn tuyết trên những ngọn núi xa. Sự phối màu khô khan giữa những vệt trắng loang lổ và đám cây cối màu nâu thoai thoải tiếp nối nhau dưới bầu trời xanh ngắt.
Cuối cùng chúng tôi cũng tới được một hồ nước không lớn lắm.
Vì là ngày thường nên chẳng có một ai. Hồ nước im ắng, ngay cả âm thanh cũng như bị hút vào đó. Mặt hồ như gương, gió thổi tới làm gợn lên những con sóng li ti. Chỉ có tiếng chim đang vọng tới lúc trầm lúc bổng.
“Cạnh ngôi đền đằng kia.” Nakajima chỉ tay. “Là nơi bạn tớ đang sống.”
Tôi nhìn thấy một cái cổng torii nhỏ màu đỏ ở bờ hồ bên kia.
Ngẩng lên, tôi thấy Nakajima đang mồ hôi ròng ròng nhưng mặt thì trắng bệch.
“Nakajima, cậu không sao chứ?” Tôi cầm lấy tay hắn.
“Không sao, thời khắc này là khó khăn nhất. Nhưng khi gặp rồi thì sẽ không sao.”
Bàn tay Nakajima lạnh đến phát sợ.
Tôi tự hỏi: rốt cuộc, thể xác và tâm hồn hắn đã phải hứng chịu những điều gì?
Tự nhiên hai chữ đáng thương hiện lên trong đầu tôi. Biết nói sao khác được. Mặc dù hiểu rằng thương hại chẳng có ý nghĩa gì, nhưng tôi thấy hắn tội nghiệp vô cùng. Hình ảnh một Nakajima nhỏ bé vừa sống xa gia đình vừa gắng gượng gây dựng con người mình mới đáng thương làm sao.
Ngay cả tôi cũng nhận thấy trong hắn đang diễn ra một cuộc giằng co dữ dội.
Đối với tôi, trước mắt là phong cảnh bờ hồ đầu xuân khoan khoái, là một cuộc dạo chơi thong dong, còn hắn thì không thấy thế, hắn khổ sở như ở dưới địa ngục, tựa như mỗi bước đi lại kéo lê theo xiềng xích.
“Nakajima này, dừng lại chút đã.” Tôi bảo.
“… Ừ.”
Nakajima đứng lại, vẻ bồn chồn không yên, người toát đầy mồ hôi.
“Ngồi xuống một lúc.” Tôi bảo.
Nakajima tỏ vẻ khó chịu vì dường như hắn muốn kết thúc giây phút này càng nhanh càng tốt. Hắn chỉ chực xô ngã tôi để lao về phía trước. Tôi biết rõ điều đó. Cảm giác kháng cự truyền sang tôi một cách mãnh liệt. Nhưng rồi vì tôi, hắn miễn cưỡng ngồi xuống.
Chỉ ở giai đoạn đầu của tình yêu người ta mới chịu đựng điều mình không thích vì người kia. Tới khi cả hai biết rõ điều mình không thích thì tự nhiên họ sẽ không còn làm thế nữa. Tôi biết điều đó, nên tự nhủ đây chính là lúc mình có thể yêu cầu hắn làm vậy.
Tất nhiên, đó chẳng qua là lý lẽ thêm vào, xét cho cùng thì tôi vẫn luôn là kiểu người hành động rồi mới suy nghĩ.
Tôi ngồi xuống cùng Nakajima, ôm chặt lấy hắn. Im lặng, một lúc lâu. Tiếng thở của Nakajima phập phồng chỗ cổ tôi. Tóc Nakajima có mùi bụi. Bầu trời xa tít, đẹp tới mức khiến tôi tự hỏi: tại sao chỉ tâm hồn con người là không có tự do? Cơn gió băng qua hồ nước lạnh giá, pha lẫn hơi hướm của mùa xuân dịu ngọt.
Tôi giữ yên như thế một lúc lâu cho tới khi hơi thở và mồ hôi của Nakajima lắng xuống.
Tư thế của chúng tôi chắc chắn mang một vẻ gì đó quẫn bách, chứ gợi cảm thì không. Hoàn toàn không có chỗ cho điều ấy lúc này. Tôi ôm hắn trong lòng mà cảm thấy chúng tôi như hai kẻ đang níu chặt lấy nhau trên bờ miệng vực.
“Sớm hay muộn, chắc chắn hắn sẽ biến mất.”
Vào giây phút ấy, tôi tin chắc là như thế. Hắn muốn buông xuôi cho nhẹ lòng trước sự lôi kéo, giành giật từ phía bên kia. Bằng cảm giác của cơ thể, và từ sâu thẳm linh hồn mình, tôi biết rằng tình yêu dù mạnh mẽ đến đâu, thế giới này dù đẹp đẽ nhường nào cũng không thể gánh đỡ nổi sức nặng của mong muốn ấy trong lòng hắn.
“Nhưng ký ức này sẽ không biến mất.”
Tôi tự nhủ. Nếu ngay cả điều đó cũng không còn nữa thì hắn sinh ra trên đời này vì cái gì? Tôi nhòa lệ.
“Cảm ơn cậu, tớ ổn rồi.”
Rõ ràng là hắn chưa ổn, vậy mà vẫn cố nói thế với tôi, bằng một giọng khản đặc.
Sau đó hắn siết chặt tay tôi rồi lạnh lùng hẩy ra.
Đi thêm một lát, tôi chợt thấy xây xẩm mặt mày. Phải chăng ban nãy khi ôm ghì lấy Nakajima, vì dồn nhiều sức quá nên mình bị thiếu máu? Tôi cảm thấy hơi tức thở, cứ như vừa lây sự khó ở của Nakajima.
“Tớ xin lỗi. Chẳng hiểu sao chưa bao giờ làm tốt được việc đến gặp họ, thế nào rồi đầu óc cũng phải suy nghĩ đủ thứ chuyện.” Nakajima nhìn tôi vẻ thăm dò rồi cất tiếng.
“Chuyện đương nhiên thôi mà.” Tôi nói. “Nakajima hay nói ‘không thể làm tốt một việc gì đó’, nhưng cậu đừng nói như thế nữa được không? Tớ không muốn nghe cậu nói thế. Mỗi lần nghe cậu nói thế, tớ lại thấy tai mình đau nhói.”
“Ừ, tại tớ quen miệng. Vì tớ từng ở trong một hoàn cảnh mà nếu không làm tốt thì chỉ còn nước chết.”
“Thật vậy ư…?”
Những người chúng tôi sẽ gặp trong ít phút nữa hẳn đang nắm giữ bí mật đó, tôi nghĩ. Và khi nói về họ, biết đâu hắn sẽ kể với tôi về quá khứ của mình. Tôi mong chờ điều đó. Quả tình là tôi muốn biết. Khi đã yêu, người ta sẽ muốn biết. Tôi cũng muốn biết cả những việc mà hắn nói hắn không thể làm tốt.
Hồ nước mờ ảo vì hơi sương. Không biết tự bao giờ, một màn sương mỏng đã che kín tầm mắt. Hồ nước phía sau màn sương mỏng nom đùng đục như màu sữa loãng, tựa như ở bên kia một tấm rèm cửa bằng ren.
Chúng tôi tiếp tục đi. Lối đi nhỏ lờ mờ khuất sau màn sương, hai chúng tôi đang gõ bước trên con đường không trông thấy phía trước. Tôi có cảm giác, như mình đã bước đi trên con đường này từ xa xưa. Những vầng sáng nhỏ thảy đều nhòe đi thành những đốm hình tròn.
“A, kia rồi.” Nakajima thốt lên.
Sau chiếc cổng torii màu đỏ là bậc thang bằng đá, phía trên đó hình như là một ngôi đền. Từ những bậc cấp kia hắn có thể trông thấy mặt hồ. Đưa mắt nhìn kỹ về cuối con đường ngang rẽ vào từ chỗ cổng torii, tôi thấy một ngôi nhà. Ngôi nhà hốt nhiên hiện ra mờ ảo trong hơi sương ấy được làm bằng gỗ, đã cũ nát, khiến tôi tự hỏi: có thật là điện đã được kéo đến đây không?
Trên bậc thang dẫn lên hiên trước, các khe hở được vá tạm bằng ván. Ô kính vỡ trên cửa sổ cũng được bịt lại bằng ni lông. Bên trong hơi tối.
Nhưng nếu quan sát kỹ sẽ thấy những miếng ván và ni lông được ghép và bịt một cách rất cẩn thận, đơn giản, thực dụng. Mặc dù đã cũ nhưng hoàn toàn không có cảm giác nhếch nhác hay hoang phế. Trong đầu tôi chợt hiện lên hai chữ “thanh bần”.
Dấu hiệu cho thấy bên trong vẫn có người ở toát ra từ những chậu cây cảnh được đặt nằm lặng lẽ, và cũng cũ kỹ, cùng những thanh nan hoa sáng loáng của chiếc xe đạp thùng giỏ.
“Xin chào.” Nakajima gọi to.
Một lát sau, từ trong ngôi nhà cũng tĩnh lặng tựa hồ nước, đến mức tôi phải nghi hoặc tự hỏi không hiểu có người ở thật hay không, nhác thấy bóng người đi ra.
Đó là một người trưởng thành, đúng vậy, chừng ba mươi lăm tuổi, nhưng chỉ lớn bằng một đứa trẻ. Khuôn mặt chẳng hiểu sao cũng nhăn nhúm như một con chó Bun. Thế nhưng đôi mắt thì rất sáng, toàn thân toát lên một vẻ cao quý.
“Trời ơi, Nobu. Có thật không đây?”
Người đó cất tiếng. Trên mình mặc một chiếc áo len đã xổ lông, quần kaki nhàu nhĩ, nhưng cũng giống như chính ngôi nhà, vẫn toát lên một vẻ sạch sẽ. Mái tóc dài được búi gọn ra sau, thân hình lùn m 330d p nhưng sống lưng thẳng tắp. Ngay từ đầu tôi đã có ấn tượng rất tốt về con người này.
“Chào Mino, lâu quá rồi.”
Nakajima cười, chẳng tỏ ra chút sợ hãi, run rẩy nào như trước lúc tới đây.
Tôi không biết phải gọi cảm giác đó là đúng kiểu đàn ông hay thật khó hiểu, song tôi không khỏi ngạc nhiên trước sự thay đổi vượt sức tưởng tượng của hắn.
Về mặt này, tôi nghĩ hẳn là còn nhiều thứ hắn vẫn giấu tôi. Tôi cảm thấy đích đến của chặng đường ấy còn quá xa.
“Cuối cùng cậu cũng đến… Cho tớ chia buồn về chuyện của mẹ cậu.” Người kia nói, rồi tiếp tục: “Nhưng đúng là đã lâu quá rồi nhỉ.” Và hơi cất tiếng cười. Một nụ cười sáng lấp lánh và dễ mến.
“Tớ đã phải mất nhiều thời gian để quyết định tới đây. Tớ mong gặp cậu vô cùng, nhưng trong lòng còn nhiều chuyện chưa lắng dịu. Hơn nữa, nơi đây có nhiều kỉ niệm về mẹ tớ, nên tớ sợ…”
Nakajima nhìn lên trần, nheo mắt. Sau đó quay sang tôi.
“Nhưng nhờ có lực kéo này nên không sao. Cuối cùng cũng đến được đây rồi.”
“Rất vui được gặp cô. Tên cô là gì?”
Người có tên Mino nhìn tôi hỏi.
“Đây là Chihiro, bạn gái tớ. Còn giới thiệu với Chihiro, đây là Mino.”
Nakajima nói. Tôi nói: xin chào, với một nụ cười, nhưng đầu đang quay cuồng với vô vàn dấu hỏi.
Có điều gì đó đặc biệt trong tinh thần của họ. Họ trao nhau những nụ cười mà không cần phải nói, giống như những người cùng ở chiến trường.
Cơn gió lướt qua không trung thật trong lành.
Nếu được tự do ở một nơi đẹp đẽ giống như loài chim trên cao kia, chắc chắn tôi đã chẳng bận lòng nhiều. Nhưng quả thật, đối với tôi Nakajima là một gánh nặng, dù rất nhỏ. Là một kẻ không biết đến ai khác ngoài bản thân trong thế giới của riêng mình, tôi không thích, dù chỉ chút xíu, việc Nakajima sẽ dựa dẫm vào mình nhiều hơn thế này. Nói một cách ngắn gọn: tôi đang “muốn chạy trốn khỏi trách nhiệm này, khỏi sự nặng nề toát ra từ những con người không bình thường này.”
Mino mỉm cười chăm chú nhìn tôi đang trong dòng suy tưởng.
Đôi mắt ấy khiến tôi cảm thấy mãn nguyện như đang được một thiên sứ ngắm nhìn. Khiến tôi không còn có ý định che giấu tâm can mình nữa. Đôi mắt trong trẻo tới mức tưởng chừng mọi sự xấu xa trong tôi đều tan biến.
“Chii đâu? Có khỏe không?” Nakajima hỏi.
“Đang ở trong nhà. Hai người vào đi. Xin lỗi vì nhà chật chội và bừa bộn quá.” Mino bảo.
Tôi và Nakajima gật đầu ra hiệu với nhau rồi bước vào.
Bên trong đơn sơ và sạch sẽ như trong một ngôi nhà nông thôn châu Âu thường thấy ở các bộ phim.
Tầng một hình như chỉ có bếp, nhà tắm và toa lét, chúng tôi được dẫn vào trong bếp, ở đó có những chiếc ghế với nhiều hình dạng khác nhau và một cái bàn hình vuông hệt như bàn học ở trường phổ thông, chúng tôi chọn trong đám ghế nhiều loại ấy một cái phù hợp rồi khẽ khàng ngồi xuống.
“Tớ đã sống trong ngôi nhà này cùng với mẹ.” Nakajima giải thích. “Giống như đi cắm trại, hay trong những bộ phim Pháp ngày xưa, hằng ngày mẹ con tớ phải nhặt nhạnh đủ mọi thứ mặc dù thực tế thì chẳng có gì, và âm thầm sống. Tớ chỉ biết làm mỗi một việc là nhìn hồ nước.”
“Vậy à?” Tôi đáp lời.
“Dạo ấy thì thấy khổ, nhưng giờ nghĩ lại, lại thành ra những kỉ niệm vô cùng vui vẻ.”
Nakajima từ ban nãy đã hơi có vẻ phấn khích, nói với tôi bằng một giọng cởi mở.
“Vì trong này chật chội nên ngày nào tớ cũng đi dạo. Tha thẩn tản bộ ven hồ. Thỉnh thoảng còn bơi thuyền nữa. Tớ rất mừng vì thấy mẹ dần khỏe lại. Mùa xuân sang, mỗi ngày mẹ tớ một phục hồi sinh lực. Khi nét mặt biểu lộ niềm tin vào tương lai, con người ta trở nên thật đẹp. Thế rồi mẹ tớ bình phục hoàn toàn, nhanh chóng như khi cây cối và núi non chuyển sang sắc xanh. Tớ vẫn còn nhớ như in cảm giác vui sướng ấy.”
Nakajima kể, mắt hơi rớm lệ.
Trong nhà tĩnh lặng, từ cửa sổ nhìn ra chỉ thấy hồ nước mờ ảo dưới tiết trời đầu xuân.
Đối với tôi, khung cảnh ở đây thê lương đến đáng sợ. Nhưng tôi biết, dù thê lương đến thế nào thì trong kỉ niệm của Nakajima nơi này vẫn đầy màu sắc.
Mino thong thả đun nước, rồi pha trà theo cung cách thật cẩn trọng.
Nhấp một ngụm, hương thơm lan ra trong miệng. Đây là loại hồng trà ngon nhất mà tôi từng uống. Tôi thành thực nói ra điều ấy khiến Mino hơi thẹn thùng.
“Là vì mạch nước vùng này rất thích hợp với hồng trà.” Cậu ta phân bua. “Ngày nào tôi cũng đi lấy nước về pha trà.”
Trà ngon chỉ vì nguồn nước thôi ư? Làm gì có chuyện đó. Tôi thầm nghĩ. Trong cái thế giới hạn hẹp này, ngắm hồ nước, uống trà ngon hẳn là tất cả sự giàu có của cậu ta.
Điều đó quan trọng biết nhường nào. Cậu ta đã tạo ra cho mình, một cách chắc chắn, cái thế giới không ai có thể quấy rầy hay xâm phạm. Tôi nghĩ.
Vẻ cao quý của Mino đủ để xóa tan những mẩu vụ cuối cùng của lòng thương hại kiểu các bà trung niên còn sót lại một cách ngớ ngẩn trong tôi.
Trà ngon có sức thuyết phục mạnh mẽ tới mức làm thay đổi con người như vậy đấy!
Nakajima và Mino tán gẫu suốt một lúc lâu, rôm rả như hai cậu học trò tiểu học. Tôi vừa lơ đễnh nghe cuộc trò chuyện, vừa nhìn ra hồ nước. Qua cửa kính, tôi ngắm mép nước mềm mại như một tấm vải đẹp, mới đấy còn gợn sóng bất giác khiến tôi thấy lạnh, giờ đã lại phẳng lặng như một tấm gương.
“Thật ra tớ có việc muốn hỏi Chii, nhưng nếu cô ấy đang ngủ thì thôi.” Nakajima nói.
“Chii thì lúc nào mà chẳng ngủ, cậu cứ lên gặp đi.” Mino đáp, đoạn quay sang nhìn tôi, “Chii là em gái tôi, từ lâu rồi nó chỉ ngủ li bì. Nhưng không phải do bệnh tật mà vì gan và thận yếu khiến cơ thể mệt mỏi nên hầu như không cử động được. Nói cho đúng là nó chỉ toàn ngủ thôi. Lúc đi vệ sinh cũng phải men theo bờ tường lần từng bước vì không còn cơ bắp nữa, cơm cũng chỉ mỗi ngày một bữa, cơ bản là húp cháo và uống rượu Nhật chứ hầu như chẳng ăn gì. Hãn hữu lắm nó mới thức dậy. Tất nhiên, theo nghĩa rộng, không thể không gọi đó là một chứng bệnh. Chúng tôi không tới bệnh viện, và lại tôi nghĩ mình có nhiều thời gian nên vẫn cứ sống như thế này. Tôi cũng có giúp nó cử động chân tay hoặc đi lại loanh quanh trong nhà, nhưng cố gắng từ tốn nhất có thể.”
Chẳng biết nói gì, tôi đành đáp chiếu lệ, “Vậy sao.”
“Khi nào muốn nói gì, Chii sẽ nhìn vào mắt tôi, và trao đổi bằng ý thức. Đôi khi là những thông tin đặc biệt, nên có những người tới để nghe, nhờ đó anh em tôi có thể sống tạm qua ngày. Nhưng nhiều khi chẳng có thông tin gì và chúng tôi thì không thể xoay xở cách nào cho tất cả mọi người đến đây, nên về cơ bản chúng tôi giấu kín chuyện này. Nếu được, cô cũng đừng để lộ ra ngoài.” Cậu ta nói.
“Cái đó… có phải là một kiểu xem bói theo nghĩa rộng không?” Tôi hỏi.
“Cô cứ hiểu như vậy cũng không sao, nhưng đa phần chỉ đơn giản là những cuộc trò chuyện vui vẻ mà thôi. Khi trò chuyện với nó, không hiểu sao, mọi người như cảm thấy có điều gì đó trở nên sáng tỏ. Vì ngủ suốt ngày nên nó được tự do đi lại khắp nơi trong thế giới mộng mị.” Cậu ta nói. “Nhờ thế mà có vẻ như nó được tiếp cận với nhiều thông tin hơn những người tỉnh táo.”
“Tôi nghĩ mình hiểu chuyện này.” Tôi nói. “Nhưng sẽ không kể với ai.”
“Bởi vì có duyên nên cô mới tới đây.” Mino nói. Rồi mỉm cười, ánh sáng trong mắt càng lúc càng lấp lánh như những vì sao. “Từ giờ trở đi, cô có thể đến đây bất kể khi nào. Vả chăng, nếu sự xuất hiện của cô không phải do định mệnh thì có lẽ chẳng bao giờ nhớ ra nơi này nữa.”
Cứ như một câu đố mẹo vậy.
“Vâng, tôi hiểu.” Tôi trả lời. Với một nụ cười. Đối với con người tuyệt vời này, tôi còn có thể dành tặng gì hơn là một nụ cười.
“Cô có gặp em gái tôi không? Cùng với Nobu.” Mino hỏi.
“Thôi khỏi, Nakajima có chuyện riêng của cậu ấy, vả lại tôi cảm thấy không tự nhiên khi lần đầu tiên gặp mặt mà cô ấy lại đang ngủ. Nếu lần sau còn tới đây, tôi sẽ gặp cô ấy.” Tôi trả lời.
Tôi biết đối với Nakajima việc gặp gỡ những con người này có ý nghĩa quan trọng dường nào nên quyết định không làm phiền họ. Bởi lẽ, nhiệm vụ của tôi chỉ là làm sao để đưa được hắn tới đây. Nghĩ rằng nhiệm vụ đó đã hoàn thành, tôi muốn lui lại phía sau.
“Sao không đi cùng tớ. Cô ấy lúc nào mà chẳng ngủ.” Nakajima lên tiếng.
“Không cần đâu, tớ nghĩ cậu có nhiều chuyện muốn nói.” Tôi đáp.
“Nhưng tớ cũng muốn giới thiệu Chihiro với Chii.” Nakajima nói.
“Biết đâu có thông tin gì đó liên quan tới cô thì sao?” Mino gợi ý với vẻ tinh nghịch. Lòng ham hố trong tôi trỗi dậy, nhưng nghĩ tới quá khứ của bọn họ, tâm trạng tôi bỗng trở nên nghiêm túc, ham muốn theo đó cũng tiêu tan.
“Vậy thì tôi sẽ lên chào cô ấy rồi xuống ngay. Và đợi hai người ở bên dưới.” Tôi nói.
“Nào, chúng ta đi.” Mino nói.
Đi hết những bậc thang dốc cót két liên hồi thì tới tầng trên, ở đây sáng hơn nhờ ô cửa sổ nơi hành lang. Có hai phòng, cả hai đều đang đóng cửa.
Mino im lặng mở cửa một trong hai căn phòng. Tôi hơi căng thẳng, người cứng lại. Từ bên trong phảng phất bay ra một mùi thơm giống như hoa hồng. Không phải chính xác là hoa hồng, mà là thứ gì đó giống như một cảm giác ngọt ngào.
“Ôi chao, Chii, chẳng thay đổi gì cả.” Nakajima thốt lên nghẹn ngào.
“Xin mời.” Được Mino thúc giục, tôi cũng vào theo.
Trên chiếc giường rẻ tiền bằng gỗ là một tấm chăn nỉ rẻ tiền màu hồng, dưới chăn có một cô gái mảnh dẻ, nhỏ bé nằm cuộn tròn gần như vùi hẳn vào bên trong.
Nhìn cô chẳng khác gì một bé gái, nhưng cũng giống như Mino, cô là một người trưởng thành. Cơ thể nhỏ bé, cằm cánh tay gầy guộc như cành cây khô, chỉ có hàng lông mi là dài một cách khỏe khoắn.
“Hình như cô ấy đang ngủ.” Nakajima cất tiếng.
“Không, thế này là đang thức đấy.” Mino nói.