Kiến Chương 3


Chương 3
BA CUỘC PHIÊU LƯU

Cuối cùng, 56 đã tìm thấy một chỗ lý tưởng để xây tổ. Đó là một quả đồi tròn. Nó trèo lên. Từ trên, nó nhận ra những tổ chếch về phía Đông nhất: Zoubi-zoubi-kan và Gloubi-diu-kan. Thông thường, việc kết nối với phần còn lại của Liên bang sẽ không gây quá nhiều vấn đề.

Nó xem xét khu vực, đất hơi cứng một chút và có màu xám. Con kiến chúa mới tìm một chỗ đất mềm hơn, nhưng khắp nơi đều cứng. Trong khi nó cắm thẳng cái răng, với mục đích đào ổ sinh đẻ đầu tiên, một cú chuyển động kỳ lạ xảy ra. Như là động đất, nhưng khoanh lại quá chuẩn để thật sự là một trận động đất. Nó xiên mặt đất lần nữa. Lại như thế, còn tệ hơn; quả đồi đứng dậy và trườn sang bên trái…

Trong ký ức kiến, người ta đã thấy rất nhiều điều kỳ lạ, nhưng một quả đồi sống, chưa bao giờ! Bây giờ quả đồi ấy tiến khá nhanh, rẽ những cây cỏ cao, đè nát các bụi rậm.

56 còn chưa hết ngạc nhiên thì thấy quả đồi thứ hai lại gần. Phù phép gì thế này? Không có thời gian để xuống, nó bị kéo vào màn biểu diễn; thực ra, là sự bày tỏ tình cảm của các quả đồi. Hiện giờ, chúng đang sờ soạng nhau mà không ngượng ngùng… Thêm vào đó, quả đồi của 56 là cái. Và quả kia đang chầm chập trèo lên người nó. Một cái đầu đá từ từ nhô lên, một cái miệng đáng sợ há ra.

Quá đáng quá! Hoàng hậu trẻ từ bỏ ý định lập tổ của mình ở chỗ này. Lăn xuống dưới cái mỏm, nó nhận ra nó vừa thoát khỏi hiểm nguy gì. Những quả đồi không chỉ có đầu, mà còn có bốn chân có vuốt và những cái đuôi nhỏ hình tam giác.

Đó là lần đầu tiên 56 nhìn thấy những con rùa.

 

 

THỜI CỦA NHỮNG KẺ MƯU MÔ: Hệ thống tổ chức phổ

biến nhất ở loài người là như sau: một thứ bậc phức tạp những “nhà quản lý”, đàn ông và phụ nữ có quyền, điều hành hay đúng hơn là quản lý nhóm hạn chế hơn những “người có năng lực sáng tạo”, trong đó có các “nhà kinh doanh”, những người này, lấy cớ là phân chia, rồi nhận công việc về phần mình… Người quản lý, người sáng tạo, người kinh doanh. Đó là ba đẳng cấp ngày nay tương ứng với kiến thợ, chiến binh và kiến hữu tính ở loài kiến.

Cuộc chiến giữa Staline và Trotski, hai nhà lãnh đạo Nga hồi đầu thế kỷ XX, minh họa tuyệt vời cho giai đoạn chuyển từ một hệ thống ưu đãi những người có khả năng sáng tạo sang một hệ thống ưu tiên những người quản lý. Thực thế, Trotski, nhà toán học, người sáng lập ra Hồng quân đã bị Staline, con người của âm mưu, gạt bỏ. Một trang đã được lật.

Nếu người ta biết quyến rũ, tập hợp những kẻ giết người, bóp méo thông tin thì người ta sẽ tiến bộ, và tiến nhanh trong các đẳng cấp xã hội, hơn là nếu người ta có khả năng tạo ra những khái niệm hoặc những đồ vật mới.

Edmond Wells,

Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.

 

 

4 000 và 103 683 tiếp tục con đường mòn tỏa mùi dẫn tới tổ kiến miền Đông. Chúng gặp những con bọ hung đang bận đẩy các cục mùn, những nhà thám hiểm kiến thuộc một loài nhỏ đến nỗi người ta phải khó khăn mới nhận ra được, những loài khác thì to đến nỗi hai chiến binh đúng là chỉ vừa mới được nhìn thấy…

Đúng là có hơn mười hai nghìn loài kiến khác nhau và mỗi loài có hình thái riêng. Những loài nhỏ nhất chỉ chừng vài trăm micromét, những loài to nhất có thể lên tới bảy centimét. Loài kiến đỏ hung được xếp vào loại trung bình.

Cuối cùng, 4 000 có vẻ đã xác định được vị trí. Còn phải vượt qua mảng rêu xanh kia, trèo lên bụi cây keo, chui xuống dưới những cây thủy tiên bấc, và bình thường là ở đằng sau thân cái cây chết kia.

Và đúng là, khi đã qua được cái gốc cây, nhìn xuyên qua những cây ngón biển và cây nhót gai, chúng thấy dòng sông Đông và cảng Sateê xuất hiện.

 

 

- Alô, alô, Bilsheim, anh có nghe thấy tôi không?

- Năm trên năm.

- Mọi việc ổn chứ?

- Không vấn đề gì.

- Chiều dài của dây đã kéo ra cho thấy anh đã đi được 480 mét.

- Tuyệt.

- Anh đã thấy gì chưa?

- Chẳng có gì để báo cả. Chỉ có một số chữ viết khắc vào đá.

- Kiểu chữ viết gì?

- Những câu khó hiểu. Chị có muốn tôi đọc cho một câu không?

- Không, tôi tin lời anh…

 

 

Bụng của con cái 56 sôi sùng sục. Kéo, đẩy, ngọ nguậy bên trong. Tất cả dân cư tổ tương lai của nó đang hết kiên nhẫn.

Thế nên nó không khó tính, nó chọn một cái hố đất màu đất son và đen rồi quyết định lập thành phố của mình ở đó.

Vị trí không đến mức quá tồi. Không có mùi kiến lùn, mùi mối hay ong vò vẽ xung quanh. Thậm chí có vài pheromon dấu vết chỉ là dân Bel-o-kan đã từng phiêu lưu tới đây.

Nó nếm đất. Đất giàu nguyên tố vi lượng, độ ẩm đủ nhưng không quá mức. Thậm chí có cả một cây con nhô lên.

Nó dọn sạch một bề mặt tròn đường kính ba trăm đầu, thể hiện hình dạng tối ưu của tổ nó.

Kiệt sức, nó nuốt ực để đẩy thức ăn ở diều tập thể của mình ngược lên, nhưng cái diều đã trống rỗng từ khá lâu. Nó không còn dự trữ năng lượng nữa. Thế là nó nhổ phựt cánh mình và ăn ngấu nghiến những phần gốc có gân của chúng.

Với nguồn năng lượng này, nó sẽ còn phải cầm chừng vài ngày.

Sau đó, nó chôn mình tới tận đầu râu. Phải để không ai có thể phát hiện ra nó trong giai đoạn nó là một con mồi vô hại này.

Nó chờ đợi. Thành phố giấu trong cơ thể nó dần dần thức dậy. Nó sẽ đặt tên thành phố là gì?

Đầu tiên phải tìm một cái tên kiến chúa. Ở loài kiến, có một cái tên là tồn tại với tư cách một thực thể tự chủ. Những con kiến thợ, chiến binh, kiến hữu tính trinh tiết chỉ được chỉ định bằng số tương ứng với lượt chào đời của chúng. Trái lại, những con cái sinh sản có thể lấy một tên.

Hừm! nó đã bị các chiến binh mùi đá săn đuổi, thế thì nó chỉ việc đặt tên là “kiến chúa bị săn đuổi”. Hay đúng hơn là, không, nó bị truy đuổi vì nó đã cố giải thích bí ẩn của vũ khí bí mật. Nó không được quên. Vậy thì nó là “kiến chúa sinh ra từ bí ẩn”.

Và nó quyết định đặt tên tổ của mình là “thành phố của kiến chúa sinh ra từ bí ẩn”. Cái này, theo ngôn ngữ mùi kiến, được hít như sau:

CHLI-POU-KAN

 

 

Hai giờ sau, cú gọi mới.

- Ổn không, Bilsheim?

- Chúng tôi đang đứng trước một cánh cửa. Một cánh cửa bình thường. Có một đoạn toàn chữ lớn ở trên. Với kiểu chữ cổ.

- Nó nói gì?

- Lần này chị có muốn tôi đọc cho không?

- Có.

Ông cảnh sát trưởng hướng đèn pin và bắt đầu đọc, bằng một giọng chậm và trịnh trọng, do ông phải đoán đọc từ từ đoạn viết:

Linh hồn lúc chết nghiệm thấy cùng một cảm giác với các linh hồn đã được khai tâm trước những Huyền bí lớn.

Đầu tiên là những cuộc chạy với các khúc ngoặt khó khăn xuất hiện bất ngờ, những chuyến đi đáng lo ngại và dài vô tận qua các vùng tăm tối.

Rồi, trước lúc kết thúc, khiếp sợ lên tới đỉnh điểm. Rùng mình, run rẩy, mồ hôi lạnh, ghê sợ chế ngự.

Giai đoạn này gần như ngay lập tức được tiếp nối bằng lối ngược lên phía ánh sáng, một tia sáng đột ngột.

Một tia sáng huyền ảo tuyệt đẹp tỏa ra trước mắt, người ta qua những nơi thuần khiết và những đồng cỏ nơi vang lên những giọng nói và những điệu nhạc.

Những lời nói thiêng liêng gợi lên lòng kính trọng tôn giáo. Con người hoàn hảo và được khai tâm trở nên tự do, và họ ngợi ca những Huyền bí.

Một hiến binh rùng mình.

- Thế có cái gì đằng sau cánh cửa đó? máy bộ đàm hỏi.

- Rồi, tôi mở nó… Các anh theo tôi.

Im lặng dài.

- Alô Bilsheim! Alô Bilsheim! Trả lời đi, khốn kiếp, anh thấy gì?

Người ta nghe thấy một tiếng súng. Sau đó lại im lặng.

- Alô, Bilsheim, trả lời đi!

- Bilsheim đây.

- Thế thì nói đi, chuyện gì xảy ra?

- Chuột cống. Hàng nghìn con chuột cống. Chúng nhảy lên người chúng tôi, nhưng chúng tôi làm chúng biến đi rồi.

- Có phải đó là phát súng?

- Đúng. Bây giờ thì chúng trốn rồi.

- Tả cho tôi anh nhìn thấy gì!

- Toàn màu đỏ ở đây. Có nhiều dấu vết của đá chứa sắt trên vách và… máu dưới đất! Chúng tôi tiếp tục.

- Hãy giữ liên lạc radio! Tại sao anh cúp nó?

- Tôi thích tiến hành theo cách của tôi hơn là theo những lời khuyên từ xa của chị, nếu chị cho phép điều đó, thưa chị.

- Nhưng Bilsheim…

Clic. Ông cắt cuộc nói chuyện.

 

 

Nói đúng ra thì Sateê không phải là một cảng, cũng không phải là một đồn tiền tiêu. Nhưng chắc chắn đó là chỗ ưu tiên với các cuộc thám hiểm vượt sông của dân Bel-o-kan.

Ngày xưa, khi những con kiến đầu tiền của vương triều Ni đứng trước nhánh nước này, chúng hiểu ra rằng sẽ không đơn giản vượt qua được nó. Mỗi tội, kiến không bao giờ bỏ cuộc. Nó sẽ đương đầu, nếu cần phải thế, mười lăm nghìn lần và mười lăm nghìn cách khác nhau chống lại chướng ngại vật, cho tới khi nó chết hoặc chướng ngại vật đổ.

Một cách hành động có vẻ không logic. Chắc chắn cách hành động ấy đã làm mất rất nhiều mạng sống và thời gian của nền văn minh myrmécéen, nhưng nó có vẻ có lợi. Cuối cùng, với những nỗ lực quá đỗi lớn lao, kiến luôn vượt qua được các khó khăn.

Ở Sateê, những nhà thám hiểm đã bắt đầu thử đi qua bằng chân. Váng nước khá cứng để chịu được trọng lượng của chúng, nhưng không may là không có chỗ bám cho vuốt. Những con kiến thao diễn bên bờ sông như trên một sân băng. Hai bước đằng trước, ba bước bên cạnh và… púp! chúng để cho ếch ăn thịt.

Sau hàng trăm lần thử mà không kết quả và vài nghìn nhà thám hiểm hy sinh, kiến tìm kiểu khác. Kiến thợ tạo thành một chuỗi bằng cách nắm chân và râu của nhau cho đến khi tới được bờ bên kia. Thử nghiệm này có lẽ sẽ thành công nếu như dòng sông không quá rộng và động do các xoáy nước. Hai trăm bốn mươi nghìn kiến chết. Nhưng đoàn kiến vẫn không từ bỏ. Dưới sự đôn đốc của kiến chúa thời đó, Biu-pa-ni, chúng thử xây một cái cầu bằng lá, rồi một cái cầu bằng cành cây nhỏ, rồi một cái cầu bằng xác con bọ da, rồi một cái cầu bằng sỏi… Bốn thử nghiệm này lấy đi cuộc sống của gần sáu trăm bảy mươi nghìn kiến thợ. Để xây cây cầu không tưởng của mình, Biu-pa-ni đã giết nhiều thần dân hơn tất cả các cuộc chiến đấu vì lãnh thổ dưới triều đại của nó!

Thế nhưng nó không vì thế mà từ bỏ. Phải vượt qua được các vùng đất miền Đông. Sau những cây cầu, nó đã có ý tưởng tránh dòng sông bằng cách đi ngược lên đầu nguồn dòng sông ở phía Bắc. Không một đội nào trong các đoàn thám hiểm này quay trở lại nữa. 8 000 kiến chết. Sau đó nó tự nhủ là kiến phải học bơi. 15 000 kiến chết. Rồi nó tự nhủ là kiến phải thử thuần hóa ếch. 68 000 kiến chết. Dùng lá để lướt bằng cách quăng mình từ trên một cái cây cao? 52 kiến chết. Đi trên nước bằng cách bôi mật đã cứng vào chân? 27 kiến chết. Truyền thuyết khẳng định khi người ta thông báo cho kiến chúa biết chỉ còn khoảng mười kiến thợ nguyên vẹn trong tổ nữa thôi và vì thế người ta phải tạm thời từ bỏ dự án này, nó thốt lên:

Tiếc quá, ta vẫn còn đầy ý tưởng…

Thế nhưng, kiến của Liên bang cuối cùng cũng tìm ra được một giải pháp tốt. Ba trăm nghìn năm sau, kiến chúa Lifoug-ryuni gợi ý các con của mình đào một đường hầm dưới lòng sông. Điều này đơn giản tới mức không ai nghĩ ra sớm hơn.

Cũng chính vì thế mà từ Sateê người ta có thể đi dưới dòng sông mà chẳng chút phiền toái nào.

103 683 và 4 000 tiến đã từ nhiều độ nay trong đường hầm nổi tiếng này. Khu vực khá ẩm, nhưng vẫn chưa có lỗ rò nào. Tổ mối được xây ở bờ bên kia. Hơn nữa, bọn mối cũng dùng chính đường hầm này để đột nhập vào lãnh thổ của Liên bang. Cho tới giờ vẫn tồn tại một thỏa thuận ngầm. Người ta không đánh nhau trong đường hầm, và mọi người được tự do đi qua, dù là mối hay kiến. Nhưng rõ ràng ngay khi một trong hai phía có ý định thống trị, bên kia sẽ cố lấp miệng hầm hay làm ngập lối đi.

Chúng bước mãi trong cái hành lang dài. Vấn đề duy nhất: khối chất lỏng trùm trên đầu chúng lạnh cóng, và dưới lòng đất còn hơn thế nữa. Cái lạnh làm chúng cóng lại. Mỗi bước chân trở nên khó khăn. Nếu chúng ngủ thiếp ở dưới này, sẽ là ngủ đông vĩnh viễn. Chúng biết thế. Chúng bò để đến được lối ra. Chúng sẽ rút trong cái diều tập thể của mình ra chỗ dự trữ protein và đường cuối cùng. Các cơ bắp của chúng cứng đơ. Cuối cùng thì cũng tới lối ra… Ra tới không khí tự do, 103 683 và 4 000 lạnh đến nỗi chúng thiu thiu ngủ ngay giữa đường.

 

 

Tiến lên như thế này, nối đuôi nhau trong đường hầm tối tăm, làm ông đắm chìm trong suy nghĩ. Chẳng có gì để nghĩ ở đây cả, chỉ là đi tới tận cùng. Hy vọng là có đầu ra…

Đằng sau, không tranh luận nữa. Bilsheim nghe thấy những tiếng thở khàn khàn của sáu hiến binh và tự nhủ mình thật sự là nạn nhân của một sự bất công.

Lẽ ra, thông thường, ông đã phải là cảnh sát trưởng chính và có lương đúng mức. Ông làm tốt công việc của mình, những giờ có mặt của ông luôn vượt qua quy định, ông đã giải quyết đến cả chục vụ. Chỉ tội luôn có Doumeng cản đường tiến của ông.

Tình cảnh này bỗng nhiên trở nên không thể chịu đựng được với ông.

- Chó chết!

Mọi người dừng lại.

- Ổn chứ, cảnh sát trưởng?

- Vâng, vâng, ổn, tiếp tục đi!

Vô cùng xấu hổ: ông bỗng nói một mình. Ông cắn môi, cầu cho mình kiềm chế tốt hơn một chút. Thế nhưng ông chẳng cần tới năm phút để chìm trong các mối bận tâm của mình lần nữa.

Ông chẳng có gì chống lại phụ nữ, nhưng ông lại có cái gì đó chống lại những người không năng lực. “Con mụ già đó chỉ biết mỗi đọc và viết, bà ta còn chưa bao giờ điều hành một cuộc điều tra nào và bà ta được thăng chức đứng đầu toàn sở, một trăm tám mươi cảnh sát! Và bà ta lĩnh lương gấp bốn lần mình! Hãy gia nhập ngành cảnh sát, họ cứ nói thế! Bà ta à, bà ta được người tiền nhiệm của mình chỉ định, chắc chắn là có chuyện ăn nằm với nhau. Và hơn nữa, bà ta không để yên, một con mụ lăng xăng thực sự. Bà ta nâng người này chống người khác, bà ta ngầm phá chính sở của mình bằng cách làm ra vẻ quan trọng ở khắp mọi nơi…”

Theo dòng suy nghĩ, Bilsheim nhớ đến một bộ phim tài liệu về loài cóc. Bọn này, đến mùa sinh trưởng, bị kích thích đến nỗi chúng nhảy lên tất cả những thứ cử động: các con cái, nhưng cũng nhảy lên những con đực, và thậm chỉ cả đá. Chúng ấn bụng của con đối diện mình để làm trứng chui ra, và chúng sẽ thụ tinh những quả trứng đó. Những con ấn bụng các con cái thấy nỗ lực của mình được đền đáp. Những con ấn bụng các con đực chẳng nhận được gì và thay con khác. Những con ấn các hòn đá thì tự làm mình đau tay và bỏ cuộc.

Nhưng có một trường hợp ngoại lệ: những con ấn các cục đất. Cục đất cũng mềm như bụng cóc cái. Thế là chúng không ngừng ấn. Hết ngày này sang ngày khác, chúng có thể làm đi làm lại hoạt động vô sinh này. Và chúng tưởng là chúng đang làm điều mà thực ra còn có thứ tốt hơn để làm…

Ông thanh tra mỉm cười. Có thể chỉ phải giải thích cho Solange dũng cảm này là nhiều cách cư xử khác đều có thể, và còn hiệu quả hơn cách phong tỏa tất cả và gây stress cho cấp dưới. Nhưng ông không tin vào điều đó lắm. Ông tự nhủ là chung quy chính ông không nên ở vị trí của mình trong cái sở tồi này.

Những người khác, ở đằng sau, họ cũng đang chìm trong những suy nghĩ rầu rĩ. Chuyến đi xuống lặng lẽ này làm họ căng thẳng. Đã năm tiếng họ đi mà không nghỉ ngơi một chút nào. Phần lớn nghĩ đến khoản tiền thưởng mà họ phải đòi sau chuyến phiêu lưu; những người khác nghĩ tới vợ, tới con cái, tới chiếc xe ô tô của họ hoặc tới một két bia…

 

 

CHẲNG LÀ GÌ: Có gì sung sướng hơn là ngừng nghĩ ngợi? Cuối

cùng, ngừng cái đống đầy những ý nghĩ cũng ít nhiều có ích, hay ít nhiều quan trọng này lại. Ngừng suy nghĩ! Cứ như người ta chết trong khi hoàn toàn có thể sống lại. Là trống rỗng. Quay ngược về nguồn gốc xa xưa nhất. Thậm chí cũng không còn là người chẳng nghĩ tới gì nữa. Chẳng là gì. Thế đấy, một tham vọng thanh cao.

Edmond Wells,

Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.

 

 

Nằm bên bờ sông cả buổi đêm, bất động, cơ thể của hai chiến binh tỉnh lại bởi những tia nắng đầu tiên.

Từng cái một, các ô mắt của 103 683 hoạt động trở lại, chiếu vào não cảnh tượng mới phía trước mặt nó. Cảnh tượng hoàn toàn được tạo ra từ một con mắt to đùng treo lủng lẳng phía trên nó, cố định và chăm chú.

Con kiến vô tính trẻ thốt một tiếng kêu pheromon ghê sợ làm bỏng cả râu của nó. Con mắt cũng sợ, nó vội vàng thụt lại, và cùng với nó cái râu dài treo nó ở trên cũng lùi theo. Cả hai cùng trốn dưới một kiểu viên sỏi tròn. Một con ốc sên!

Xung quanh chúng còn có những con khác. Có năm con tất cả, ngụy trang dưới cái vỏ của mình. Hai con kiến lại gần một con và đi một vòng quanh nó. Chúng thử cắn nó, nhưng chẳng có chỗ bám nào. Cái tổ di động này là một pháo đài không thể đánh chiếm được.

Nó nhớ lại một châm ngôn của Mẹ: An toàn là kẻ thù tồi tệ nhất của ta, nó ru ngủ các phản xạ và sáng kiến.

103 683 tự nhủ những con vật trốn sau vỏ mình luôn sống trong dễ dàng, gặm cỏ bất động. Chúng chưa bao giờ đánh nhau, quyến rũ, đi săn, chạy trốn. Chúng chưa bao giờ đương đầu với cuộc sống. Như thế, chúng không bao giờ tiến hóa được.

Ý thích bất thường làm nó cảm thấy phải bắt chúng chui ra khỏi cái vỏ của mình, chứng minh cho chúng biết là bọn chúng không phải không thể bị thương. Đúng lúc, hai trong số năm con sên ở đó cho là nguy hiểm đã qua. Thế là chúng để cơ thể lang thang ngoài chỗ ẩn để thổ lộ sự căng thẳng.

Sáp lại gần, hai con áp bụng vào nhau. Nước dãi với nước dãi, thế là chúng dính chặt vào nhau trong một cái hôn nhớp nháp chạy khắp cơ thể chúng. Bộ phận sinh dục của chúng sượt qua nhau.

Giữa chúng xảy ra nhiều chuyện.

Và rất chậm.

Con ốc sên bên phải đưa bộ phận sinh dục đực của mình hình một cái mũi nhọn canxi vào trong âm đạo đầy trứng của con ốc sên bên trái. Nhưng con này còn chưa đạt đến độ lịm đi thì đến lượt nó đưa bộ phận sinh dục đực đang cương lên của mình ra và ấn vào trong bạn tình của nó.

Cả hai con đều cảm thấy thỏa mãn từ việc đưa vào và được đưa vào cùng lúc. Có một bộ phận sinh dục cái được đặt trên một bộ phận sinh dục đực, chúng có thể biết được song song mọi cảm giác của cả hai giới.

Con sên bên phải cảm thấy cực khoái đực đầu tiên. Nó vặn mình khác đi và căng người ra, một dòng điện chạy qua cơ thể. Bốn cái râu có mắt của hai con lưỡng tính nối vào nhau. Dãi chuyển thành bọt, rồi thành bọt nước. Đó là một điệu nhảy áp sát nhau, và cảm giác càng được kích thích bởi sự chậm rãi của các động tác.

Con sên bên trái dựng đứng râu lên. Đến lượt nó cảm nhận được sự cực khoái đực. Nhưng vừa lúc nó mới phóng tinh thì cơ thể nó sinh ra một đợt hưng phấn thứ hai, lần này từ bộ phận sinh dục cái. Con sên bên phải, cũng đến lượt nó, biết cảm giác thỏa mãn cái.

Thế là râu chúng đổ phục xuống, các mũi tên tình yêu của chúng co lại, các bộ phận sinh dục cái khép vào… Sau khi hành động kết thúc, đôi tình nhân biến thành những cục nam châm cùng cực. Chúng đẩy nhau. Hiện tượng xưa như Trái đất. Hai cái máy cho và nhận khoái lạc chầm chậm rời nhau, trứng của chúng được thụ tinh bằng tinh trùng của bạn tình.

Trong khi 103 683 vẫn há hốc mồm, còn bị ảnh hưởng bởi vẻ đẹp của màn diễn đó, 4 000 lao vào tấn công một con sên. Nó muốn tận dụng sự mệt mỏi sau ân ái để mổ bụng con béo hơn trong hai con. Nhưng quá muộn, chúng đã lại bịt mình trong vỏ.

Con lính già không bỏ cuộc, nó biết là chúng sẽ phải chui ra. Nó ngồi rất lâu. Cuối cùng một con mắt nhút nhát sau đó cả một cái râu luồn ra khỏi vỏ. Con thuộc lớp chân bụng thò ra xem thế giới xung quanh cuộc sống nhỏ bé của mình thế nào.

Khi cái râu thứ hai xuất hiện, 4 000 lao vào và lấy răng cắn hết sức mình vào mắt con vật. Nó muốn cắt đứt con mắt. Nhưng con vật thân mềm cong người lại, ngoạm luôn nhà thám hiểm vào cái vỏ xoắn của mình.

Phlúp!

Làm thế nào để cứu nó?

103 683 suy nghĩ, đã có một ý tưởng lóe lên ở một trong ba bộ não của nó. Nó lấy hàm ngoạm một hòn sỏi và bắt đầu đập hết sức vào cái vỏ. Chắc chắn là nó vừa phát minh ra búa, nhưng đó là vỏ sên, không phải gỗ bông bấc. Những tiếng tốc tốc chỉ tạo thành tiếng nhạc. Phải tìm cách khác.

Một ngày huy hoàng, vì bây giờ kiến phát minh ra đòn bẩy. Nó cầm một cái que chắc, một hòn sỏi để làm trục, sau đó nó ấn mạnh hết sức để lật ngửa con vật to nặng. Nó phải làm đi làm lại nhiều lần. Cuối cùng, cái vỏ lúc lắc lên trước xuống sau, rồi lật ra. Cái miệng chổng ngược lên cao. Nó đã thành công!

 103 683 trèo lên các đường khía xoắn, nghiêng bên trên cái miệng sâu như giếng do cái vỏ trũng xuống tạo nên, thả mình rơi vào trong về phía con thân mềm. Sau một đoạn trượt dài, cú ngã của nó nhẹ dần đi bởi một thứ chất nâu như keo. Ghê tởm thứ nước dãi béo mà nó đang lội bì bõm ở trong này, nó bắt đầu xé các sợi mềm. Nó không thể dùng tới axít được, nó có thể cũng có nguy cơ tan biến vào trong đó.

Những thứ chất lỏng mới nhanh chóng hòa lẫn với dãi: máu trong suốt của ốc sên. Con vật đang hoảng sợ thư giãn bằng một cú co thắt đẩy luôn hai con kiến ra khỏi vỏ.

Vô sự, chúng vuốt ve râu nhau hồi lâu.

Con sên hấp hối muốn bỏ chạy, nhưng nó làm mất nội tạng của mình trên đường. Hai con kiến đuổi kịp và kết liễu nó dễ dàng. Kinh hoàng, bốn con lớp chân bụng kia, thò râu-mắt ra để theo dõi màn vừa rồi, co rúm tít dưới đáy vỏ mình và cả ngày sẽ không nhúc nhích ra khỏi đó.

Sáng hôm đó, 103 683 và 4 000 ních đầy thịt sên. Chúng cắt nó thành miếng và ăn theo kiểu bifteak ấm ngâm trong dãi của con sên. Thậm chí chúng thấy cả túi âm đạo đầy trứng. Món trứng sên tẩm muối! Một trong những món yêu thích của kiến đỏ hung, một nguồn vitamin, chất béo, đường và protein quý giá…

Cái diều tập thể của chúng đầy đến tận miệng, sau khi nạp đầy năng lượng mặt trời, chúng lên đường hướng Đông Nam.

 

 

PHÂN TÍCH CÁC PHEROMON: (Thí nghiệm thứ ba mươi

tư). Tôi đã nhận dạng được một vài phân tử truyền tin của kiến bằng cách sử dụng một phổ kế và một máy sắc ký. Như thế tôi có thể tiến hành một bảng phân tích hóa học cuộc trao đổi giữa một con kiến đực và một con kiến thợ, được ghi lại lúc 10 giờ tối. Con đực đã phát hiện ra một mẩu ruột bánh mì. Đây là những gì nó đã phát:

- Methyl-6

- Methyl-4 hexanone-3 (2 lần phát)

- Ketone

- Octanone-3

Rồi thêm lần nữa:

- Ketone

- Octanone-3 (2 lần phát)

Edmond Wells,

Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.

 

 

Trên đường, chúng gặp nhiều con sên khác. Tất cả đều trốn cứ như chúng đã thỏa thuận với nhau: “Những con kiến này rất nguy hiểm”. Thế nhưng cũng có một con không trốn. Thậm chí nó còn thò hết cả người ra ngoài.

Hai con kiến lại gần, tò mò. Con vật bị nghiến nát hoàn toàn bởi một vật nặng. Vỏ nó vụn nát. Thân nó vỡ tan và văng khắp một bề mặt rộng.

103 683 nghĩ ngay tới vũ khí bí mật của bọn mối. Chúng chắc phải gần tổ của kẻ thù. Nó xem xét cái xác gần hơn. Cú va chạm rất rộng, gọn, cực kỳ mạnh. Chẳng ngạc nhiên là với một vũ khí như thế, chúng phá tan tành được trạm La-chola-kan!

103 683 đã quyết. Cần phải thâm nhập vào được tổ mối và tìm hiểu, hoặc tốt hơn nữa, ăn cắp vũ khí của chúng. Nếu không cả Liên bang có nguy cơ bị cán thành bột!

Nhưng bỗng nhiên gió to nổi lên. Vuốt của chúng không kịp bám vào mặt đất. Cơn bão hút chúng lên trời. 103 683 và 4 000 không có cánh… Chúng vẫn bay được.

 

 

Vài giờ sau, trong khi nhóm trên mặt đất hơi thiu thiu ngủ, máy bộ đàm lại loẹt xoẹt.

- Alô, chị Doumeng? Xong rồi, chúng tôi đã xuống đến dưới.

- Thế nào? Các anh nhìn thấy gì?

- Đó là một ngõ cụt. Có một bức tường bằng bê tông và bằng thép mới được xây. Có vẻ như là tất cả dừng ở đây… Còn có thêm một câu viết nữa.

- Anh đọc đi!

- Làm thế nào để xếp được bốn hình tam giác bằng nhau với sáu que diêm?

- Thế thôi à?

- Không, có các nút bấm với các chữ cái, chắc chắn là để nhấn câu trả lời.

- Không có một hành lang nào ở bên cạnh à?

- Chẳng có gì.

- Anh cũng không thấy xác những người kia à?

- Không, chẳng có gì… hừm… nhưng có dấu chân. Cứ như hàng đống giày đã giậm giậm ngay trước bức tường này.

- Chúng ta làm gì bây giờ? một hiến binh thì thầm, chúng ta trèo lên à?

Bilsheim xem xét kỹ lưỡng chướng ngại vật. Tất cả những biểu tượng này, tất cả các tấm thép và bê tông này, phải giấu một cái máy. Và rồi những người kia, họ đã bay đi đâu?

Sau lưng ông, các hiến binh ngồi trên bậc thang. Ông tập trung chú ý lên các nút bấm. Ông phải ấn theo một trật tự chính xác những chữ cái này. Jonathan Wells đã làm trong xưởng khóa, hẳn anh ta đã làm hệ thống an toàn cho cửa các tòa nhà. Phải tìm ra từ mã.

Ông quay lại phía người của mình.

- Các anh có diêm không?

Máy bộ đàm hết kiên nhẫn.

- Alô, cảnh sát trưởng Bilsheim, anh đang làm gì đấy?

- Nếu thật sự chị muốn giúp chúng tôi: hãy thử xếp bốn hình tam giác bằng nhau với sáu que diêm. Ngay khi chị tìm thấy giải pháp, chị gọi cho tôi.

- Anh coi thường tôi hả, Bilsheim?

 

Cơn bão cuối cùng cũng dịu đi. Trong vài giây, gió giảm bớt vũ điệu của mình; lá, bụi, côn trùng, lần nữa, lại phải theo luật trọng lực và rơi xuống vô định theo trọng lượng tương ứng.

103 683 và 4 000 dính sát xuống mặt đất cách nhau vài chục đầu. Chúng tìm thấy nhau, không một vết thương, và xem xét hiện trường: một vùng đầy sỏi chẳng giống chút gì quang cảnh mà chúng rời đi. Không có một cây nào, ở đây, chỉ có vài cây cỏ dại rải rác hú họa theo những cơn gió. Chúng không biết chúng đang ở đâu…

Trong khi chúng tạm tập hợp sức lực của mình để rời khỏi chỗ thê lương này, bầu trời quyết định chứng tỏ sức mạnh lần nữa. Những đám mây ngùn ngụt kéo về, chuyển sang đen kịt. Một tiếng sét nổ vang, tách không khí và giải phóng tất cả điện áp được tích trữ.

Tất cả các loài vật hiểu thông điệp này của thiên nhiên. Những con ếch lặn xuống, những con ruồi trốn dưới đám sỏi, những con chim bay thấp hơn.

Mưa bắt đầu rơi. Hai con kiến phải tìm khẩn cấp một chỗ trốn. Mỗi giọt mưa có thể gây tử vong. Chúng vội đi về phía một hình thù nhô lên, nổi bật ở đằng xa kia, cây hoặc mỏm đá.

Dần dần, xuyên qua những giọt mưa mau và sương mù sát mặt đất, hình thù đó hiện lên rõ hơn. Không phải đá cũng không phải cây con. Đó là một nhà thờ thật sự bằng đất, và đỉnh các ngọn tháp của nó sắp mất hút trong đám mây. Sốc.

Đó là một tổ mối! Tổ mối miền Đông!

103 683 và 4 000 bị kẹp giữa cơn mưa giông kinh khủng và tổ kẻ thù. Chắc chắn là chúng tính đi thăm nó, nhưng không phải trong điều kiện này! Hàng triệu năm hận thù và kình địch ngăn chúng tiến lên.

Nhưng không lâu. Sau chót, đúng là để đi dò xét tổ mối mà chúng tới tận đây. Thế rồi chúng vừa run vừa tiến tới phía một lối vào tối om nằm ở chân tòa nhà. Râu dựng đứng, hàm bành ra, chân nhẹ nhàng hạ xuống, chúng sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Tuy nhiên, trái với mọi mong đợi, không có một lính nào ở lối vào tổ mối.

Hoàn toàn không bình thường. Xảy ra chuyện gì vậy?

Hai con kiến vô tính đi vào bên trong cái tổ rộng thênh thang. Sự tò mò của chúng đua tranh với sự cẩn trọng cơ bản. Phải nói là nơi này không giống chút gì với một tổ kiến. Những bức tường được làm từ một vật liệu ít mủn hơn nhiều so với đất, một thứ xi măng cứng như gỗ. Các hành lang hết sức ẩm ướt. Không có chút gió nào. Và không khí nhiều khí cacbonic một cách bất bình thường.

Chúng tiến vào bên trong đã được 3°-thời gian, vẫn không gặp một lính gác nào! Hoàn toàn không bình thường… Hai con kiến bất động, râu chúng sờ soạng hỏi ý kiến nhau. Quyết định được đưa ra khá nhanh: tiếp tục.

Nhưng cứ mải miết tiến lên trước, chúng hoàn toàn bị mất phương hướng. Cái tổ lạ hoắc này là một mớ bòng bong còn ngoắt ngoéo hơn cả tổ quê hương của chúng. Thậm chí các mùi đánh dấu mốc từ tuyến Dufour của chúng cũng không có một chút nào trên tường. Chúng không còn biết là chúng đang ở phía trên hay ở phía dưới so với mặt đất nữa!

Chúng cố quay trở lại, điều đó cũng chẳng giải quyết được vấn đề. Chúng không ngừng khám phá ra những hành lang mới với các hình thù kỳ lạ. Chúng thực sự lạc đường.

Đúng lúc đó 103 683 nhận thấy một hiện tượng kỳ lạ: một ánh sáng! Hai con chiến binh hết sức ngạc nhiên. Ánh sáng lờ mờ ở chính giữa một tổ mối hoang vắng, thật là kỳ cục. Chúng tiến về phía nguồn sáng.

Đó là một kiểu ánh sáng vàng cam thỉnh thoảng chuyển sang xanh lá cây hoặc xanh lục. Sau một cú lóe lên hơi mạnh, nguồn sáng tắt ngóm. Sau đó nó hoạt động trở lại, để bắt đầu nhấp nháy, bị phản chiếu lại bởi vỏ kitin lấp lánh của hai con kiến.

Như bị thôi miên, 103 683 và 4 000 lao về phía cái đèn hầm đó.

 

 

Bilsheim nhảy cẫng lên vì phấn khích: ông đã hiểu! Ông chỉ cho các hiến binh xếp các que diêm thế nào để có bốn hình tam giác. Vẻ mặt ngơ ngác, rồi những tiếng hét phấn khởi.

Solange Doumeng, bị hút vào cuộc chơi, tuôn một hơi:

- Anh đã tìm ra rồi à? Anh đã tìm ra rồi à? Nói cho tôi đi!

Nhưng người ta không vâng lệnh bà nữa, bà ta nghe thấy tiếng ầm ĩ của các giọng nói lẫn với tiếng máy móc. Và im lặng lại rơi xuống.

- Chuyện gì xảy ra thế Bilsheim? Nói cho tôi đi!

Cái máy bộ đàm bắt đầu loẹt xoẹt dữ dội.

- Alô! Alô!

- Vâng (tiếng lẹt xẹt), chúng tôi đã mở đường. Đằng sau có một (tiếng lẹt xẹt) hành lang. Nó đi sang bên (tiếng lẹt xẹt) phải. Chúng tôi đi đây!

- Chờ đã! Anh làm thế nào để có bốn hình tam giác?

Nhưng Bilsheim và người của ông không nghe thấy các thông điệp trên mặt đất nữa. Cái loa ở máy của họ không chạy, chắc là bị chập mạch. Họ không nghe thấy gì nhưng vẫn có thể nói được.

- À! không thể tin nổi, chúng tôi càng tiến thì đường hầm càng được xây cẩn thận. Có một cái vòm, và đằng xa có một tia sáng. Chúng tôi đi tới đó đây.

- Chờ đã, anh nói với tôi là một tia sáng, ở dưới đó á? Solange Doumeng gào rát cổ một cách vô ích.

- Chúng ở đây!

- Ai ở đó? Mẹ kiếp! Các xác chết à? Trả lời đi!

- Chú ý…

Người ta nghe thấy một loạt tiếng nổ mạnh, tiếng hét rồi liên lạc bị cắt đứt.

Cái dây chão không tuột thêm nữa; thế nhưng nó vẫn căng. Cảnh sát trên mặt đất nắm lấy nó và kéo, cho là nó bị vướng. Họ tụm ba… tụm năm ở đó. Đột nhiên, nó tuột ra.

Họ kéo cái dây lên và cuốn lại, không phải ở trong bếp mà trong phòng ăn, nó thành một cuộn khổng lồ. Cuối cùng họ tới cái đầu dây bị đứt, nham nhở, như là răng nhay nó.

- Chúng ta làm gì, thưa chị? một trong số cảnh sát thì thầm.

- Không gì hết. Nhất là chúng ta không làm gì hết. Không gì hết trơn. Không một từ cho cánh báo chí, không một từ dù bất kỳ là gì, và các anh xây bịt lại cho tôi cái kho chứa đồ này nhanh nhất có thể được. Điều tra kết thúc. Tôi đóng hồ sơ và người ta sẽ không bao giờ nói với tôi về cái kho chứa đồ đáng nguyền rủa này nữa! Nào, làm nhanh lên, mua gạch và xi măng. Còn anh, giải quyết vấn đề với các góa phụ của hiến binh.

Đầu giờ chiều, trong khi cảnh sát sắp đặt những viên gạch cuối cùng, một tiếng động không rõ lắm vang lên. Ai đó đang trèo lên! Họ mở lối đi. Một cái đầu ló ra khỏi chỗ tối tăm sau đó là toàn thân của người thoát nạn. Một hiến binh. Cuối cùng họ sẽ biết được chuyện gì xảy ra dưới đó. Nỗi sợ hãi tuyệt đối hiện trên khuôn mặt anh ta. Một vài cơ mặt còn bị co cứng như do đánh nhau. Một bóng ma thật sự. Đầu mũi của anh ta bị cào nát và chảy nhiều máu. Anh ta run rẩy, mắt trợn ngược.

- Gebegeeeege, anh ta nói.

Một màng nước dãi chảy từ cái miệng trề xuống. Anh ta vuốt lên mặt một bàn tay đầy vết thương mà cái nhìn thành thạo của các đồng nghiệp thấy giống như nhiều nhát dao đâm.

- Chuyện gì xảy ra thế? Anh bị tấn công à?

- Geuuuubegeu!

- Còn ai sống sót ở dưới đó không?

- Beugeugeeebebeggebee!

Vì anh ta không thể nói thêm nhiều hơn nữa, người ta chăm sóc các vết thương của anh ta, cho anh vào một trung tâm chăm sóc tâm thần và người ta bịt cửa kho chứa đồ lại.

 

 

Tiếng bước chân nhỏ nhất của chúng gây nên sự thay đổi cường độ ánh sáng. Ánh sáng rung rinh, cứ như nó nghe thấy chúng đang tới, cứ như nó sống.

Hai con kiến đứng bất động, để biết đích xác. Ánh sáng nhanh chóng khuyếch đại, cho tới khi chiếu sáng hết những hốc ngoằn ngoèo nhỏ nhất của các hành lang. Hai kẻ do thám vội vàng trốn để không bị cái đèn kỳ lạ phát hiện. Sau đó, tận dụng lúc cường độ ánh sáng giảm, chúng lao về phía nguồn sáng.

Đó là một con bọ phát lân quang. Một con đom đóm đang động dục. Ngay khi phát hiện ra những khách không mời, nó tắt hoàn toàn… Nhưng vì không có gì xảy ra, nó lấy lại từ từ một chút ánh sáng xanh yếu ớt, cẩn trọng để nhỏ.

103 683 tung các mùi không tấn công. Mặc dù tất cả các loài sâu bọ cánh cứng hiểu ngôn ngữ này, nhưng con đom đóm không trả lời. Ánh sáng xanh lá cây của nó xỉn đi, chuyển sang màu vàng trước khi từ từ trở nên đo đỏ. Hai con kiến cho là màu mới này diễn đạt một câu hỏi.

Chúng tôi bị lạc trong tổ mối này, nhà thám hiểm già nói.

Đầu tiên, con kia không trả lời. Sau một vài độ, nó bắt đầu nhấp nháy, điều đó có thể diễn tả niềm vui nhưng cũng có thể là tức tối. Trong lúc nghi ngờ, các con kiến chờ đợi. Bỗng nhiên con đom đóm đi vào trong một hành lang cắt ngang đồng thời nhấp nháy ngày càng nhanh hơn. Cứ như nó muốn chỉ cái gì đó. Chúng đi theo nó.

Giờ chúng ở trong một khu vực còn mát và ẩm ướt hơn. Những tiếng kêu sầu thảm văng vẳng, người ta không biết ở đâu. Giống như những tiếng kêu tuyệt vọng lan rộng dưới dạng mùi và âm thanh.

Hai con thám hiểm hỏi. Thế nhưng, dù con côn trùng ánh sáng không trả lời, nó vẫn hoàn toàn nghe được. Và như để trả lời câu hỏi của chúng, nó sáng lên và tắt đi bằng từng đợt giật giật dài, như muốn nói: Đừng sợ, theo tôi.

Cả ba ngày càng đi vào sâu hơn trong tầng hầm xa lạ và cứ như thế tới một khu vực rất lạnh, ở chỗ đó các hành lang rộng hơn rất nhiều.

Những tiếng kêu tiếp tục, mạnh dồn dập.

Chú ý! 4 000 đột nhiên phát.

103 683 quay lại. Con đom đóm chiếu vào một con quái vật đang tiến lại gần, khuôn mặt nhăn nhúm của người già, thân bị bọc trong một tấm vải liệm trắng trong suốt. Con chiến binh hét lên một mùi khiếp sợ mạnh làm nghẹt thở hai người bạn đồng hành của nó. Cái xác ướp tiếp tục tiến, nó thậm chí có vẻ nghiêng mình để nói với chúng. Thực tế, nó bị chới với ra phía trước. Nó ngã sóng soài trên mặt đất. Cái vỏ mở ra. Và con già khụ quái dị biến thành một đứa bé mới sinh...

Một con nhộng mối!

Nó phải giữ thăng bằng trong một góc. Bị phanh bụng, xác ướp tiếp tục vặn vẹo và đẩy ra những tiếng kêu sầu não. Vậy ra chính là nó, nguồn gốc của những tiếng kêu.

Và xác ướp, còn nhiều cái khác. Vì ba con côn trùng giờ đang ở trong một nhà trẻ. Hàng trăm nhộng mối xếp thành hàng thẳng đứng trên tường. 4 000 kiểm tra chúng và thấy là một số bị chết vì thiếu chăm sóc. Những đứa sống sót tỏa các mùi tuyệt vọng để gọi vú nuôi. Đã ít nhất là 2° chúng chưa được liếm láp, tất cả chúng đang chết vì đói lả.

Không bình thường. Không bao giờ một loài côn trùng sống thành xã hội bỏ rơi trứng nhộng của mình, dù chỉ còn một 1°-thời gian. Hoặc là… Một ý nghĩ giống nhau chạy qua đầu hai con kiến. Hoặc là… Các con thợ chết hết và chỉ còn lại mỗi nhộng mà thôi!

Con đom đóm nhấp nháy tiếp, ra hiệu cho chúng theo nó trong dãy hành lang mới. Một mùi kỳ lạ tràn ngập không khí. Con chiến binh đang đi trên một cái gì đó cưng cứng. Nó không có mắt đơn hồng ngoại và không nhìn được trong bóng tối. Ánh sáng sống tiến lại gần và chiếu chân con 103 683. Xác một chiến binh mối! Nó cũng khá giống một con kiến, ngoại trừ người nó toàn màu trắng và không có bụng tách rời…

Và những xác chết trắng này, có hàng trăm cái phủ trên mặt đất. Một cuộc tàn sát thảm khốc! Và kỳ lạ nhất: tất cả các cơ thể đều nguyên vẹn. Không có đánh nhau! Cái chết chắc phải như sét đánh. Các dân cư bị bất động trong tư thế làm việc hàng ngày. Vài con có vẻ đang trao đổi hay đang chẻ củi giữa những chiếc hàm của mình. Cái gì có thể gây ra thảm họa như thế?

4 000 xem xét những bức tượng kỳ lạ này. Chúng bị ngấm hơi cay. Một thoáng rùng mình chạy dọc cơ thể hai con kiến. Đó là khí độc. Vậy là điều đó giải thích tất cả: sự biến mất của đoàn thám hiểm đầu tiên tung ra chống tổ mối; người sống sót cuối cùng của đợt thám hiểm thứ hai chết không một vết thương.

Và nếu bản thân chúng không cảm thấy gì, đó là vì khí độc đã phân tán đi từ lâu rồi. Thế nhưng, tại sao những cái nhộng sống sót được? Nhà thám hiểm già tỏa ra một giả thuyết. Chúng có phòng vệ miễn dịch đặc biệt; có thể kén của chúng đã cứu chúng… Bây giờ chắc hẳn chúng đã được chủng chống chất độc. Đó là sự nhờn thuốc nổi tiếng cho phép các loài côn trùng chống lại mọi loại thuốc trừ sâu bằng cách sinh sản ra các thế hệ đột biến.

Nhưng ai đã có thể đưa khí giết người này vào đây? Đó đúng là một việc đau đầu. Thêm lần nữa, khi đi tìm vũ khí bí mật, 103 683 lại rơi vào “những việc khác”, tất cả đều không thể hiểu nổi.

4 000 muốn ra ngoài. Con đom đóm nhấp nháy ra hiệu tán thành. Hai con kiến đưa vài mẩu xenlulô cho các ấu trùng có thể sống được, sau đó đi tìm lối ra. Con đom đóm theo chúng. Dần dần theo đường chúng tiến, các xác lính mối nhường chỗ cho xác mối thợ phụ trách chăm sóc mối chúa. Một số con còn đang giữ những quả trứng ở răng mình!

Kiến trúc càng ngày càng trở nên điêu luyện hơn. Các hành lang, cắt theo hình tam giác, được chạm khắc nhiều ký hiệu. Con đom đóm đổi màu và bắt đầu tỏa ánh sáng phơn phớt xanh. Chắc là nó phải nhận ra cái gì đó. Quả vậy, một tiếng thở hổn hển vang lên từ cuối hành lang.

Bộ ba tới trước một kiểu chính điện được năm lính gác khổng lồ bảo vệ. Tất cả đều đã chết. Và lối vào bị nghẽn bởi các cơ thể bất động của khoảng hai chục con thợ nhỏ. Hai con kiến dẹp chúng ra và nhón qua chúng từng bước một.

Một cái hang hình cầu gần như hoàn hảo hiện ra. Phòng mối chúa. Tiếng động phát ra từ đó.

Con đom đóm tạo một ánh sáng trắng đẹp, chiếu sáng, ở giữa phòng, một loại sên kỳ lạ. Đó là mối chúa, một bức biếm họa của kiến chúa. Cái đầu nhỏ của nó và bộ ngực còi cọc được kéo dài bởi một cái bụng quái dị dài gần năm mươi đầu. Cái phần phụ nở to này liên tục bị thúc vì co thắt.

Cái đầu nhỏ cử động vì đau, phát ra những tiếng kêu bằng âm thanh và bằng mùi. Các xác chết của kiến thợ bịt lối vào kín đến nỗi khí độc đã không thể vào được. Nhưng con mối chúa đang chết vì thiếu chăm sóc.

Nhìn bụng nó kìa! Bọn nhỏ đẩy từ bên trong và nó không tài nào tự đẻ được một mình.

Con đom đóm trèo lên trần và vô tư tỏa ra một ánh sáng màu da cam giống như màu tràn ngập trong các bức tranh của Georges de La Tour.

Dưới sự cố gắng liên hợp của hai con kiến, các quả trứng bắt đầu tuôn ra từ cái túi đẻ to đùng. Đó thật sự là một cái vòi cho sự sống. Con mối chúa có vẻ đỡ đau, nó ngừng kêu.

Nó hỏi bằng ngôn ngữ mùi phổ thông sơ đẳng ai đã cứu nó? Nó ngạc nhiên khi nhận ra mùi của kiến. Chúng là những con kiến bịt mặt?

Những con kiến bịt mặt là một loài rất có khiếu với hóa học hữu cơ. Những con côn trùng đen lớn, chúng sống ở miền Đông Bắc. Chúng biết làm giả bất kỳ pheromon nào: thông hành, dấu vết, truyền thông… chỉ đúng mỗi bằng cách trộn chuẩn các loại nhựa, phấn hoa và nước bọt.

Một khi sự ngụy trang của chúng được tôi luyện, chúng vào được, ví dụ như trong các tổ mối mà không bị phát hiện. Thế là chúng cướp phá và giết người, mà không một nạn nhân nào có thể nhận dạng được chúng!

Không, chúng tôi không phải là kiến bịt mặt.

Mối chúa hỏi chúng có còn ai sống sót trong tổ không, và những con kiến trả lời không. Nó nói mong ước được chết, mong muốn người ta rút ngắn sự đau đớn của nó đi. Nhưng trước đó, nó muốn tiết lộ điều gì ấy.

Đúng, nó biết tại sao tổ của nó bị phá hủy. Ít lâu nay, mối đã phát hiện ra đầu Đông của thế giới. Kết thúc của thế giới. Đó là một xứ sở đen, trơn, nơi đó tất cả bị phá hủy.

Ở đó có những con vật lạ thường sống, chúng rất nhanh và rất hung dữ. Chính chúng là những người bảo vệ điểm tận cùng của thế giới. Chúng được trang bị những tấm chắn đen nghiền nát bất cứ thứ gì. Và bây giờ chúng sử dụng cả khí độc!

Đó là những gì gợi lại tham vọng cũ của mối chúa Bi-stin-ga. Tới được một trong các điểm tận cùng của thế giới. Liệu có thể được không? Hai con kiến sửng sốt.

Đến tận giờ chúng vẫn nghĩ là Trái đất rộng đến nỗi không thể nào đến được bờ. Thế mà con mối chúa này cho là điểm tận cùng của thế giới gần đây thôi! Và nó được những con quái vật canh gác… Giấc mơ của mối chúa Bi-stin-ga liệu có thực hiện được không?

Cả câu chuyện với chúng có vẻ vĩ đại đến nỗi chúng không biết phải bắt đầu bằng câu hỏi nào.

Nhưng tại sao những “người bảo vệ điểm tận cùng của thế giới” này lại tới tận đây? Chúng muốn chiếm các tổ miền Tây?

Con mối chúa to béo không biết gì thêm. Giờ nó chỉ muốn chết. Nó năn nỉ. Nó không biết làm tim ngừng đập. Phải giết nó.

Thế là hai con kiến chặt đầu mối chúa, sau khi con này chỉ cho chúng lối ra. Sau đó chúng ăn vài quả trứng nhỏ và oai vệ rời tổ giờ chỉ còn là một thành phố ma. Chúng đặt ở lối vào một pheromon thuật lại thảm kịch của nơi này. Vì với tư cách là các nhà thám hiểm của Liên bang, chúng không được bỏ qua bất cứ một nhiệm vụ nào của mình.

Con đom đóm chào chúng. Chắc là nó cũng bị lạc vào tổ mối lúc tránh mưa. Bây giờ trời đẹp trở lại, nó sẽ tiếp tục việc hàng ngày của mình: ăn, tỏa sáng để thu hút những con cái, sinh sản, ăn, tỏa sáng để thu hút những con cái, sinh sản… Một đời đom đóm mà!

Chúng hướng ánh mắt và râu của mình về phía Đông. Từ đây, chúng không nhận ra được gì to tát; nó không ngăn được chúng biết là: điểm tận cùng của thế giới không xa lắm. Nó ở đằng kia.

 

SỐC VĂN MINH: Sự tiếp xúc giữa hai nền văn minh luôn là

một thời điểm tế nhị. Trong số những nền văn minh lớn đang đề cập tới mà con người biết, người ta có thể nêu ra trường hợp của những người da đen châu Phi bị bắt làm nô lệ ở thế kỷ XVIII.

Phần lớn các dân cư bị biến thành nô lệ sống sâu trong đất liền tại các vùng đồng bằng hay rừng núi. Họ chưa bao giờ thấy biển. Đột nhiên một ông vua láng giềng tới gây chiến với họ mà chẳng có lý do rõ ràng, sau đó, thay vì giết họ, người ta coi họ như tù binh, xích họ lại và bắt họ đi ra hướng bờ biển.

Sau chuyến đi đó họ phát hiện ra hai điều không thể hiểu được: 1) biển mênh mông, 2) người châu Âu da trắng. Thế nhưng biển, nếu họ chưa 10000 bao giờ trực tiếp nhìn thấy, thì, qua những câu chuyện, được biết đến như đất nước của người chết. Về phần người da trắng, như những người ngoài hành tinh với họ, họ có một mùi kỳ lạ, da họ có màu kỳ lạ, họ có quần áo kỳ lạ.

Rất nhiều người chết vì sợ, những người khác, hoảng hốt, nhảy khỏi tàu và bị cá mập ăn thịt. Những người sống sót, họ, đi hết từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Họ thấy gì? Ví dụ những người da trắng uống rượu vang. Và họ chắc chắn đó là máu, máu của người của họ.

Edmond Wells,

Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.

Con cái 56 đói. Không chỉ một cơ thể, mà toàn dân cư đòi khẩu phần calo của mình. Làm thế nào để nuôi cả bầy mà nó đang chứa trong bụng? Cuối cùng nó quyết định ra khỏi cái lỗ đẻ trứng, lê khoảng vài trăm đầu, mang về ba cái lá thông rồi nó liếm và vội vã nhai tóp tép.

Chưa đủ. Nó lẽ ra đã đi săn tốt, nhưng không còn sức nữa. Và chính nó cũng có nguy cơ làm mồi ngon cho hàng nghìn thú ăn thịt ẩn nấp xung quanh. Thế là nó lún sâu trong cái lỗ của mình để chờ chết.

Thay vì điều đó, một quả trứng xuất hiện. Cư dân Chli-pou-kan đầu tiên của nó! Nó vừa mới có cảm giác là quả trứng đó tới. Nó lắc những cái chân tê cóng và ấn hết sức lên ruột. Cần phải hoạt động được, nếu không mọi chuyện kết thúc. Quả trứng lăn. Nó bé tí, gần như đen mà lẽ ra phải có màu xám.

Nếu nó để quả trứng nở, nó sẽ cho ra đời một con kiến chết ngay lúc sinh. Và còn nữa… nó thậm chí sẽ không nuôi được quả trứng cho tới lúc nở. Thế là nó ăn luôn đứa con đầu tiên của mình.

Thức ăn đó ngay lập tức cho nó thêm một chút năng lượng. Bớt đi một quả trứng trong bụng của nó và thêm một quả trứng trong cái dạ dày của nó. Trong sự hy sinh này, nó tìm được sức đẻ quả trứng thứ hai, vẫn sẫm màu, vẫn nhỏ như quả thứ nhất.

Nó nhấm nháp quả trứng. Nó cảm thấy khỏe hơn nhiều. Quả trứng thứ ba sáng hơn một tí. Nó vẫn ngốn luôn.

Chỉ đến quả thứ mười thì kiến chúa mới thay đổi chiến lược. Các quả trứng của nó trở nên có màu xám, kích thước bằng nhãn cầu của nó. Chli-pou-ni đẻ ra ba quả như thế, ăn mất một và để hai quả kia sống, sưởi ấm cho chúng dưới cơ thể mình.

Trong khi nó tiếp tục đẻ, hai quả số đỏ biến thành những ấu trùng dài mà đầu của chúng bất động trong một cái nhăn mặt lạ lùng. Và chúng bắt đầu rên để đòi ăn. Việc tính toán trở nên phức tạp. Cứ ba quả trứng đẻ ra, bây giờ phải cần một cho nó, và hai quả kia để nuôi các ấu trùng.

Đó là làm thế nào, trong chu trình khép kín, người ta sản sinh ra được cái gì đó từ không gì cả. Khi một ấu trùng khá lớn, nó cho ấu trùng ăn một ấu trùng khác… Đó là cách duy nhất để cung cấp các protein cần thiết cho sự biến chuyển thành kiến thật sự của nó.

Nhưng ấu trùng sống sót vẫn đói. Nó vặn vẹo, hét lên. Bữa tiệc các chị em nó không làm nó đỡ đói. Cuối cùng, Chli-pou-ni ăn luôn cố gắng hình thành con đầu tiên của nó.

Mình phải làm được, mình phải làm được, nó nhắc đi nhắc lại. Nó nghĩ tới con đực 327 và đẻ một lúc năm quả trứng sáng hơn nhiều. Nó ngốn hai, và để ba quả kia lớn lên.

Như vậy, từ giết con mới đẻ đến sinh con, cuộc sống thành cuộc tiếp sức. Ba bước tiến lên, hai bước lùi lại. Bài tập thể dục khắt khe kết thúc dẫn đến một nguyên mẫu kiến toàn vẹn đầu tiên.

Con côn trùng bé tí và thiểu năng, do thiếu ăn. Nhưng nó đã tạo ra được cư dân Chli-pou-kan đầu tiên của mình! Hành trình ăn thịt đồng loại vì sự tồn tại trong tổ của nó giờ đã thắng một nửa. Thực thế, con kiến thợ đần đần này có thể di chuyển và mang thức ăn từ thế giới xung quanh về: xác côn trùng, hạt, lá, nấm… Đó là những việc nó làm.

Chli-pou-ni, cuối cùng cũng được nuôi dưỡng bình thường, đẻ ra những quả trứng sáng hơn, chắc hơn. Những cái vỏ cứng bảo vệ trứng khỏi lạnh. Những ấu trùng có kích thước bình thường. Những đứa trẻ sinh ra của thế hệ mới này lớn và to con. Chúng sẽ tạo thành nền tảng của dân cư Chli-pou-kan.

Về phần con kiến thợ thiểu năng đầu tiên, kẻ đã nuôi dưỡng con đẻ trứng, nó nhanh chóng bị giết và bị các em mình nghiến ngấu. Sau đó, mọi vụ giết chóc, mọi nỗi đau mở đầu cho sự hình thành Tổ đều bị lãng quên.

Chli-pou-kan vừa được sinh ra.

 

 

MUỖI: Muỗi là loài côn trùng sẵn sàng đấu tay đôi với con

người nhất. Mỗi người chúng ta đã từng có một ngày, mặc pyjama đứng trên giường, dép đi trong nhà trên tay, mắt rình trần nhà trắng trơn.

Không thể hiểu nổi. Thế nhưng cái làm ngứa chỉ là nước bọt khử trùng ở cái vòi của nó. Không có nước bọt này, mỗi vết đốt có thể nhiễm khuẩn. Và còn nữa, muỗi luôn cẩn trọng chỉ đốt giữa hai điểm tiếp nhận sự đau!

Đối mặt với con người, chiến lược của muỗi đã tiến bộ. Nó đã học được cách trở nên nhanh nhẹn hơn, kín đáo hơn, cất cánh nhanh hơn. Nó càng ngày càng trở nên khó nhận ra. Một số con táo bạo của thế hệ mới nhất không ngần ngại trốn dưới gối nạn nhân của mình. Chúng đã khám phá ra nguyên tắc của “Bức thư bị đánh cắp” của Edgar Allan Poe: chỗ trốn tốt nhất là chỗ gần nhất, vì người ta luôn nghĩ tới việc đi tìm ở chỗ xa hơn chỗ ngay cạnh.

Edmond Wells,

Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.

 

 

Bà Augusta ngắm nghía những chiếc va li của mình đã sẵn sàng. Ngày mai, bà dọn đến phố Sybarites. Điều này có vẻ không tin được, nhưng Edmond đã dự kiến là Jonathan sẽ mất tích và ông đã viết trong di chúc của mình: “Nếu Jonathan chết hay biến mất, và nếu như bản thân cậu ấy không lập chúc thư, tôi mong là Augusta Wells, mẹ tôi, đến ở trong căn hộ của tôi. Nếu bà mất, hoặc nếu bà từ chối di tặng này, tôi mong sẽ là Pierre Rosenfeld thừa kế chỗ đó; và nếu ông ấy cũng từ chối hoặc biến mất, Jason Bragel có thể tới ở…”

Phải công nhận là theo các sự kiện mới đây, Edmond đã không lầm khi dự tính ít nhất bốn người thừa kế. Nhưng Augusta không mê tín, và rồi bà nghĩ rằng ngay cả khi Edmond là người ghét con người, ông cũng không có một lý do nào muốn cái chết cho cháu và mẹ mình. Về phần Jason Bragel, đó là người bạn tốt nhất của ông ấy!

Một ý nghĩ tò mò thoáng qua đầu bà. Có vẻ như Edmond đã tìm cách điều khiển tương lai như thể… tất cả bắt đầu sau cái chết của ông.

 

 

Đã nhiều ngày chúng bước về hướng mặt trời mọc. Sức khỏe của 4 000 không ngừng xấu đi, nhưng con chiến binh già tiếp tục tiến không phàn nàn. Nó thật có lòng dũng cảm và tính tò mò không lay chuyển được.

Vào cuối một buổi chiều, trong khi chúng trèo lên thân một cây phỉ, bỗng nhiên chúng thấy bị kiến đỏ vây. Lại là những con vật miền Nam muốn đi đây đi đó! Cái thân dài ngoẵng của chúng có một ngòi độc mà con nào cũng biết là chỉ một tiếp xúc nhỏ nhất cũng gây chết ngay lập tức. Hai con kiến đỏ hung thích được ở nơi khác.

Ngoài vài lính đánh thuê ngu ngốc, 103 683 còn chưa bao giờ nhìn thấy kiến đỏ ở Bên ngoài rộng lớn. Rõ ràng là các vùng đất miền Đông đáng để được khám phá…

Lắc râu. Kiến đỏ biết giao tiếp cùng kiểu ngôn ngữ của dân Bel-o-kan.

Các ngươi không có pheromon thông hành đúng. Ra ngoài! Đây là đất của chúng tôi.

Kiến đỏ hung trả lời là chúng chỉ ở lại đây ít thời gian thôi, chúng muốn đi tới tận cùng của thế giới phía Đông. Đám kiến đỏ bàn tính với nhau.

Chúng nhận ra hai con kia thuộc Liên bang kiến đỏ hung. Liên bang đó có thể ở xa, nhưng nó mạnh (64 tổ trước mùa ong chia đàn vừa rồi) và tiếng tăm về các loại vũ khí của nó đã vượt qua dòng sông Tây. Có thể tốt hơn hết là không nên kiếm cớ xung đột. Một ngày không tránh được, những con kiến đỏ, một loài di cư, sẽ buộc phải đi qua lãnh địa Liên bang của kiến đỏ hung.

Những cử động râu dần dần bớt đi. Lúc dành cho tổng hợp. Một con kiến đỏ truyền đạt lại ý kiến của cả nhóm:

Các ngươi có thể qua một đêm ở đây. Chúng ta sẵn sàng chỉ cho các ngươi đường đi tới điểm tận cùng của thế giới, và thậm chí dẫn các ngươi tới đó. Đổi lại các ngươi sẽ để cho chúng ta một vài pheromon nhận dạng của các ngươi.

Giao kèo thỏa đáng. 103 683 và 4 000 biết là khi đưa các pheromon, chúng sẽ cho kiến đỏ một tấm giấy thông hành quý báu để đến những vùng đất rộng lớn của Liên bang. Nhưng có thể đi tới tận cùng thế giới và từ đó trở về là vô giá…

Các chủ nhà dẫn chúng về phía chỗ tạm trú, ở trên đó vài cành cây. Chỗ này chẳng giống thứ gì đã từng được biết đến. Kiến đỏ, làm nghề dệt và may, xây tổ tạm thời của chúng bằng cách may ba cái lá cây phỉ sát cạnh nhau. Một cái làm sàn, hai cái kia làm tường bên.

103 683 và 4 000 quan sát một nhóm thợ dệt, đang bận đóng “mái nhà” trước khi đêm xuống. Chúng chọn một cái lá phỉ sẽ dùng làm trần. Để gắn cái lá này với ba cái lá kia, chúng làm thành một cái thang sống, khoảng mười con kiến thợ đứng chồng lên nhau cho tới khi thành một đỉnh có thể với được tới cái lá-trần.

Cái trụ sập xuống nhiều lần. Quá cao.

Thế là kiến đỏ đổi phương pháp. Một nhóm thợ leo lên cái lá-trần, tạo thành một chuỗi bám chặt vào và đung đưa ở đầu lá. Cái dây kiến ấy hạ xuống, xuống nữa để tóm lấy cái thang sống vẫn đang đứng ở phía dưới. Vẫn còn quá xa, thế là một túm kiến đỏ nối thêm vào ở đầu dây.

Sắp được rồi, cái gân lá cong lại. Chỉ còn thiếu vài centimét phía bên phải. Kiến ở trên cái dây tung mình lắc lư để bù vào khoảng cách. Mỗi lần đung đưa, cái dây dãn ra, nó gần như sắp đứt nhưng nó giữ được. Cuối cùng, những chiếc răng của đám kiến nhào lộn ở trên và ở dưới cũng gặp được nhau, tắc!

Công việc thứ hai: cái thang rút lại. Những con kiến ở giữa, hết sức cẩn trọng, ra khỏi hàng, trèo lên vai các đồng nghiệp của chúng, và tất cả mọi người kéo để cho hai cái lá sát lại gần nhau. Cái lá-trần xuôi xuống ngôi làng từng chút một, tỏa bóng mình căng rộng lên trên sàn.

Thế nhưng, khi cái hộp đã có nắp của mình rồi, thì phải gắn chặt nó lại. Một con kiến đỏ già chạy vào trong một ngôi nhà và trở ra huơ lên một ấu trùng to. Đấy là dụng cụ để dệt.

Người ta điều chỉnh cho các mép thật song song, họ giữ chúng chạm vào nhau. Sau đó họ mang ấu trùng tươi đến. Con tội nghiệp ấy đang xây kén cho mình để thanh thản lột xác, người ta chẳng để nó hưởng thú vui đó nữa. Một con thợ cầm cái dây trong cuộn này và bắt đầu tháo ra. Với một chút nước bọt, nó dính đầu sợi chỉ với một cái lá và sau đó đưa cái kén cho người bên cạnh.

ấu trùng, cảm giác là người ta đang kéo dây của mình, làm ra những sợi khác để bù vào. Người ta càng lột trần nó, nó càng lạnh và càng nhả tơ. Các kiến thợ tranh thủ điều đó. Chúng truyền từ răng này sang răng khác con thoi sống và không tiết kiệm lượng sợi. Khi đứa con của chúng chết, kiệt sức, chúng lấy một con khác. Vậy là mười hai ấu trùng đã bị hiến sinh cho duy một công việc này.

Chúng kết thúc việc khâu mép thứ hai của cái lá-trần; ngôi làng giờ mang dáng vẻ của một cái hộp xanh có các cạnh màu trắng. 103 683, đang đi dạo ở đó gần như ở nhà mình, rất nhiều lần nhận ra kiến đen ở giữa đám đông kiến đỏ. Nó không thể ngăn mình chất vấn.

Đó là lính đánh thuê à?

Không, đó là nô lệ.

Thế nhưng, kiến đỏ không nổi tiếng về phong tục theo chế độ nô lệ… Một trong số chúng đồng ý giải thích là mới đây chúng gặp một bầy kiến chủ nô lệ đi về hướng Tây, và thế là bầy này đã đổi những quả trứng kiến đen lấy một cái tổ dệt xách tay.

103 683 không tha cho người đối thoại của mình nhanh như thế và hỏi nó là sau đó cuộc gặp gỡ không quay sang đánh lộn à. Con kia trả lời là không, rằng những con kiến ghê gớm đó đã ăn no nê, chúng chỉ có quá nhiều nô lệ thôi; hơn nữa, chúng sợ cái ngòi chết người của kiến đỏ.

Những con kiến đen sinh ra từ những quả trứng được đổi chác ấy lấy mùi thông hành của chủ chúng và phục vụ họ như là cha mẹ mình. Và làm thế nào mà chúng có thể biết được là di sản di truyền của chúng biến chúng thành những kẻ săn mồi chứ không phải thành những nô lệ? Chúng chẳng biết gì về thế giới bên ngoài ngoài những gì kiến đỏ muốn kể cho chúng.

Các ngươi không sợ chúng nổi dậy sao?

Đúng, đã từng nhiều lần giật mình. Thông thường, kiến đỏ linh cảm và chuẩn bị đối phó trước với các rắc rối bằng cách loại những kẻ ương ngạnh bị cô lập. Hễ kiến đen còn chưa biết rằng chúng bị đánh cắp trong tổ, rằng chúng thuộc một loài khác, chúng vẫn thiếu một động cơ thực sự…

Màn đêm và cái lạnh buông xuống cây phỉ. Người ta cho hai nhà thám hiểm một góc để qua một đêm ngủ đông ngắn.

 

Chli-pou-kan lớn lên từ từ. Đầu tiên người ta tổ chức Cấm Thành. Nó đã không được xây dựng trong một gốc cây, nhưng trong một thứ kỳ lạ bị vùi ở đó; một hộp đồ hộp gỉ, thực ra, trước kia có ba cân mứt quả ở trong, đồ vứt đi từ một trung tâm trẻ mồ côi gần đó.

Trong cung điện mới này, Chli-pou-ni nhiệt tình đẻ trong khi người ta nhồi cho nó đầy đường, mỡ và vitamin.

Những đứa con gái đầu tiên đã xây ngay dưới Cấm Thành một nhà trẻ được sưởi bằng mùn đang phân hủy. Đó là thứ tiện lợi hơn cả, trong lúc chờ đợi mái vòm bằng cành cây và phòng tắm nắng báo hiệu công việc kết thúc.

Chli-pou-ni muốn là tổ của mình hưởng mọi công nghệ nổi tiếng: các gian trồng nấm, kiến bình chứa, gia súc rệp, cây thường xuân làm trụ, phòng lên men mật, phòng sản xuất bột ngũ cốc, phòng lính đánh thuê, phòng gián điệp, phòng hóa học hữu cơ, vân vân…

Và không khí nhộn nhịp ở mọi ngóc ngách. Kiến chúa trẻ biết truyền đạt nhiệt huyết và những mong muốn của nó. Nó không chấp nhận Chli-pou-kan là một thành phố liên bang như những thành phố khác. Nó tham vọng biến thành phố của mình thành một cực tiền tiêu, là điểm đầu của nền văn minh myrmécéen. Hơn nữa, nó có đầy đề xuất.

Ví dụ, người ta đã phát hiện ra một lạch nước ngầm xung quanh tầng -12. Theo nó, nước là một yếu tố chưa được nghiên cứu nhiều. Người ta có lẽ sẽ tìm ra một biện pháp đi được trên mặt nước.

Trong thời gian đầu, một nhóm chịu trách nhiệm nghiên cứu các loài côn trùng sống ở nước ngọt: cà niễng, độc nhãn, rận nước… Có ăn được chúng không? Một ngày nào đó, liệu người ta có thể nuôi được chúng trong các vũng nước được kiểm soát không?

Bài diễn văn đầu tiên nổi tiếng của nó, nó phát biểu về chủ đề rệp:

Chúng ta đang tiến tới một thời kỳ biến loạn chiến tranh. Các loại vũ khí càng ngày càng tối tân hơn. Chúng ta sẽ không thể luôn theo kịp. Một ngày nào đó, có thể săn bắt bên ngoài sẽ trở nên bấp bênh. Chúng ta phải dự đoán được điều tồi tệ nhất. Tổ của chúng ta phải mở rộng xuống sâu nhất có thể. Và chúng ta phải ưu tiên nuôi rệp hơn mọi hình thức cung cấp đường sống khác. Gia súc này sẽ được đặt trong các chuồng nằm ở các tầng sâu nhất…

Ba mươi đứa con gái của nó ra ngoài và mang về hai con rệp sắp đẻ. Sau vài giờ, chúng có khoảng một trăm con rệp nhỏ mà chúng cắt cánh luôn. Chúng xếp đàn gia súc này ở tầng -23, tránh khỏi lũ bọ rùa, và cung cấp cho lũ gia súc đầy đủ lá tươi và cọng đầy nhựa.

Chli-pou-ni phái các nhà thám hiểm đi khắp nơi. Một số con mang về bào tử nấm mũ sau đó được trồng ở các trại trồng nấm. Thậm chí, kiến chúa đầy tham vọng khám phá quyết định thực hiện giấc mơ của mẹ mình: nó trồng một hàng hạt hoa ăn thịt ở biên giới Đông. Nó hy vọng như thế sẽ kìm hãm được một cuộc tấn công của bọn mối có thể xảy ra và vũ khí bí mật của chúng.

Vì nó chưa quên được bí ẩn của vũ khí bí mật, vụ ám sát hoàng tử 327 và dự trữ lương thực giấu dưới đá granit.

Nó phái gấp một nhóm sứ giả đi về hướng Bel-o-kan. Xét một cách chính thức, những sứ giả này được ủy thác báo cho kiến chúa mẹ là tổ thứ sáu mươi lăm được xây dựng và sự gia nhập của tổ vào Liên bang. Nhưng xét một cách không chính thức, chúng sẽ phải cố tiếp tục cuộc điều tra ở tầng -50 của Bel-o-kan.

 

 

Tiếng chuông vang lên khi bà Augusta đang ghim những bức ảnh màu nâu quý giá lên bức tường xám. Bà kiểm tra xem cái xích an toàn đã được cài chưa và hé mở cửa.

Một người đàn ông trung tuổi đứng đó, ăn mặc sạch sẽ; thậm chí không có cả gàu trên ve áo vest của ông ta.

- Chào bà Wells. Tôi xin tự giới thiệu: Giáo sư Leduc, một đồng nghiệp của con trai Edmond của bà. Tôi sẽ không quanh co. Tôi biết bà đã mất cháu trai và chắt của mình trong cái kho chứa đồ. Và còn tám lính cứu hỏa, sáu hiến binh và hai cảnh sát cũng biến mất như thế ở dưới. Thế nhưng, thưa bà… tôi mong được xuống dưới đó.

Augusta không chắc là đã nghe rõ. Bà chỉnh cái máy trợ thính của mình tới âm lượng tối đa.

- Anh là Giáo sư Rosenfeld?

- Không. Leduc. Giáo sư Leduc. Tôi thấy là bà đã từng nghe nói về Rosenfeld. Rosenfeld, Edmond và tôi, cả ba đều là nhà côn trùng học. Chúng tôi có chung một chuyên môn: nghiên cứu kiến. Nhưng chỉ mỗi Edmond tiến trước chúng tôi khá nhiều. Sẽ thật là đáng tiếc nếu không làm cho nhân loại thừa hưởng được nó… Tôi mong được xuống kho chứa đồ của bà.

Khi người ta nghe không rõ, người ta nhìn rõ hơn. Bà xem xét tai của ông Leduc này. Con người có một đặc điểm là giữ trong mình hình dáng quá khứ xa xưa nhất của họ; tai, về mặt đó, thể hiện thai nhi. Dái tai biểu tượng cho đầu, cạnh vành tai cho hình dạng của cột sống, vân vân… Ông Leduc này chắc là một bào thai gầy, và bà Augusta đánh giá dè dặt những bào thai gầy.

- Anh muốn tìm thấy gì trong cái kho chứa đồ này?

- Một quyển sách. Một quyển bách khoa toàn thư trong đó ông ấy ghi chép một cách hệ thống tất cả các công việc của mình. Edmond là người hay bí mật. Chắc ông ấy phải chôn hết dưới đó, và đặt bẫy để giết chết hoặc đẩy lùi những kẻ lỗ mãng. Nhưng tôi, tôi là một người lão luyện và một người lão luyện…

- … rất có thể bị chết nữa! Bà Augusta thêm vào.

- Hãy cho tôi thử cơ may của mình.

- Vào đi, anh…?

- Leduc, Giáo sư Laurent Leduc ở phòng thí nghiệm CNRS 352.

Bà dẫn ông ta tới phía kho chứa đồ. Một dòng chữ lớn màu đỏ được sơn lên bức tường mà cảnh sát xây:

ĐỪNG BAO GIỜ XUỐNG

CÁI KHO CHỨA ĐỒ ĐÁNG NGUYỀN RỦA NÀY NỮA!!!

Bà chỉ nó cho ông ta bằng một cái hất cằm.

- Anh có biết những người trong tòa nhà này nói gì không, anh Leduc? Họ nói đó là một cái miệng của địa ngục. Họ nói rằng cái nhà này ăn thịt người và nó ăn những người tới làm ngứa họng nó… Thậm chí một số người muốn người ta đổ bê tông nó.

Bà nhìn ông ta từ trên xuống dưới.

- Anh không sợ chết hả, anh Leduc?

- Có chứ, ông nói, và ông cười vẻ ranh mãnh. Có chứ, tôi sợ chết ngốc nghếch, mà không biết có gì dưới đáy kho chứa đồ này.

 

 

103 683 và 4 000 đã rời tổ của kiến đỏ thợ dệt từ mấy ngày nay. Hai chiến binh có ngòi nọc nhọn đi cùng chúng. Chúng đã cùng nhau đi rất lâu theo các dấu vết chỉ được phun chút ít pheromon đánh dấu. Chúng đã vượt qua đoạn đường hàng nghìn đầu kể từ cái tổ được dệt trong những cành cây phỉ. Chúng đã gặp đủ loại động vật ngoại lai mà nhiều loài chúng thậm chí không biết tên. Nghi ngờ, chúng tránh tất.

Khi đêm đến, chúng đào đất sâu nhất có thể rồi rúc vào trong, tận dụng luôn hơi ấm êm dịu và sự bảo vệ của hành tinh nuôi dưỡng chúng.

Hôm nay, hai con kiến đỏ dẫn chúng tới tận đỉnh một quả đồi.

Điểm tận cùng thế giới còn xa không?

Đằng kia.

Từ mũi đất của mình, hai con kiến đỏ hung phát hiện, ở tít xa mù khơi về phía Đông, một thế giới của những bụi rậm tối tăm. Những con kiến đỏ báo cho chúng là nhiệm vụ của họ đã kết thúc, rằng họ không theo chúng đi xa hơn nữa. Có một số nơi mà mùi của kiến đỏ không được chào đón.

Hai cư dân Bel-o-kan phải tiếp tục đi thẳng cho tới những cánh đồng của kiến thợ gặt. Những con này sống thường xuyên ở xung quanh “điểm tận cùng thế giới”; chắc chắn họ sẽ biết chỉ dẫn chúng.

Trước khi rời những người dẫn đường của mình, hai con kiến đỏ hung giao các pheromon nhận dạng quý giá của Liên bang, giá thỏa thuận của chuyến đi. Sau đó chúng chạy xuống dốc tới ruộng do những kiến thợ gặt nổi tiếng trồng.

 

 

BỘ XƯƠNG: Nên có một bộ xương ở bên trong hay ở bên ngoài

cơ thể thì tốt hơn?

Khi một bộ xương ở bên ngoài, chúng tạo thành một cái thùng bảo vệ. Thịt tránh được những nguy hiểm bên ngoài nhưng nó trở nên nhão và gần như thành chất lỏng. Và, khi, bất chấp lớp vỏ, một vật nhọn xuyên qua được, thì thiệt hại không thể cứu vãn nổi.

Khi một bộ xương chỉ tạo thành một cột mảnh và cứng ở bên trong cả khối, thịt phập phồng bị phơi ra cho tất cả các kiểu tấn công. Các vết thương nhiều và thường xuyên. Nhưng, đúng là, điểm yếu hiển nhiên này buộc cơ bắp phải cứng hơn và thớ thịt phải chịu đựng được. Thịt tiến hóa.

Tôi đã thấy, nhờ vào tinh thần của mình, nhiều người tôi luyện được các lớp vỏ “trí tuệ” bảo vệ họ khỏi những bực dọc. Họ có vẻ cứng rắn hơn mức bình thường. Họ nói “tôi mặc kệ” và cười tất cả. Nhưng khi một sự phiền lòng xuyên qua được lớp vỏ của họ, thiệt hại khủng khiếp.

Tôi đã thấy những người đau đớn vì một điều phật ý nhỏ nhất, vì một tác động nhỏ nhất, nhưng tinh thần họ không vì thế mà khép lại, họ vẫn nhạy cảm với tất cả và học hỏi được từ mỗi lần tấn công.

Edmond Wells,

Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.

 

 

Bọn chủ nô lệ tấn công!

Sợ hãi ở Chli-pou-kan. Quân trinh sát mệt lử truyền tin trong khu tổ non trẻ.

Chủ nô lệ! Chủ nô lệ!

Tiếng tăm gớm ghiếc của chúng tới trước chúng. Cũng như một số loài kiến ưu tiên đường lối phát triển nào đó - chăn nuôi, tích trữ, trồng nấm hay hóa học -, kiến chủ nô lệ chuyên biệt duy nhất trong lĩnh vực chiến tranh.

Chúng chỉ biết làm mỗi thế, nhưng thực hiện nó giống như một nghệ thuật tuyệt đối. Và cả cơ thể chúng thích nghi với công việc đó. Khớp nhỏ nhất trong chỗ khớp của chúng kết thúc bằng một móc cong, kitin của chúng có độ dày gấp đôi kitin của kiến đỏ hung. Cái đầu hẹp và hình tam giác hoàn toàn không để bất kỳ cái vuốt nào bám vào được. Răng chúng, hình ngà voi lộn ngược lại, là hai thanh kiếm cong vút mà chúng sử dụng một cách khôn khéo đáng gờm.

Về phong tục chủ nô lệ, chúng sinh ra tự nhiên từ sự chuyên biệt hóa cực đoan của loài kiến này. Thậm chí, thiếu chút nữa thì cả loài biến mất, bị hủy diệt bởi chính ý muốn chứng tỏ sức mạnh của mình. Mải mê chinh chiến, những con kiến này không biết xây tổ, nuôi con của chúng, hay thậm chí… tự nuôi bản thân mình nữa. Những chiếc răng-gươm của chúng, thật hiệu quả trong các trận chiến, lại tỏ ra rất bất tiện để tự nuôi dưỡng một cách bình thường. Tuy nhiên, đối với những kẻ hiếu chiến như chúng, bọn chủ nô lệ không ngu ngốc. Vì chúng không còn khả năng thực hiện những việc nội trợ cần thiết cho cuộc sống hàng ngày…, những kẻ khác sẽ làm thay chúng.

Chủ nô lệ chủ yếu tấn công các tổ cỡ nhỏ và trung bình của kiến đen, kiến trắng hay kiến vàng - tất cả những loài không có nọc cũng như không có tuyến axít. Đầu tiên chúng bao vây ngôi làng chúng muốn. Ngay khi những kẻ bị vây hãm nhận ra là tất cả kiến thợ đi ra ngoài bị giết chết hết, những con này quyết định bịt các lối vào. Đó chính là thời điểm mà kiến chủ nô lệ chọn để tung đợt tấn công đầu tiên của mình. Chúng dễ dàng vượt qua mọi tuyến phòng thủ, mở toang các cửa trong tổ, reo rắc sợ hãi ở các hành lang.

Chính lúc đó, kiến thợ hoảng sợ tìm cách mở một lối thoát để cất trứng vào nơi an toàn. Chính xác những gì mà kiến chủ nô lệ đã dự đoán. Chúng kiểm tra mọi lối thoát và bắt đám kiến thợ bỏ gánh nặng quý báu đó lại. Chúng chỉ giết những con không muốn tuân lệnh; ở loài kiến, người ta không bao giờ giết chóc vô cớ.

Cuối trận chiến, kiến chủ nô lệ bao vây tổ, yêu cầu những kiến thợ sống sót đặt trứng lại vị trí và tiếp tục chăm sóc chúng. Khi các ấu trùng nở, chúng được dạy phục vụ những kẻ xâm lược, và vì không biết gì về quá khứ chúng nghĩ rằng vâng lời những con kiến to kia là cách sống chuẩn và bình thường.

Trong các cuộc càn quét, đám nô lệ lâu năm lùi lại phía sau, trốn trong cỏ, đợi lúc chủ của mình dọn dẹp xong khu vực. Một khi thắng trận, là những người nội trợ nhỏ giỏi giang, chúng đến ở những nơi đó, trộn lẫn chiến lợi phẩm trứng cũ với những quả trứng mới, giáo dục tù nhân và con cái của họ. Những thế hệ bị bắt cóc cứ như thế chồng chất lên nhau, tùy theo sự di chuyển của kẻ cướp.

Thông thường, cần phải có ba nô lệ để phục vụ mỗi kẻ cướp này. Một để nuôi nó (nó chỉ biết ăn những thức ăn ợ ra mà người ta mớm cho); một để tắm cho nó (các tuyến nước bọt của nó đã bị teo đi); một để dọn phân, nếu không, phân sẽ chất đống xung quanh vỏ và ăn mòn nó.

Chắc chắn, điều tồi tệ nhất có thể tới với những con chiến binh tuyệt đối này là bị người hầu của chúng bỏ rơi. Thế là chúng vội vàng rời khỏi tổ cướp được và đi tìm một tổ mới để chinh phục. Nếu chúng không tìm thấy trước buổi đêm, chúng có thể chết vì đói và lạnh. Cái chết nực cười nhất cho những chiến binh huy hoàng này.

Chli-pou-ni đã nghe kể nhiều truyền thuyết về chủ nô lệ. Người ta khẳng định đã có những cuộc nổi dậy của nô lệ, và những nô lệ, biết rõ chủ mình, dĩ nhiên cũng không thua kém gì. Người ta cũng kể lại là một số chủ nô lệ sưu tập trứng kiến, với ý tưởng có một bộ đủ tất cả các kiểu kích cỡ và tất cả các loài.

Nó hình dung ra một phòng đầy những quả trứng như thế, các loại kích thước, các kiểu màu sắc. Và dưới mỗi lớp bọc trắng… một nền văn hóa myrmécéen đặc thù, sẵn sàng thức dậy để phục vụ tên đầu óc sơ đẳng thô lỗ này.

Nó khổ tâm với ý nghĩ nặng nề của mình. Trước tiên phải nghĩ cách đối đầu đã. Bọn chủ nô lệ được báo là tới từ phía Đông. Quân trinh sát và mật thám Chli-pou-kan cam đoan là chúng có từ bốn trăm đến năm trăm nghìn lính. Chúng qua sông bằng đường hầm của cảng Sateê. Và chúng có vẻ khá “khó chịu”, vì chúng có một cái tổ di động dệt bằng lá mà chúng đã phải phá để qua được đường hầm. Như thế, chúng không còn nhà ở nữa, và nếu chúng không chiếm Chli-pou-kan, chúng sẽ phải qua đêm ngoài trời!

Kiến chúa trẻ cố suy nghĩ hết sức bình tĩnh: Nếu chúng đã rất hạnh phúc với cái tổ dệt di động, tại sao chúng thấy buộc phải qua sông? Nhưng nó biết câu trả lời.

Kiến chủ nô lệ ghét các thành phố lớn do một mối hằn thù vừa sâu sắc vừa không thể hiểu được. Mỗi thành phố đối với chúng vừa là một mối đe dọa và vừa là một thách thức. Tranh đua bất tận giữa người đồng bằng và người thành phố. Thế mà, bọn chủ nô lệ biết rằng ở bờ bên kia của dòng sông tồn tại hàng trăm tổ kiến, tổ này giàu hơn và tinh vi hơn tổ khác.

Đáng tiếc là Chli-pou-kan chưa sẵn sàng cho một cuộc tấn công như thế. Đúng là từ vài ngày nay, thành phố đã đầy gần triệu dân; đúng là người ta đã xây một bức tường cây ăn thịt ở biên giới Đông… nhưng việc đó sẽ chẳng bao giờ đủ cả. Chli-pou-ni biết là tổ của nó còn quá trẻ, chưa đủ tinh nhuệ. Hơn nữa, nó vẫn chưa có tin tức của đoàn sứ giả mà nó phái đến Bel-o-kan để tuyên bố tổ thuộc về Liên bang. Như thế nó không thể trông chờ vào sự đoàn kết của các tổ láng giềng. Ngay cả Guayeê-Tyolot cũng cách đây hàng nghìn đầu, không thể báo cho dân của tổ mùa hè này được…

Mẹ sẽ làm gì trước một tình huống tương tự? Chli-pou-ni quyết định tập hợp vài người trong số những thợ săn giỏi nhất của mình (chúng còn chưa có cơ hội chứng minh rằng chúng là chiến binh) để trao đổi tuyệt đối. Phải khẩn cấp xây dựng một chiến lược.

Chúng còn đang họp trong Cấm Thành thì lính gác đóng ở cây con đổ nghiêng vào Chli-pou-kan báo người ta nhận ra mùi của một vũ khí đang ào tới.

Tất cả chuẩn bị. Không một chiến lược nào được thiết lập. Người ta sẽ tùy cơ ứng biến. Tình trạng chuẩn bị chiến đấu được đưa ra, các đội tạm hợp lại với nhau (chúng còn chưa nắm hết về cách tổ chức đội ngũ, điều đã phải trả giá đắt để tiếp thu được trong lúc đối đầu với kiến lùn). Thực tế, phần lớn lính thích hy vọng vào bức tường cây ăn thịt hơn.

 

 

Ở MALI: Ở Mali, người Dogon cho là lúc hôn phối ban đầu

giữa Trời và Đất, bộ phận sinh dục của Đất là một tổ kiến.

Khi thế giới sinh ra từ sự giao hợp này đã hoàn chỉnh, âm hộ trở thành cái miệng; từ đó cho ra lời nói và những thứ hỗ trợ vật chất cho lời nói: kỹ thuật dệt, mà loài kiến truyền cho con người.

Ngày nay, các nghi lễ phồn thực vẫn còn liên quan tới kiến. Những phụ nữ vô sinh ngồi trên một tổ kiến để xin thần Amma làm cho họ có khả năng sinh sản.

Nhưng kiến không chỉ làm điều đó cho con người, chúng cũng chỉ cho họ xây nhà như thế nào. Và cuối cùng chúng chỉ cho họ các nguồn nước. Vì người Dogon hiểu là để tìm thấy nước, họ phải đào dưới các tổ kiến.

Edmond Wells,

Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.

 

 

Những con châu chấu bắt đầu bay ra tứ phía. Đó là một dấu hiệu. Ngay đằng kia, những con kiến có mắt sáng nhất đã nhận ra một cột bụi.

Người ta có cố hết sức kể về bọn chủ nô lệ cũng vô ích, thấy chúng tấn công đúng là một chuyện khác. Chúng không có kỵ binh, chúng là kỵ binh. Toàn thân chúng mềm và chắc, chân chúng dày và cơ bắp, cái đầu mảnh và nhọn của chúng được kéo dài nhờ những chiếc sừng di động, thực ra là răng chúng.

Sức di chuyển của chúng tuyệt đến mức không một tiếng rít nào đi kèm theo được đầu của chúng khi chúng rẽ không khí, bị cuốn bởi tốc độ chân mình.

Cỏ bẹp xuống khi chúng qua, đất rung chuyển, cát rập rình. Râu chúng chĩa ra trước tỏa những pheromon buốt tới mức tưởng như tiếng gầm thét.

Chúng ta phải đóng cửa lại và chống cự ở trong tổ hay ra ngoài và chiến đấu? Chli-pou-ni do dự, nó sợ, đến mức thậm chí không dám mạo hiểm cả một gợi ý. Thế nên, dĩ nhiên lính kiến đỏ hung làm những gì không nên làm. Chúng chia nhau ra. Một nửa ra ngoài để phơi mặt đối đầu với địch thủ; nửa kia ở lại trụ trong Tổ như lực lượng phòng bị và kháng cự trong trường hợp bị vây hãm.

Chli-pou-ni cố nhớ lại trận Cây Mỹ Nhân, trận duy nhất nó biết. Và nó có cảm giác chính pháo binh đã gây ra nhiều thiệt hại nhất cho các toán đối địch. Ngay lập tức nó ra lệnh mọi người xếp ba hàng pháo binh ở những tuyến đầu tiên.

Các đội kiến chủ nô lệ giờ đã lao đến bức tường cây ăn thịt. Những con thú thực vật gục xuống lúc chúng đi qua, bị quyến rũ bởi mùi thịt nóng. Nhưng những cây này quá chậm, và tất cả chiến binh kẻ thù vượt qua trước khi thậm chí chỉ một cây ăn thịt kịp kẹp chúng lại.

Mẹ đã nhầm!

Lúc sắp bị tấn công, tuyến Chli-pou-kan đầu tiên phóng ra một loạt vô định, chỉ loại được chừng hai mươi kẻ tấn công. Tuyến thứ hai thậm chí còn chưa có thời gian vào vị trí, các pháo binh đã bị tóm tất lấy họng và bị cắt đầu mà không thể nhả một giọt axít nào.

Chỉ tấn công vào đầu là chuyên môn chính của kiến chủ nô lệ. Và chúng làm việc đó rất tốt. Đầu của cư dân trẻ Chli-pou-kan bay khắp nơi. Những cái thân không đầu đôi khi tiếp tục dò dẫm chiến đấu hay chạy trốn làm những người sống khiếp sợ.

Sau mười hai phút, chẳng còn gì nhiều trong đám quân kiến đỏ hung. Nửa thứ hai của đội quân bịt tất cả các lối vào. Chli-pou-kan còn chưa có mái vòm, nó hiện trên mặt đất dưới hình khoảng mười miệng núi bé con được bao quanh bởi sỏi tán nhỏ.

Mọi người bàng hoàng. Lao tâm khổ tứ để xây được một tổ hiện đại, và thấy nó bị phó mặc cho một băng thô lỗ nguyên thủy đến mức không biết tự nuôi mình.

Chli-pou-ni cố tăng các cuộc TĐTĐ một cách vô ích, nó không tìm ra cách kháng cự. Những viên đá xây được xếp ở các lối vào sẽ trụ qua vài giây trong trường hợp tốt nhất. Về phần đánh nhau ở hành lang, dân Chli-pou-kan cũng chẳng chuẩn bị được hơn so với đánh nhau ngoài trời.

Bên ngoài, những chiến binh đỏ hung cuối cùng chiến đấu như những con quỷ. Một số con đã có thể vừa đánh vừa lùi, nhưng phần lớn thấy các lối vào bị bịt lại ngay sau lưng mình. Với chúng, mọi chuyện thế là hết. Thế nhưng, chúng chống cự hiệu quả hơn nữa vì chúng chẳng còn gì để mất và vì chúng nghĩ chúng càng làm giảm tốc bọn xâm lăng, các nút cửa càng có thể được củng cố hơn.

Đến lượt con Chli-pou-kan cuối cùng bị chặt đầu và thân của nó, trong một phản xạ mạnh mẽ, tới chèn trước một lối vào và cắm chặt những chiếc vuốt của mình vào cửa, lá chắn chẳng đáng kể.

Bên trong Chli-pou-kan, người ta chờ đợi.

Người ta đợi đám chủ nô lệ với sự cam chịu ủ ê. Cuối cùng, sức mạnh thể xác đơn thuần vẫn mang lại hiệu quả mà công nghệ còn chưa vượt qua được…

Nhưng kiến chủ nô lệ chưa tấn công. Như Hannibal(__1)_ trước thành Rome, chúng do dự liệu có thể thắng được không. Mọi thứ có vẻ quá dễ dàng. Trong đó hẳn phải có một cái bẫy. Nếu tiếng tăm kẻ giết người của chúng vượt trước chúng khắp nơi, kiến đỏ hung cũng có tiếng tăm riêng. Bên phe kiến chủ nô lệ, người ta nói là chúng luôn khôn khéo tạo ra những cái bẫy tinh tế. Người ta cho là chúng biết liên minh với lính đánh thuê, những kẻ hiện ra lúc mà người ta ít mong đợi nhất. Người ta cũng nói là chúng biết thuần phục những con vật hung dữ, sản xuất các vũ khí bí mật gây ra những nỗi đau đớn không chịu đựng được. Và rồi, kiến chủ nô lệ cảm thấy thoải mái ở ngoài trời bao nhiêu thì chúng ghét cảm giác bị các bức tường bao quanh bấy nhiêu.

Dù sao chúng cũng vẫn chưa làm nổ tung các chướng ngại vật chặn lối vào. Chúng chờ đợi. Chúng có thời gian. Suy cho cùng, màn đêm chưa buông xuống trước mười lăm giờ nữa.

Trong tổ kiến, người ta ngạc nhiên. Tại sao chúng không tấn công? Chli-pou-ni không thích điều này. Điều làm nó lo lắng, là đối thủ “hành động theo lối thoát khỏi cách hiểu của nó”, trong khi chúng chẳng cần gì cả, vì chúng mạnh hơn. Một số con của nó rụt rè tỏa ý kiến là người ta có thể thử bỏ đói chúng. Một việc như thế có thể sẽ khôi phục lòng dũng cảm cho kiến đỏ hung: nhờ vào những chuồng trại ở dưới hầm, những cánh đồng trồng nấm, những vựa bột ngũ cốc, kiến bình chứa được nhồi nhét đầy mật, chúng có thể cầm cự được khoảng hai tháng vây hãm.

Nhưng Chli-pou-ni không nghĩ đến sự vây hãm. Thứ mà những kẻ trên kia muốn, đó là một cái tổ qua đêm. Nó nghĩ lại châm ngôn nổi tiếng của Mẹ: Nếu kẻ thù mạnh hơn, hãy hành động theo lối thoát khỏi cách hiểu của nó. Đúng, đối mặt với bọn tàn nhẫn này, các công nghệ mũi nhọn, vị cứu tinh đây rồi.

Năm trăm nghìn dân Chli-pou-kan thực hiện TĐTĐ. Cuối cùng một cuộc tranh luận lý thú đã nổ ra. Một con kiến thợ nhỏ nói:

Sẽ là sai lầm nếu muốn sao chép vũ khí hoặc chiến thuật đã được các đàn anh Bel-o-kan sử dụng. Chúng ta không nên bắt chước, chúng ta phải nghĩ ra giải pháp riêng của mình, để giải quyết chính các vấn đề của chúng ta.

Ngay khi pheromon này được thả, tinh thần được giải tỏa và một quyết định nhanh chóng được đưa ra. Mọi người bắt tay vào việc.

 

 

BỘ BINH THỔ: Vào thế kỷ XIV, vua Thổ Nhĩ Kỳ Murad I tạo

ra một đội quân khá đặc biệt, mà người ta đặt tên là Bộ binh Thổ (tiếng Thổ là yeni tcheri, quân đội mới). Bộ binh Thổ có một đặc điểm: nó chỉ được tạo thành từ trẻ mồ côi. Thực vậy, quân lính Thổ, khi cướp phá một ngôi làng Armenia hay Slave, nhặt luôn trẻ con ở đó và nhốt chúng trong một trường quân sự đặc biệt, tại đây chúng không thể biết gì về phần còn lại của thế giới. Chỉ được đào tạo về nghệ thuật chiến đấu, những đứa trẻ này tỏ ra là những chiến binh giỏi nhất của cả Đế chế Ottoman và không ngần ngại tàn phá những ngôi làng mà gia đình thật sự của chúng đang sống. Không bao giờ Bộ binh Thổ có ý định chống lại những kẻ bắt cóc mình khỏi bố mẹ chúng. Trái lại, sức mạnh của đội quân này không ngừng tăng lên, điều đó cuối cùng làm vua Thổ Mahmut II lo lắng, người đã tàn sát chúng và cho đốt ngôi trường năm 1826.

Edmond Wells,

Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.

 

 

Giáo sư Leduc mang đến hai cái hòm lớn. Từ một cái, ông lôi ra một kiểu máy khoan tay chạy xăng lạ lùng. Ngay lập tức ông bắt đầu phá bức tường do cảnh sát xây, tới khi làm thành cái lỗ tròn cho phép chui qua được.

Khi tiếng ồn ào ngừng, bà Augusta tới mời một tách trà cỏ roi ngựa, nhưng Leduc từ chối và ung dung giải thích là nó có nguy cơ làm ông ấy buồn đi tiểu. Ông quay lại phía một cái hòm khác và lôi từ đó ra một bộ đầy đủ dụng cụ của nhà thám hiểm hang động.

- Anh nghĩ là sâu đến thế à?

- Thành thật mà nói, thưa bà yêu quý, trước khi tới gặp bà tôi đã thực hiện một nghiên cứu về tòa nhà này. Thời Phục hưng, các nhà thông thái đạo Tin Lành sống ở đây và họ đã xây một lối đi bí mật. Tôi gần như chắc chắn là lối đi này đổ ra rừng Fontainebleau. Chính nhờ nó mà những người theo đạo Tin Lành này thoát khỏi tay những kẻ săn đuổi mình.

- Nhưng nếu những người đã xuống dưới đó thoát ra rừng, tôi không hiểu tại sao họ không hiện ra nữa? Có cháu trai tôi, chắt tôi… cháu dâu tôi, hơn một chục lính cứu hỏa và các hiến binh, tất cả những người này chẳng có lý do gì để trốn cả. Họ có gia đình, bạn bè. Họ không theo đạo Tin Lành và không còn chiến tranh Tôn giáo nữa.

- Bà có thật sự chắc thế không, thưa bà?

Ông ta nhìn bà với vẻ buồn cười.

- Các tôn giáo đã lấy tên mới rồi, chúng khoe mình là những triết học hay… những khoa học. Nhưng chúng vẫn đều độc đoán.

Ông sang phòng bên cạnh để mặc bộ quần áo thám hiểm hang động. Khi ông xuất hiện trở lại, khá gò bó, đầu nằm trong cái mũ cát đỏ tươi có một cái đèn trên trán, Augusta suýt phì cười.

Ông nói tiếp như không có gì cả.

- Sau những người theo đạo Tin Lành, căn hộ này được người của các giáo phái đủ mọi hạng ở. Một số say mê tôn giáo thờ nhiều thần cổ xưa, những người khác thích hành tây, hay củ cải đen, tôi biết gì_(1)?

- Hành tây và củ cải đen rất tốt cho sức khỏe. Tôi hiểu rất rõ là người ta thích chúng. Sức khỏe, đó là điều quan trọng nhất… Nhìn này, tôi điếc, sắp lão suy, và tôi chết dần chết mòn mỗi ngày.

Ông muốn làm bà yên lòng.

- Nào, đừng bi quan, bà còn có vẻ rất khỏe.

- Xem nào, anh đoán tôi bao nhiêu tuổi?

- Tôi không biết… sáu mươi, bảy mươi tuổi.

- Một trăm, thưa anh! Tôi một trăm tuổi cách đây một tuần, và tôi đau khắp cơ thể, và với tôi, chịu đựng cuộc sống mỗi ngày thêm một khó khăn, nhất là từ khi tôi mất tất cả những người tôi yêu.

- Tôi hiểu bà, tuổi già là một thử thách khó khăn.

- Anh còn nhiều câu chua cay như thế nữa không?

- Nhưng mà bà…

- Nào, xuống nhanh đi. Nếu ngày mai, tôi không thấy anh lên, tôi sẽ gọi cảnh sát và chắc chắn họ sẽ xây cho tôi một bức tường lớn mà không ai tới đập nó nữa…

 

 

Bị ấu trùng tò vò gặm nhấm liên tục, 4 000 không tài nào ngủ được, ngay cả trong những đêm lạnh nhất.

Vậy nên nó bình tĩnh đợi cái chết, toàn làm những việc lý thú và mạo hiểm mà có lẽ nó không bao giờ đủ dũng cảm để làm trong những hoàn cảnh khác. Khám phá điểm tận cùng của thế giới chẳng hạn.

Chúng vẫn đang trên đường tới những cánh đồng của thợ gặt. 103 683 tranh thủ chặng đường để nhớ lại một số bài học của các vú nuôi mình. Họ giải thích cho nó Trái đất là một hình lập phương, chỉ mang sự sống ở mặt trên của nó.

Nó sẽ nhìn thấy gì nếu cuối cùng nó đến được điểm tận cùng của thế giới, cạnh của nó? Nước? Sự trống rỗng của một bầu trời khác? Người bạn đường bị án treo của nó và chính bản thân nó sẽ biết nhiều hơn tất cả các nhà thám hiểm, tất cả những con kiến đỏ hung từ lúc khởi đầu của mọi thời đại đến giờ!

Dưới cái nhìn ngạc nhiên của 4 000, bước đi của 103 683 bỗng trở thành một bước đi quả quyết.

 

Đến giữa buổi chiều, khi kiến chủ nô lệ quyết định phá các lối vào, chúng ngạc nhiên không thấy một sự chống cự nào. Thế nhưng chúng biết rõ là chúng chưa tiêu diệt hết quân đội kiến đỏ hung, kể cả có tính đến kích thước nhỏ của tổ. Thế là nghi ngờ…

Chúng tiến càng thận trọng hơn vì quen sống ngoài trời và hưởng một tầm nhìn tuyệt vời nhờ có ánh sáng, chúng hoàn toàn mù lòa dưới lòng đất. Những con kiến đỏ hung vô tính cũng chẳng nhìn rõ hơn ở đây, nhưng ít ra chúng cũng quen vận động ở những đường hầm hẹp của thế giới bóng tối này.

Đám chủ nô lệ tới Cấm Thành. Tất cả đều hoang vắng. Thậm chí có cả một đống thức ăn trên mặt đất, còn nguyên! Chúng đi xuống thêm nữa; những vựa lương thực đầy ắp, có người ở trong những căn phòng này cách đây ít lâu thôi, chắc chắn thế.

Ở tầng thứ - 5, chúng tìm thấy các pheromon mới. Chúng cố giải mã các cuộc nói chuyện dính ở đây, nhưng kiến đỏ hung đã đặt một nhánh cây húng tây mà mùi của nó tỏa ra làm nhiễu tất cả hơi bốc.

Tầng - 6. Chúng không thích cảm giác như thế này, bị nhốt dưới đất. Thành phố này quá tối! Làm thế nào mà những con kiến có thể chịu sống vĩnh viễn trong cái không gian giam hãm và tối tăm như cái chết ấy?

Ở tầng - 8, chúng nhận ra những pheromon mới mẻ hơn. Chúng rảo chân bước, bọn kiến đỏ hung chắc không còn ở xa nữa.

Ở tầng - 10, chúng chộp được một nhóm kiến thợ đang huơ trứng lên. Bọn này chạy trốn trước kẻ xâm lược. Vậy ra là thế! Cuối cùng chúng hiểu ra, cả thành phố chui xuống những tầng sâu nhất hy vọng cứu được con cái quý giá của mình.

Vì tất cả trở nên liên kết chặt chẽ, kiến chủ nô lệ quên mọi cẩn trọng và chạy, tung pheromon tiếng hét chiến tranh nổi tiếng của mình ở khắp các hành lang. Các kiến thợ Chli-pou-kan không tài nào bỏ xa chúng được, và người ta đã ở tầng - 13.

Bỗng nhiên, những con mang trứng biến mất một cách khó hiểu. Về phần hành lang mà chúng đang theo, nó dẫn tới một gian phòng rất lớn mà sàn tràn đầy các vũng mật. Theo bản năng, kiến chủ nô lệ đi vội tới để liếm thứ chất lỏng quý báu, nếu không, có nguy cơ bị thấm xuống đất.

Những chiến binh khác chen lấn nhau đằng sau chúng, nhưng căn phòng thật sự khổng lồ, có chỗ và có mật đủ cho mọi người. Dịu làm sao, ngọt làm sao! Chắc chắn đây là một trong các phòng kiến bình chứa, một con kiến chủ nô lệ đã từng nghe nói về nó: một kỹ thuật gọi là hiện đại bắt một con kiến thợ tội nghiệp cả đời đầu chúc ngược xuống dưới và bụng bị kéo dãn ra hết mức.

 Chúng lại chế nhạo dân thành thị lần nữa đồng thời vẫn ngốn mật. Nhưng một chi tiết bỗng nhiên thu hút sự chú ý của một con chủ nô lệ. Ngạc nhiên là một căn phòng quan trọng như thế này chỉ có duy nhất một lối vào…

Nó không có thời gian để suy nghĩ thêm. Những con kiến đỏ hung đã đào xong. Một thác nước từ trần phun xuống. Những con chủ nô lệ cố bỏ chạy bằng hành lang nhưng lối này giờ đã bị một hòn đá to chặn lại. Và mức nước tăng lên. Những con không bị chết vì cú dội vòi rồng đang giãy giụa hết sức mình.

Ý tưởng là của con chiến binh đỏ hung đã nói rằng không nên bắt chước các bậc tiền bối. Sau đó nó đặt ra câu hỏi: Đặc thù của thành phố chúng ta là gì? Chỉ có duy nhất một pheromon: Suối nước ngầm ở tầng - 12!

Thế là chúng đào một cái rãnh từ dòng suối, và thông dòng nhánh này, đồng thời không để nước thấm xuống đất nhờ những chiếc lá nhầy. Phần còn lại liên quan chủ yếu đến kỹ thuật bể chứa. Chúng đã xây một bể chứa nước to trong một gian phòng, rồi đục thủng tâm của nó bằng một cái que. Tất nhiên, việc phức tạp nhất là giữ cái que máy khoan ấy nhô lên khỏi mặt nước. Chính những con kiến treo mình trên trần gian phòng đó đã làm nên kỳ tích này.

Ở dưới, kiến chủ nô lệ múa may và ngọ ngoạy. Phần lớn bị chết đuối, nhưng khi tất cả nước đã được trút xuống căn phòng bên dưới, mực mớn nước khá cao đủ để một số chiến binh thoát được qua cái lỗ trên trần. Kiến đỏ hung hạ chúng mà không phải vất vả bắn axít.

Một giờ sau, món cháo kiến chủ nô lệ không động đậy nữa. Kiến chúa Chli-pou-ni đã thắng. Thế là nó đưa ra châm ngôn lịch sử đầu tiên của mình: Chướng ngại vật càng lớn, nó buộc chúng ta càng phải xuất sắc hơn.

 

 

Tiếng va chạm ngầm và đều đặn kéo bà Augusta vào bếp, giữa lúc Giáo sư Leduc cong người chui qua cái lỗ ở tường. Thật đúng là, sau hai mươi tư tiếng! Được một lần có người đáng ghét mà nếu có biến mất cũng chẳng làm bà quan tâm, ông ta phải quay lại!

Bộ đồ thám hiểm hang động rách tả tơi, nhưng ông ta còn nguyên vẹn. Ông ta cũng không đạt được gì cả, điều đó nhìn thấy rõ như cái mũi ở giữa mặt.

- Thế nào?

- Thế nào, thế nào là sao?

- Anh có tìm thấy họ không?

- Không…

Bà Augusta xúc động tột cùng. Đây là lần đầu tiên ai đó leo lên từ cái hố này còn sống và không điên. Th 28e3 thì có thể sống sót được qua cuộc phiêu lưu mạo hiểm này!

- Nhưng cuối cùng, có gì ở dưới? Nó có thông ra rừng Fontainebleau như anh nghĩ không?

Ông chui khỏi cái mũ cát.

- Trước tiên bà làm ơn mang cái gì cho tôi uống đã. Tôi đã hết lương thực dự trữ và không uống từ trưa qua.

Bà mang cho ông ta trà cỏ roi ngựa mà bà giữ ấm trong một cái phích.

- Bà muốn tôi nói cho bà có gì ở dưới à? Có một cái cầu thang xoắn ốc dẫn xuống dốc thẳng đứng hàng trăm mét. Có một cái cửa. Có một đoạn hành lang với ánh phản chiếu màu đỏ, đầy chuột cống, rồi tít tận cùng có một bức tường chắc là do cháu trai Jonathan của bà xây. Một bức tường rất chắc, tôi đã dùng khoan khoét lỗ trên đó nhưng không kết quả. Thực ra, nó phải quay hoặc lật qua được, vì có một hệ thống nút mã số chữ cái.

- Những nút mã số chữ cái?

- Vâng, chắc chắn phải gõ một từ trả lời cho một câu hỏi.

- Câu hỏi gì?

- Làm thế nào để xếp được bốn hình tam giác bằng nhau với sáu que diêm?

Augusta không thể nhịn được phá lên cười. Điều đó làm nhà khoa học hết sức khó chịu.

- Bà biết câu trả lời!

Giữa hai lần nấc bà nói được:

- Không! Không! Tôi không biết câu trả lời! Nhưng tôi biết rõ câu hỏi!

Và bà cười, bà cười. Giáo sư Leduc lẩm nhẩm:

- Tôi mất nhiều giờ để tìm. Dĩ nhiên, người ta ra được kết quả với các tam giác nằm trong hình chữ V, nhưng chúng không bằng nhau.

Ông dọn dẹp đồ nghề.

- Nếu bà muốn, tôi sẽ đi hỏi một người bạn là nhà toán học và tôi sẽ quay trở lại.

- Không!

- Sao lại không?

- Một lần, cơ hội, một lần duy nhất. Nếu anh đã không biết tận dụng, quá muộn rồi. Làm ơn mang hai cái hòm này ra khỏi nhà tôi. Vĩnh biệt anh!

Thậm chí bà không gọi taxi cho ông ta. Nỗi ghét cay ghét đắng trong bà đã chiến thắng. Rõ ràng là ông ta có một mùi mà bà không tài nào ưa nổi.

Bà ngồi trong bếp, đối diện bức tường bị phá. Bây giờ tình hình đã tiến triển. Bà quyết định gọi điện cho Jason Bragel và cho Rosenfeld. Bà quyết định đùa một chút trước khi chết.

 

 

PHEROMON NGƯỜI: Cũng như các côn trùng trao đổi bằng

mùi, con người có một thứ ngôn ngữ mùi qua đó họ bí mật đối thoại với những đồng loại của mình.

Vì chúng ta không có râu phát, chúng ta phóng các pheromon vào không khí từ nách, vú, da đầu và các cơ quan sinh dục.

Những thông điệp này được nhận một cách vô thức nhưng không kém hiệu quả. Con người có năm mươi triệu đầu mút thần kinh khứu giác; năm mươi triệu tế bào có khả năng nhận ra hàng nghìn mùi, trong khi đó lưỡi của chúng ta chỉ biết nhận ra được bốn vị.

Chúng ta dùng cách trao đổi này làm gì?

Trước hết, khêu gợi tình dục. Một người đàn ông rất có thể bị một phụ nữ thu hút chỉ vì anh ta thích mùi thơm tự nhiên của người phụ nữ đó (tuy nhiên rất thường xuyên bị giấu dưới các mùi thơm nhân tạo!). Cũng như thế, anh ta có thể bị một phụ nữ khác chối từ và các pheromon của người này không “nói” với anh ta.

Quá trình này khá tinh tế. Hai con người thậm chí không nghi ngờ cuộc đối thoại khứu giác mà họ có. Người ta sẽ chỉ nói rằng “tình yêu mù quáng”.

Sự ảnh hưởng của các pheromon con người này cũng có thể thể hiện trong các quan hệ tấn công. Cũng như ở loài chó, một người hít được những hơi bốc truyền tải thông điệp “sợ” từ đối thủ của mình, tự nhiên muốn tấn công người đó.

Cuối cùng, một trong những hiệu quả gây ấn tượng mạnh nhất trong hoạt động của pheromon người chắc chắn là sự đồng bộ hóa các chu kỳ kinh nguyệt. Thực thế, người ta đã nhận thấy rằng nhiều phụ nữ sống cùng nhau tỏa ra các mùi, các mùi này điều chỉnh cơ thể họ như thế nào đó để rồi chu kỳ của họ đến cùng một lúc.

Edmond Wells,

Bách khoa toàn thư kiến thức tương đối và tuyệt đối.

 

 

Chúng nhận ra những thợ gặt đầu tiên ở giữa cánh đồng vàng. Thực tế, phải nói là tiều phu thì đúng hơn; ngũ cốc của họ lớn hơn cả họ và họ phải cắt phần dưới của thân cây để các hạt dinh dưỡng rơi xuống.

Ngoài hái lượm, hoạt động chính của họ là loại bỏ tất cả các loại cây khác mọc xung quanh cây trồng. Để làm việc này họ sử dụng một loại thuốc diệt cỏ tự chế: axít indole-acetic mà họ phun bằng tuyến vùng bụng dưới.

Lúc 103 683 và 4 000 tới, họ hầu như không để ý đến chúng. Họ chưa bao giờ nhìn thấy kiến đỏ hung, và với họ, hai con côn trùng này cùng lắm là nô lệ bỏ trốn hay hai con kiến đang đi tìm tinh chất lomechuse. Tóm lại, bọn vô gia cư hoặc bọn nghiện ngập.

 Thế nhưng một thợ gặt cuối cùng cũng phát hiện ra một phân tử có mùi kiến đỏ. Đang theo sau một đồng nghiệp, nó bỏ công việc và tiến lại gần.

Các ngươi đã gặp kiến đỏ? Họ ở đâu?

Trong lúc nói chuyện, hai cư dân Bel-o-kan được biết là kiến đỏ đã tấn công tổ của các thợ gặt cách đây vài tuần. Chúng đã giết hơn một trăm kiến thợ và kiến hữu tính bằng ngòi độc của mình, rồi cướp hết dự trữ bột ngũ cốc. Lúc từ vụ mùa nhằm tìm kiếm những loại hạt mới ở miền Nam về, quân đội của kiến thợ gặt chỉ còn có thể xem xét thiệt hại.

Những con kiến đỏ hung công nhận đúng là chúng đã gặp kiến đỏ. Họ đã chỉ hướng phải đi để tìm thợ gặt. Người ta hỏi chúng, và chúng kể lại chuyến phiêu lưu của mình.

Các ngươi tìm điểm tận cùng của thế giới?

Chúng gật đầu. Thế là những con kia phá lên những pheromon cười tỏa mùi sủi bọt. Tại sao họ lại ồ lên cười? Điểm tận cùng của thế giới không tồn tại sao?

Có chứ, nó tồn tại và các ngươi đã tới nơi rồi! Ngoài các vụ mùa, hoạt động chính của chúng tôi là thử vượt qua điểm tận cùng của thế giới.

Các thợ gặt đề xuất ngay sáng mai dẫn hai “khách du lịch” tới nơi trừu tượng đó. Cả buổi tối dành cho nói chuyện, trú trong cái tổ nhỏ nhắn mà thợ gặt đã đào trong vỏ một cây sồi.

Thế còn những người bảo vệ điểm tận cùng của thế giới? 103 683 hỏi.

Đừng lo, các người sẽ sớm thấy họ thôi.

Có đúng là họ có một thứ vũ khí chỉ bằng một cú có thể đè bẹp cả một đội quân không?

Nhóm thợ gặt ngạc nhiên là những kẻ xa lạ này biết chi tiết đến thế.

Chính xác.

103 683 cuối cùng cũng sẽ biết lời giải cho bí ẩn về vũ khí bí mật!

Đêm đó, nó nằm mơ. Nó thấy Trái đất dừng ở góc thẳng, một bức tường nước thẳng đứng choán lấy Bầu trời và, từ bức tường nước đó bước ra, những con kiến màu xanh nước biển cầm những cành cây keo siêu hủy diệt. Chỉ cần một đầu những cành cây ma thuật này chạm vào bất kỳ vật gì là tất cả bị phá tan tành.

Chương tiếp theo sẽ được cập nhật nhanh nhất đến bạn đọc !

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/30651


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận