Lần trước Tô Hàng lên đảo là để tìm kiếm cây ca-cao, đại khái ở trên đảo quay qua quay lại nàng liền phát hiện, tuy rằng hòn đảo này cách Trung thổ rất xa, nhưng phong thổ của nơi này, khí hậu và đảo nhỏ tiếp giáp bở biển Trung thổ lại không quá khác biệt, không có điều kiện tự nhiên nhiệt đới cũng sẽ không có các loại cây nhiệt đới, Tô trang chủ buồn chán.
Lúc đó có một vài người dân bản xứ chủ động tới làm quen với hắn, trong đó một người bộ dạng trông như tù trưởng đang cầm vòng trân châu vụt qua nàng, u li wa la trong miệng không biết nói những gì, Tô Hàng nghe không hiểu càng không có hứng thú cân nhắc, nhận lấy vòng trân châu, để lại một số lễ vật trao đổi thay thế rồi rời đi luôn. Giờ suy nghĩ kĩ lại, lúc ấy mấy người dân bản xứ nhìn thấy bọn họ thì đi như vậy, trên mặt đều đeo một vẻ mặt như là rất bất ngờ…
Trở lại hòn đảo nhỏ, lại gặp dân bản xứ, Tô Hàng liếc nhìn một cái liền nhận ra người tù trưởng đã tặng cô vòng trân châu lúc đầu, không phải là trí nhớ của Tô Hàng tốt, thực sự là vị tù trưởng quá khác biệt với mọi người, trên đầu cắm một nắm lông chim đủ màu sắc như thế, gương mặt bôi toàn màu đỏ tươi, rõ ràng là không giống với những thổ dân trụi lủi khác, sau khi gặp một lần rồi muốn quên hắn đi cũng khó.
Đối với người Hán bỗng nhiên đến thăm, dân bản xứ biểu hiện rất thân mật, không khỏi phân bua lôi kéo Tô Hàng và các thuyền viên vào bộ lạc, bê ra các loại thức ăn cổ quái chiêu đãi nồng hậu, ngoài ra tù trưởng còn sắp xếp một tốp các chàng trai trần truồng người Hán nhảy múa góp vui, Tô Hàng lần này là tới tìm những thứ mọi người muốn, có chút ngượng ngùng vừa lên tới liền giơ tay, trước hết nghe theo sự sắp xếp của thổ dân, đồng thời dâng lên những lễ vật đã sớm chuẩn bị đầy đủ, cũng không ngoài những thứ như thiết khí, dụng cụ cắt gọt, hoả chiết tử ( dụng cụ tạo lửa thô sơ), những thứ này trong mắt thổ dân hết thảy đều là đồ tốt.
Bà ngoại thoải mái nghiêng người dựa vào bên cạnh, vừa gọi Tiểu Tiểu Tô ăn táo, vừa cười với Tô Hàng nói:
- Thổ dân ở đây cũng coi là vẫn hiểu đạo đãi khách, không quá giống với nơi khác, chị Hàng lần trước tới đây, hẳn là đã cho họ không ít ưu đãi?
Chuyến đi này của thuyền lớn, gặp được không ít dân bản xứ hải đảo, đối phương sau khi phát hiện ra bọn họ phần lớn đều vô cùng cảnh giác, thậm chí bộ lạc cá biệt hung mãnh còn chủ động khởi xướng công kích, duy chỉ có dân bản xứ của tộc này nhiệt tình hiếu khách, theo bà ngoại nghĩ, chắc chắn là khi Tô Hàng tới lần trước đã cho bọn họ rất nhiều lợi lộc, cho nên lần này mới có thể lại lần nữa cho họ trở thành khách quý.
Tô Hàng nghe vậy lại ngẩn người, lắc đầu đáp:
- Không phải, khi tới lần trước, bọn họ cũng nhiệt tình như vậy.
Tô Hàng là người như thế nào? Làm thế nào nàng lại đi để ý tới thái độ của người khác, ngay cả sự tin một bề của Cảnh Thái nàng cũng không để trong lòng, càng không bàn về cách nhìn của thổ dân với nàng, trong mắt nàng, dân bản xứ đang cầm con dao cười nhe răng, với đang cầm hoa quả cười nịnh căn bản không có gì khác nhau. Cho nên lần thứ nhất lên đảo, sự nhiệt tình của thổ dân nàng hoàn toàn không để ý, cũng không thấy có sự khác thường, bây giờ nghe bà ngoại nhắc tới, mới hốt hoảng cản thấy không bình thường…quả thật là quá nhiệt tình, giống như nhiều năm rồi chưa gặp lão bằng hữu.
Ăn bữa cơm vô cùng náo nhiệt, phụ nữ trẻ nhỏ tản đi, thanh niên cường tráng trong bộ lạc lại bắt đầu bận rộn với bữa ăn tiếp theo, đám người Tô Hàng, bà ngoại tìm thấy tù trưởng, ra dấu thay cho lời nói giải thích ý đồ; tù trưởng thực không khách khí, cũng khoa chân múa tay lại thêm tiếng Man u la u la…hai đám người nói chuyện một hồi lâu, dù sao Tô Hàng cũng không hiểu thổ dân muốn nói gì, phỏng chừng thổ dân cũng không hiểu Tô Hàng muốn làm gì.
Cuối cùng tù trưởng thuật sự không nhẫn nại nữa, từ trên chỗ ngồi nhảy dựng lên, ô ô gầm rú triệu tập một đám tộc nhân, lại dùng sức xua tay với đám người Tô Hàng ra dấu động tác tay "đi theo ta", quay người đi về hướng vùng núi trên đảo.
Tô Hàng nghi hoặc mà lại tò mò, hoàn toàn không hiểu tù trưởng đây là làm gì, dù sao hỏi cũng hỏi không rõ, dứt khoát cũng không nói lời vô ích, gọi một đám thuyền viên cường tráng đi theo sau thổ dân.
Những hòn đảo nhỏ có thổ dân sinh sống đều sẽ không quá nhỏ, tất cả những nơi Tô Hàng đợi người cũng không ngoại lệ, một đám người Hán gian khổ bôn ba đi theo sau dân bản xứ, vừa đi đã bảy ngày, cuối cùng cũng đã đến đích: chỗ sườn núi ở đỉnh chính của hòn đảo.
Vừa đến nơi, Tô Hàng, bà ngoại và các thuỷ thủ liền bất giác mở to hai mắt nhìn: một viện lạc, chín phần mộ "đầu đuôi cùng tuyến"chỉnh tề sắp xếp làm thành một đường.
Viện lạc đã sụp đổ phân nửa hoang tàn không thể tả, nhưng không khó nhìn ra kết cấu của nó, hình thức đến từ Trung thổ, hàng ngói góc nhà ngăn nắp, hoàn toàn không giống với kiểu nhà cỏ hình tròn của dân bản xứ. Thử đi vào bên trong thăm dò, khí cụ của tiền nhân từng dùng vẫn bày ở chỗ cũ, những thiết bị khổng lồ đứng sừng sững trên nền đất trống, có vẻ dị thường bắt mắt, bà ngoại vừa nhìn vừa vừa kinh ngạc nói:
- Đây là hỗn thiên nghi, đây là tứ du nghi, đây là…nhật nguyệt bàn?
Bà ngoại đã từng là chủ quản thái giám trong Yến cung, Tô Hàng cũng lớn lên cùng quan lớn đại gia, kiến thức của hai người có chút không tầm thường, nhưng dù vậy, hai người bọn họ cũng không cách nào nhận ra được tất cả các dụng cụ, chỉ nhận ra ba, năm chiếc có hạn trong đó. Tuy nhiên có thể khẳng định rằng, mọi người mắc lại trong sân, hẳn là đều quan sát dụng cụ tinh trắc thiên, toàn bộ xuất xứ từ thế giới Trung thổ, là phát minh của người Hán.
Đảo nhỏ quanh năm chịu gió biển thổi vào, vật bình thường khó có thể tồn tại quá lâu, đám người Tô Hàng trong sân lại vòng vo mấy vòng, ngoại trừ một chiếc hộp sắt dán kín mít bên ngoài không thấy có gì hữu dụng, mở chiếc hộp sắt ra bên trong lại là một đống giấy viết bản thảo đã dùng, bên trên chi chít, liệt kê vô số biểu thức số học của cổ nhân, không ai có thể xem hiểu được…
Trên hòn đảo nhỏ trơ trọi, đã từng có người Hán cư trú tại đây, quan sát thăm dò tinh tượng, ngoài ra người quan tinh còn suy tính cái gì, cụ thể bọn họ muốn tính ra kết quả gì thì không biết được.
Bà ngoại thở một hơi dài, lẩm bẩm nói:
- Trên hòn đảo này sớm đã có người Hán tới, những phần mộ bên ngoài kia, hẳn chính là bọn họ.
Tô Hang gật gật đầu cất bước ra khỏi nhà hoang, đi về phía hàng phần mộ kia.
Một dãy, chín phần mộ, xếp thành một đường thẳng tắp, mộ bia đều lập hướng về phía Trung thổ, thể hiện nỗi nhớ nhà của người xa quê, văn bia từ chữ hán viết thành, nhưng toàn bộ vô mộ chí, sô chữ trên bia không nhiều, chỉ là: ân sư mỗ công mỗ mỗ chi mộ, bất tiếu đệ tử mỗ mỗ lập.
Chín phần mộ đều cùng một hình dáng, trừ hai tên " mỗ mỗ" có thay đổi.
Đơn giản tới mức không thể đơn giản hơn, thậm chí ngay cả năm sinh năm mất cũng không có.
Nhưng nhìn kỹ lưỡng một chút, cũng vẫn có thể phát hiện chút manh mối: người lập bia của bia mộ phía trước, chính là chủ nhân của phần mộ phía sau.
Mộ bia của sư phụ, là do đệ tử lập nên; đệ tử trở thành sư phụ, sau khi chết đi lại được đệ tử đời sau lập bia…chín phần mộ cứ lặp đi lặp lại theo quy tắc như vậy. Xếp thành hàng mộ thẳng tắp, đã từng là nhất mạch sư đồ kế thừa.
Tù trưởng lại bắt đầu khoa chân múa tay với Tô Hàng, chỉ chỉ ngôi mộ, lắc lắc ngón tay cái, lần này lại khá dễ hiểu, từ trưởng đang khên bọn họ đều là người tốt.
Sự tình không khó lý giải, không biết bao nhiêu năm trước, có người Hán tới đây, chín đời sư đồ kế thừa, ít nhất cũng phải tới hai ba trăm năm, bọn họ từng ở cùng trên đảo nhỏ với tổ tiên dân bản xứ, tuy rằng không có ở cùng một chỗ, nhưng khẳng định qua lại rất nhiều, hai bên cùng nhau chung sống được hẳn là cũng coi như hoà hợp. Cho nên dân bản xứ của bản địa đối với người Hán không những không có lòng thù địch, ngược lại còn tiếp đãi nhiệt tình.
Tính ra vừa rồi Tô Hàng có thể xem quần ma loạn vũ của dân bản xứ, ăn thức ăn cổ quái của dân bản xứ, vẫn là chạm một chút vào ánh sáng của các vị tiền nhân này.
Sau đó tù trưởng lại bận rộn, hai cánh tay đểu múa nhanh tạo ra tiếng gió, một lượt "tràng giang đại hải", lúc trước hai bên "nói chuyện phiếm", không có một "tham chiếu vật", mọi người cùng nhau mơ hồ không hết, nhưng hiện nay đã có những ngôi mộ này, tù trưởng luôn luôn chỉ về phía chúng, bởi vậy Tô Hàng sớm đã hiểu những lời tù trưởng muốn nói là chuyện của những vị tiền nhân này, có tiền đề rõ ràng rồi, lại trao đổi thêm liền hiểu nhiều hơn, chậm rãi nhìn hiểu được ý tứ của dân bản xứ.
Nhiều thế hệ trong tộc dân bản xứ tương truyền, nhiều năm trước một chiếc thuyền lớn đi vào hòn đảo nhỏ, nhóm lớn người Hán lên đảo tiến vào núi tới nơi này, xây dựng lên viện lạc này, bắc lên nhiều dụng cụ quan tinh, sau đó mọi người rời đi, chỉ còn hai người ở lại, một người trung niên một người thiếu niên, không cần hỏi bọn họ là một đôi sư đồ.
Thổ dân không biết hai người bọn họ cả ngày bận rộn việc gì, nhưng sau này hai bên quan hệ qua lại dần dần nhiều hơn, người Hán rất hữu hảo với bọn họ, giúp bọn họ trị bệnh, có người đau đầu nhức óc, người Hán dùng ngón tay ấn vài cái liền khỏi rồi.
Vừa nói, tù trưởng còn thò hai ngón tay trỏ ra, chọc linh tinh lên người tộc nhân bên cạnh, trêu cho Tiểu Tiểu Tô cười khanh khách không ngừng, học theo, đứa trẻ thò hai ngon tay chọc nhẹ vào bà ngoại. Bà ngoại cười giống như một đoá hoa, khen lấy tinh thần:
- Tiểu thiếu gia chăm sóc tôi, trị bệnh cho tôi.
Châm cứu, bấm huyệt vốn dĩ chính là phương pháp của thầy thuốc đất Hán, mà trong đất Hán rất nhiều học vấn đều là tương thông, chỉ dựa vào những quan tinh khí giời này có thể biết người cư trú ở đảo này là bậc thầy âm dương, người như vậy biết chút võ công, hiểu chút phương pháp y thuật cũng là bình thường.
Chiếc thuyền lớn đưa người Hán tới đảo sau khi đi cũng không phải một đi không trở lại, cách một khoảng thời gian lại quay lại một chuyến, lại khoa tay múa chân đến lúc này, tù trưởng đại nhân còn khá có cách, tiện tay kéo một nữ nhân tộc ở bên cạnh lại, sau đó ra dấu như kiểu bụng to trên người cô gái, theo đó lại giơ ba ngón tay với Tô Hàng, lặp lại mấy lần như thế, Tô Hàng bỗng nhiên hiểu ra: bụng to chính là mang thai, tình cảnh ba lần mang thai mười tháng…Hầu như mỗi hai ba năm, thuyền lớn lại quay lại một chuyến, tiếp tế cho người Hán ở trên đảo, chưa bao giờ gián đoạn.
Sau khi sư phụ qua đời, đệ tử sẽ tự tay mai táng ân sư, cũng lập bia khắc chữ dưới sự giúp đỡ của dân bản xứ, đợi khi thuyền lớn lại đến, đệ tự sẽ lên thuyền tạm thời rời khỏi đảo, thời gian rời đảo của mỗi đệ tử sau khi đảm nhiệm tang sư dài ngắn không giống nhau, có người chỉ một hai cái " mang thai mười tháng", có người thì phải bảy tám cái "mang thai mười tháng", cho dù thời gian rời đi dài họ vẫn sẽ quay lại. Lại trở lại trên đảo nhỏ, đệ tử ngày trước đã trở thành sư phụ, bên cạnh họ sẽ còn kèm theo một đứa trẻ.
Không cần hỏi, rời khỏi đảo trở về Đông thổ là đê tìm kiếm đệ tử truyền nhân có tư chất, sau khi tìm thấy liền sẽ quay trở lại trên đảo, tiếp tục nghiên cứu của bọn họ, cứ như thế lặp lại không ngừng, sau khi thầy chết trò lại thu nhận đệ tử, đời đời kế thừa di chí của tiên sư.
Lúc này bà ngoại bỗng nhiên nhớ tới một chuyện, hỏi Tô Hàng:
- Vậy thì kì lạ, cái người đào mộ cho Lưu Hiển Thành đâu, mộ của hắn ở chỗ nào?
Lưu Hiển Thành là ngôi mộ thứ chín, ngôi mộ cuối cùng trong một dãy mộ bia, hắn cũng có đệ tử lập bia mộ cho, nhưng đệ tử của hắn lại không ở chỗ này.
Tô Hàng sớm đã hiểu rõ chuyện này, cười đáp:
- Còn phải hỏi sao, chắc chắc là lên thuyền đi rồi.
Khi nói, nàng còn bắt chước động tác tay của tù trưởng, bàn tay uốn lượn lên xuống như cuộn sóng, làm bộ dạng như thuyền lớn theo gió vượt sóng.
Bà ngoại "khụ" một tiếng, cũng lắc đầu cười:
- Quả nhiên là quy luật như vậy, ta ngốc quá, chuyện đơn giản như vậy lại không nghĩ ra.
Nhưng không ngờ rằng, hoặc là tù trưởng nhìn hiểu được ý của hai người nói chuyện, hoặc là tù trưởng vốn là chuẩn bị nói ra sự tình đằng sau ngôi mộ thứ chín này, hắn giơ tay chém nhẹ lên tay của Tô Hàng, sau khi chính mình chạy tới ngôi mộ thứ chín, lại bắc tay lên che nắng nhìn về phía biển lớn, làm ra bộ dạng đau khổ trông về nơi xa, cuối cùng hai tay nhất quán…
Tô Hàng hơi ngạc nhiên:
- Thuyền không tới nữa? Người thứ mười không đợi được thuyền lớn, vẫn ở trên đảo?
Tù trưởng nào có nghe hiểu nàng nói gì, kế tiếp lại là một hồi khoa tay múa chân, mà động tác, biểu đạt của hắn càng nhìn lại càng nghĩ như Tô Hàng nói, sau đó tù trưởng ô oa vài tiếng dặn dò, tộc nhân phía sau người nào người nấy vui vẻ mỉm cười, lấy ra thức ăn nước sạch mang theo bên mình, bắt đầu ăn uống.
Tô Hàng bị câu chuyện cũ nửa vời này làm cho không ngừng tò mò, nào có nghĩ đến dân bản xứ bắt đầu liên hoan, trong lúc nhất thời dở khóc dở cười…
Tuy nhiên hành trình của nhóm dân bản xứ vẫn chưa kết thúc như vậy, sau khi ăn uống no đủ tù trưởng ra lệnh một tiếng, tiếp tục hướng về chỗ đỉnh núi cao mà leo lên, Tô Hàng giờ mới hiểu, vừa rồi mọi người chỉ là nghỉ ngơi chỉnh đốn một chút.
Núi hoang trên đảo không có đường đi, nơi cố sức trèo lên không cần phải nói nhiều, một đoạn hành trình mười phần gian khổ, cuối cùng cũng đến được đỉnh núi trước khi trời tối, lần này nhóm dân bản xứ dẫn Tô Hàng, ở phía trên đỉnh núi đá, tìm thấy một di hài lẻ loi. xem tại t_r.u.y.ệ.n.y_y
Quần áo sớm đã mục nát, bay đi theo gió, da thịt thối rữa thành cát bụi, chỉ còn một bộ xương khô, trong lòng ôm một chiếc hộp đá, mặt hướng về phía Tây, ánh mắt trống rỗng nhìn chăm chú về biển rộng, dường như vẫn còn đang chờ đợi, vẫn đang tìm kiếm con thuyền lớn kia có thể tới đưa hắn về nhà.
Đây chính là người thứ mười, đệ tử cuối cùng trong " phần mộ nhất mạch".
Tù trưởng tiếp tục khoa tay múa chân, cố sức đem sự tình nói rõ ràng.
Đảo nhỏ cô độc ngoài biển, khoảng cách xa xôi chim bay khó qua, liên hệ duy nhất của người Hán ở đây với thế giới Trung thổ chỉ là chiếc thuyền lớn cách vài năm tới thăm một lần kia.*
Sau khi người thứ chín chết, đệ tử đời thứ mười mai táng ân sư, hắn phải đợi thuyền tới mới có thể tới Trung thổ chọn đệ tử, trong thời gian đó hiển nhiên sẽ không chờ đợi, tiếp tục việc nghiên cứu của sư môn đời trước, tính toán, xấp xỉ qua hơn một năm rồi, người này dường như bỗng nhiên nổi điên, vẻ mặt mừng như điên chạy tới bộ lạc thổ dân, vừa uống rượu cười lớn, vừa nói cho dân bản xứ biết, câu đố nan giải của nhiều thế hệ tiên sư cuối cùng cũng bị hắn tính ra rồi.
Trải qua suốt mười đời, kế thừa mấy trăm năm vất vả nghiên cứu, cuối cùng cũng có kết quả.
Kể từ đó, người Hán đợi thuyền lớn quay lại sẽ vĩnh viễn rời khỏi nơi này. Dân bản xứ thật thà, thật lòng thấy mừng cho người Hán, còn đặc biệt tổ chức chúc mừng long trọng liên tiếp…Nhưng bất ngờ, sau khi đệ tử đời thứ mười chờ đợi nhiều năm, luôn luôn không thể gián đoạn thuyền lớn đến đảo, nhưng lại không thấy bóng dáng.
Lúc mới bắt đầu đệ tử đời thứ mười vẫn còn kiên nhẫn, nhưng theo sự chuyển dời của thời gian, hắn trở nên càng ngày càng nôn nóng, dứt khoát ôm chiếc hộp quý giá nhất lên đỉnh núi chính, ngày đêm nhìn ra biển rộng, giờ giờ khắc khắc mong chờ con thuyền kia có thể chạy vào tầm mắt của mình.
Thổ dân nhớ thương bằng hữu, biết rằng một mình hắn lên núi như vậy sống không được bao lâu, luân phiên trong bộ lạc, mỗi ngày đều có người xuất phát đi tới đỉnh núi, đem nước sạch và thức ăn cho đệ tử đời thứ mười, gió mặc gió, mưa mặc mưa.
Nhưng đệ tử đời thứ mười lại chưa từng xuống núi, hắn cuối cùng không đợi được con thuyền kia.
Trước lúc lâm chung, hắn nhắn nhủ rõ ràng với người thổ dân đưa cơm cho hắn, thi thể bất nhập thổ, để lại nơi này tiếp tục chờ đợi, theo đó lấy một chuỗi vòng trân châu trên cổ tay giao cho đối phương, nói rõ nếu có một ngày thuyền lớn lại quay lại, liền đưa chuỗi vòng trân châu này cho thuyền viên xem, đối phương sẽ tự hiểu ý, sẽ theo thổ dân cùng nhau vào núi tìm thi thể của hắn.
Về phần chiếc hộp gỗ kia, vốn cũng là thứ phải giao cho thuyền viên, nhưng tất cả những thứ trong hộp là những thu thập tâm huyết của suốt mười đời.
Thuyền tới hay không đã trở thành ẩn số, nếu nó tới, chiếc hộp đương nhiên do thuyền viên mang về Trung thổ, nhưng nếu nó không tới, đệ tử đời thứ mười liền ôm lấy nó, cho đến khi trời long đất nở!
Trừ phi đợi được chính chủ, nếu không thì không nỡ buông tay, người Hán cuối cùng trên đảo, nỗi ám ảnh cuối cùng trong lòng, hắn không giao chiếc hộp cho thổ dân, mà lại lựa chọn tự mình ôm lấy, vừa ôm đã mấy trăm năm.
Câu chuyện liên quan đến người Hán cơ bản đã kể xong, thuyền lớn vẫn cứ không thể quay lại, đến khi vì chocolate trong mơ Tô Hàng mới khởi xướng chuyến hành trình lớn, trong bản đồ hành trình mới phát hiện hòn đảo nhỏ này.
Thổ dân coi trọng lời hứa, di nguyện của đệ tử đời thứ mười và chuỗi vòng trân châu ngũ sắc, truyền từ đời này sang đời khác trong bộ lạc, rơi vào tay vị tù trưởng mặt đỏ hiện giờ này, cuối cùng lại thấy thuyền lớn, đương nhiên dẫn người lên bày ra tín vật.
Đúng là thuyền lớn, nhưng tuyệt không phải con thuyền đệ tử đời thứ mười chờ đợi.
Khi đó Tô hàng lại nào có biết những chuyện này, coi tín vật thành lễ vật, vui tươi hớn hở nhận lấy, sau đó lại đi; thổ dân cũng thành thật, ngây ngây nhìn cầm tín vật đi, nhìn bọn họ đến rồi lại đi, không hề theo mình vào núi, chỉ còn lại buồn bực vô tận…
May mà, Tô Hàng lại quay lại, nằng là vì muốn vài chuỗi trân châu may mắn nữa, không ngờ lại tìm hiểu được một câu chuyện như vậy.
Đến hiện tại, dựa theo tính tình của Tô Hàng, lại sao có thể kiềm chế được sự tò mò không đi xem thử bên trong chiếc hộp rốt cuộc chứa đựng những thứ gì, bà ngoại hiểu rõ suy nghĩ của nàng, nhưng bà ngoại tốt xấu cũng là nhân vật xuất thân từ trong cung, "có tri thức hiểu lễ nghĩa", chắp tay phía trước cùng thủ hạ âm thầm cầu nguyện trước di hài tiền nhân, đã trôi qua nhiều năm như vậy, thiên hạ Trung thổ đều đã thay đổi mấy lần, thuyền lớn mà đệ tử đời thứ mười chờ đợi không có khả năng quay trở lại, nhưng nghiên cứu tâm huyết của bọn họ, cuối cùng vẫn sẽ trở về Trung thổ!
Sau khi lễ xong, bà ngoại tiến lên ôm lấy hộp đá.
Tính chất của chiếc hộp sáng long lanh, chế tác tinh xảo, khắn ẩn đám mây tiên cảnh, vừa nhìn đã thấy là cổ vật, nhưng sau khi mở chiếc hộp ra…trong hộp đựng một cuốn sách, điều này cũng nằm trong dự liệu, sư đồ mười đời lên đảo để nghiên cứu không phải đào kho báu, của cải họ để lại chắc chắn là kết quả, bút tích liên quan tới việc nghiên cứu. Nhưng mở cuốn sách ra, ghi lại trên mặt giấy lại không phải chữ Hán, từng nét từng nét quái tự bút hoạ phong phú, có chút giống với phù soạn lão đạo vẽ khi bắt ma, nhưng kết cấu vẫn phức tạp hơn, từ Tô Hàng đến bà ngoại lại tới thuyền viên đi cùng, mỗi người nhận ra trên cuốn sách rốt cuộc viết cái gì.
Tô Hàng chỉ chỉ quái tự trên cuốn sách, nhìn về phía tù trưởng, người sau hiểu ý lắc đầu, biểu thị trên cuốn sách viết cái gì hắn cũng không biết.
Không có cách nào khác, đợi khi quay về Trung thổ lại thử tìm xem, có cao nhân biết lại văn tự này hay không, Tô Hàng truyền lệnh, đưa bộ hài cốt trên đỉnh xuống lưng núi, quy táng với nhóm mộ sư môn, dù sao vẫn là phải nhập thổ để yên nghỉ.
Tô Hàng lại thu xếp, lập bài minh văn cho mười đời đệ tử, tổ chức một tang lễ đơn giản, sau đó cáo biệt thổ dân, thuyền lớn giương buồm hướng về Trung thổ.