Năm 1918 tôi mua khu Exhem Prairie nhưng mọi kế hoạch phục chế bảo tồn phải gác lại vì con trai tôi từ mặt trận trở về với thương tật. Suốt hai năm sau tôi luôn chăm nom sức khoẻ cho nó đến mức thậm chí còn giao việc quản lý công việc cho những người khác trong nhà.
Năm 1921 tôi còn lại một mình sau cái chết của con trai tôi, không mục đích, không công việc khi tuổi già ập đến. Thế là tôi quyết định giành những năm cuối đời để phục chế khu nhà tôi vừa mua. Vào tháng chạp, tôi đi Ankexter và làm quen với đại uý Norris, một chàng trai tính tình dễ thương, tràn trề sinh lực. Cậu ta đánh giá rất cao về con trai tôi. Cậu giúp tôi thu thập truyền thuyết và lập kế hoạch phục chế. Thật ra khu Exhem Prairie chẳng gây ấn tượng gì đặc biệt với tôi – nó chỉ còn là một đống đổ nát phủ đầy rêu, đầy những tổ quạ, là những ngọn tháp với các bức tường trơ trụi gạch, không có sàn nhà tử tế với vật dụng cần thiết bên trong. Tất cả chúng như đứng trên mép bờ vực của tàn lụi.
Nhưng dần dần trước mắt tôi hiện lên hình hài một toà nhà tráng lệ của tổ tiên tôi cách đây ba trăm năm. Tôi bắt đầu hối thúc công nhân phục chế và chạm trán ngay với nỗi kinh hoàng xa xưa cùng mối căm ghét của nông dân vùng Ankexter. Sự kinh sợ và hiềm thù ấy dành cho cả toà lâu đài lẫn gia đình dòng họ tôi thời xưa và chúng mạnh đến mức lây sang những công nhân được thuê từ nơi khác tới và họ bỏ đi.
Con trai kể rằng khi nó tới Ankexter người ta xa lánh, tránh né nó chỉ vì nó mang họ De la Power. Giờ thì tôi cảm nhận rõ điều đó ngay với bản thân mình, do đó tôi đã đi thuyết phục đám nông dân rằng tôi hầu như chẳng còn liên quan gì đến tổ tiên của tôi cả. Nhưng sau đó họ vẫn tiếp tục không mấy thiện cảm gì với tôi, và tôi phải thu thập mọi truyền thuyết của họ bằng cách thông qua Norris mà thôi. Hình như người ta không muốn tôi phục chế toà lâu đài mà họ vốn coi như hang ổ của quỷ dữ và phù thuỷ.
Sau khi phân tích những truyền thuyết do Norris cung cấp và báo cáo của các nhà khoa học, tôi kết luận: Exhem Prairie hiện ở trên một khu vực đền đài rất cổ xưa của thời kỳ đạo giáo (Druidiswe) hay tiền đạo giáo. Nơi mà người ta nghi rằng đã hoàn tất những lễ nghi rùng rợn nhất, và có lẽ sau đó đã nhập vào nghi lễ sùng kính thần bà mẹ vĩ đại Kibela do người La Mã đưa tới. Trên lớp gạch xây ngầm dưới đất những dòng chữ còn được giữ lại: “Mẹ… thiêng… liêng vĩ đại… sáng ta…”, điều này chứng tỏ về tục sùng bái Bà mẹ vĩ đại mà người ta đã không thể cấm các công dân La Mã tuân theo. Các cuộc khai quật minh chứng rằng Ankexter là trại quân của đội binh thứ ba của hoàng đế Augustin. Tại đây đền thờ Đức Mẹ vĩ đại rất được sùng chuộng và luôn có đông khách hành hương với vô số nghi lễ qua sự chỉ đạo của quan tư tế người xứ Frigi. Truyền thuyết kể rằng sự suy yếu của tôn giáo cũ không hề làm ngưng những cuộc tế lễ Tửu thần trong lâu đài, còn các quan tư tế đã chuyển sang một đức tin mới mà không hề thay đổi nếp sống của mình. Những cuộc hành lễ bí mật vẫn tiến hành và sau khi nền thống trị của La Mã cáo chung, một số người Xắc-xông đã dựng lại ngôi đền bị phá. Họ lập nên ở đây một trung tâm thờ phụng. Khoảng gần năm 1000 trước công nguyên, Exhem Prairie được nêu lên trong biên niên sử như là một lâu đài được một khu vườn lớn bao bọc không cần rào chắn. Toà lâu đài này thuộc về một dòng tu bí ẩn và đầy quyền năng. Nó không bị người Viking phá huỷ, nhưng sau cuộc chinh phục của người Noocmăng thì có lẽ nó lâm vào tình trạng hoang tàn. Dù thế nào đi nữa thì năm 1261, Henrik đệ Tam đã ban tặng toà lâu đài cho tổ tiên tôi là đức ông Hilbert de la Power, vị nam tước Exhem đầu tiên.
Trước năm đó, thanh danh dòng họ gia đình tôi rất trong sáng, nhưng về sau có chuyện gì đó xảy ra. Trong sử biên niên năm 1307 có nêu tên một ngài De la Power “bị Thượng đế nguyền rủa”, còn trong các truyền thuyết dân gian thì toà lâu đài xây cất tại nơi có ngôi đền ngẫu tượng giáo khét tiếng là khủng khiếp và ghê gớm. Những truyền thuyết này đã tạo nên mối kinh hoàng đầy mê tín và càng được thổi phồng dưới áp lực của bao chuyện đầy âm mưu đen tối. Chúng cho thấy tổ tiên dòng họ tôi là con đẻ của quỷ sứ mà trong số đó, hầu tước de Sad và Gile de Retx chỉ là những đứa trẻ vô tội, và tổ tiên tôi được gán cho cái tội dính dáng đến sự biến mất của nhiều người suốt vài thế hệ.