nói: “Sư phụ chúng tôi lúc lâm chung có dặn dò, muốn chúng tôi nhất định phải khiến cho Côn Lôn danh chấn giang hồ, cô nương cũng là người nổi tiếng trong võ lâm, liệu có thể chỉ bảo cho một, hai điều chăng?”
Uất Trì Tĩnh Lôi nói: “Danh hiệu của chúng tôi là ‘Côn Lôn song hùng’, cũng gọi là ‘Côn Lôn song kiệt’. Cái tên này nghe cực hay, chúng tôi phải mất đứt ba tháng mới nghĩ ra được đấy”.
Hà Y nói: “Hành tẩu trong giang hồ, đương nhiên là phải có danh hiệu hay ho, chỉ là…”.
Hai huynh đệ kia lập tức hỏi: “Chỉ là sao? Lẽ nào cái tên ấy nghe không hay?”.
Hà Y nói: “Nếu như hai vị lấy hiệu là song hùng, ví như người khác không ưa hai vị thì sẽ có thể thay chữ ‘hùng’ trong anh hùng, thành chữ ‘hùng’ trong cẩu hùng[1]. Nếu như hai vị gọi là song kiệt, những bậc giang hồ lão luyện có thể không thích. Bởi vì lão làng trong giang hồ thích nghe những danh hiệu khiêm tốn một chút”.
[1] Gấu chó.
Hà Y nói: “Chẳng bằng gọi là ‘Côn Lôn song kiếm’ đi. Một là hai vị đều dùng kiếm, hai là chữ ‘kiếm’ chỉ là tên binh khí, bất kể các vị bây giờ chưa nổi tiếng hay là sau này nổi tiếng, đều dùng được”.
Uất Trì Tĩnh Lôi vừa nghe xong, mừng rơn, nói: “Hay lắm hay lắm, Côn Lôn song kiếm, chính là cái tên này, Chúng tôi đến đây chính là để xem tỉ thí. Trận chiến ở Phi Ngư đường, chúng tôi đã bỏ lỡ mất, nhưng cuộc chiến ở Phi Diên cốc lần này, chúng tôi thế nào cũng quyết không bỏ lỡ “.
Uất Trì Tĩnh Đình nói: “Ngày mai hai người chúng tôi và Thẩm công tử phái Nga My có hẹn so kiếm ở Phi Diên cốc. Nếu có thể thắng được vị ấy, chúng tôi hẳn được xếp hạng thứ mười hai rồi. Cô nương giả như có thời gian hay là cũng tới xem”.
Tay Hà Y chợt run run, nói: “Thẩm công tử? Thẩm Bân?”.
Hai huynh đệ nhà Uất Trì gật đầu, nói: “Đúng vậy. Xin thứ lỗi, không thể tiếp tục trò chuyện được rồi, hai huynh đệ chúng tôi tối nay còn phải luyện kiếm. Cáo từ”. Hà Y đang do dự, có nên đem chuyện Thẩm Bân chết thảm nói ra không vừa ngẩng đầu lên, hai huynh đệ kia đã ra khỏi cửa lơn.
Đưa mắt nhìn theo hai người đó, trong lòng Hà Y đột nhiên dâng lên một nỗi phiền muộn không tên. Hai người này xem ra vẫn còn là hai thanh niên chân chất thuần phác không hơn, trong đầu tràn đầy nhiệt huyết và mộng tưởng, hăng hái bừng bừng bước chân vào giang hồ. Giống như tất cả những người vừa vào giang hồ, họ theo bước những người nổi tiếng, đi bốn phương khiêu chiến, tranh thủ từng cơ hội để nổi danh.
Còn phải rất lâu nữa họ mới có thể biết được quy tắc vận hành của giang hồ, nhưng sẽ rất nhanh thôi hiểu được cái hung hiểm của nó.
Hay gặp trên đường nhất, quá nửa là thiếu niên thế cô lực mỏng, bọn họ thường trước bái sư học nghệ, gia nhập vào một môn phái có tiếng tăm. Mà môn phái này tất nhiên thế nào cũng có thù oán truyền đời với một, hai môn phái nào đó khác nữa. Mỗi năm, đệ tử của hai phái sẽ lại khiêu khích nhau, sau đó là một trường đại chiến, do các đệ tử ưu tú của hai phái tham gia, từ đồ đệ tỉ thí rồi đến sư phụ lên đài, phân rõ thắng bại. Bên thua tất nhiên phải nghiến răng nghiến lợi, ngậm đắng nuốt cay mà luyện tập gian khổ để năm sau rửa nhục.
Tất nhiên, đã là người thân mang tuyệt kỹ, con đường đi đương nhiên sẽ khác. Con đường ấy ngắn hơn, trực tiếp và nguy hiểm hơn.
Con đường ấy chính là tìm đến kẻ có tiếng mà khiêu chiến, đánh bại kẻ ấy thì chính mình nổi danh. Đương nhiên, nếu xui xẻo mà thua, hậu quả tất yếu hoặc mất mạng đương trường, hoặc tàn phế cả đời, hoặc bị trục xuất khỏi võ lâm
Người đi trên con đường thứ hai, đương nhiên cũng có cách thức riêng mà theo. Đối với kiếm khách mà nói, chính là một câu: phải thường xuyên quan sát. Anh phải biết tường tận những nhân vật kiệt xuất trong giang hồ mấy năm gần đây, từ cuộc sống cho đến hành vi của bọn họ đều phải năm rõ như lòng bàn tay. Trước khi cầm chắc chiến thắng, anh phải bám sát họ, không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để quan sát kiếm pháp.
Loại khát vọng thành danh này đang thúc đẩy các kiểu thỉ thí trên giang hồ.
Linh Tiên đài của Hoa Sơn, Phi Diên cốc của Vân Mộng và Thí Kiếm sơn trang của Tạ gia ở Giang Nam là ba địa điểm tỉ thí vang danh nhất giang hồ. Lúc náo nhiệt nhất, ở ba nơi ấy cơ hồ trong một năm tháng nào cũng có một cuộc tỉ thí.
Trong ba nơi ấy, Phi Diên cốc lại càng là nơi tấp nập nhất. Nguyên nhân thì cực kỳ đơn gian: Đánh nhau thì tất có tử thương, mọi người ai cũng muốn chọn nơi nào gần thần y Mộ Dung một chút.
Thẩm Bân đương nhiên là cao thủ thành danh theo con đường thứ nhất. Nga My phái người nhiều thế mạnh, trong đám đệ tử, người kiệt xuất cũng không ít, nổi tiếng nhất đương nhiên là Hạ Hồi, thứ đến là Thẩm Bân, Thẩm Đồng và Lưu Côn. Ngoài ra vẫn còn ba vị đạo nhân trung tuổi, tuy danh tiếng không lớn nhưng công phu thì cực ỳ cao thâm, chính là sư huynh đệ của chưởng môn Phương Nhất Hạc. Đạo hiệu của họ lần lượt là Tùng Phong, Tùng Lôi và Tùng Vân, được người đời xưng tụng là “Nga My tam Tùng”. Ba vị này rất ít xuất hiện trong võ lâm, nhưng trên núi Nga My thì có uy vong cực cao, kể như Phương Nhất Hạc, khi gặp họ, nói năng cũng cực kỳ khách khí. Thẩm Bân lại chính là đệ tử của Tùng Lôi.
Hà Y không nhịn được nghĩ tới bộ dạng chết thảm của Thẩm Bân. Ánh mắt của Thẩm Bân khi ấy rõ ràng rất kinh ngạc với kết cục của chính mình. Hiển nhiên y không ngờ tới bản thân lại chết bất ngờ, chết một cách hồ đồ như vậy, rất nhanh chóng trên người có thêm một vết thương, thiếu đi một thứ rồi đi đời.
Theo cách nhìn của Hà Y, mỗi con người trong suốt cuộc đời mình hình như đều theo đuổi một mục đích nào đó đã được định sẵn, mà mục tiêu này thì mỗi người một kiểu, nghìn sai vạn khác. Mộ Dung Vô Phong đã được định sẵn phải làm một thần y, Thẩm Bân định sẵn phải chết bởi kiếm, còn anh em nhà Uất Trì thì đã định sẵn phải trở thành Côn Lôn song kiếm. Mỗi người đều vì mục tiêu đã được định sẵn của mình mà bôn ba bận rộn. Mộ Dung Vô Phong bận hành nghề, Thẩm Bân bận tỉ kiếm, còn anh em nhà Uất Trì thì bận đọc số mới nhất củaGiang hồ khoái báo. Dường như bọn họ đều hiểu rất rõ bản thân đang bận rộn cái gì, tại sao phải bận rộn.
Còn chính nàng thì sao? Đang bận rộn cái gì? Tại sao lại bận rộn? Nàng hoàn toàn không biết.
Còn may là Hà Y nhớ mục đích tại sao lại bản thân lại chạy đến đây. Ngân lượng.
Nàng không ghét ngân lượng. Thường vì ngân lượng mà nhận làm những việc hoang đường.
Bây giờ, cuối cùng nàng cũng có chút ngân lượng, vậy mà lại cảm thấy trống rỗng thế này.
Nàng chợt cảm thấy, đời người đúng là không do chính bản thân mình chi phối. Nổi tiếng cũng chỉ vậy mà không nổi tiếng cũng thế, đều có thể bị người khác chi phối.
Những thiếu niên giang hồ được những câu chuyện truyền kỳ hun thêm bầu nhiệt huyết, thứ đầu tiên bị thiêu cháy, cuối cùng chính là bản thân họ.
Nghĩ tới đây, trong lòng nàng dấy lên một nỗi buồn bực và phiền muộn, bèn đứng dậy rời bàn, bước ra lan can bên ngoài hít thở bầu không khí mát lạnh lúc đêm xuống.
Đối diện với lan can chính là con đường lớn nhất trong trấn, hàng rong hai bên dường vẫn chưa tan hết. Ở cái trấn nhỏ muôn phần xa lạ này, cảnh về đêm lại thân thuộc đến vậy.
Ở đằng xa có tiếng vó ngựa văng vẳng vọng tới. Dõi theo thì thấy một cỗ xe ngựa màu đỏ thẫm, do bốn con ngựa khỏe kéo, không nhanh không chậm từ tốn chạy đến.
Đằng sau xe ngựa có hai người mặc áo xám cưỡi ngựa theo hầu.
Hà Y nhớ tới lần đầu tiên mình ngồi xe ngựa. Nàng trước giờ toàn cưỡi ngựa, vậy mà lần đầu tiên ngồi xe lại ngồi trên một cỗ xe xa hoa như vậy. Bên trong còn trải cả da hổ rộng rãi giống như một căn phòng.
Thế mà cỗ xe này so với cỗ xe mình từng ngồi còn lớn hơn nhiều.
Cỗ xe đi đến cửa Thính Phong lâu thì từ từ dừng lại. Hai người áo xám nhảy xuống ngựa, đến bên cỗ xe cung kính thưa: “Thưa cốc chủ, chúng ta đến nơi rồi”.
Thì ra là Mộ Dung Vô Phong, phải sớm đoán ra mới đúng.
Chỉ nghe thấy tiếng người mệt mỏi trong xe truyền ra: “Nơi đây ồn áo quá, không biết trên lầu có chỗ nào yên tĩnh hơn một chút không?”.
Quả nhiên à chàng. Chỉ là âm thanh cực kỳ mệt nhọc.
“Trên lầu hai có một gian phòng riêng của ông chủ Ông, ở góc phía bắc, chúng ta có thể mượn dùng”.
Lời chưa dứt, Ông Anh Đường đã từ bên trong sải bước đi tới nghênh đón, đến trước xe ngựa vái chào, kính cẩn nói: “Cốc chủ hạ cố, Anh Đường không tiếp đón từ xa thật thất lễ”.
Trong xe truyền ra một giọng lãnh đạm: “Ông chủ Ông khách khí quá rồi. Tôi muốn mượn một gian phòng trên lầu hai dùng một lúc, không biết có được không?”.
Ông Anh Dường nói: “Hiện còn hai phòng trống. Nhưng ở lầu bắc tại hạ có một gian phòng riêng sạch sẽ hơn, ngày thường dùng để nghỉ ngơi, cực kỳ yên tĩnh. Hay là xin cốc chủ cứ tạm đến lầu bắc trước rồi tính sau?”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Không cần. Một gian phòng trống là được rồi”.
Người áo xám mở cửa xe, đầu tiên đưa chiếc xe lăn xuống trước rồi mới nhẹ nhàng đưa Mộ Dung Vô Phong xuống sau.
Chàng vẫn mặc một bộ y phục màu trắng cực kỳ thanh nhã như lúc trước, ngồi trên chiếc xe lăn, lưng thẳng như bút. Tuy đầu mày còn vương chút mệt mỏi nhưng ánh mắt vẫn còn nguyên vẻ sắc bén.
Người hầu cận áo xám quỳ xuống, giúp chàng chỉnh lại vạt áo vừa rồi bị gió thổi lệch.
Ông Anh Đường nói: “Xin theo tại hạ. Cửa trước mùi rượu quá nồng, sợ cốc chủ không quen. Đằng sau có cửa riêng của quán, thông thẳng lên lầu hai”.
Mộ Dung Vô Phong ho khan hai tiếng, nói: “Còn phải phiền ông chủ Ông làm giúp một việc”.
“Xin cứ sai khiến.”
“Tôi có hẹn một vị cô nương họ Sở tới bàn việc. Nếu như Sở cô nương tới, phiền ông mời cô ấy đến chỗ tôi.”
“Có phải là Sở Hà Y nữ hiệp?”
Lần đầu tiên Hà Y nghe thấy có người gọi mình là “nữ hiệp”, trong lòng buồn cười, thiếu chút nữa cười thành tiếng.
Quả nhiên Mộ Dung Vô Phong nhíu mày, nói: “Chính là người này. Chằng qua, cô ấy từ bao giờ lại đã thành nữ hiệp rồi?”.
Ông Anh Đường cười nói: “Cố chủ có chỗ chưa rõ, mấy năm nay trên giang hồ, chỉ cần là người cầm kiếm, nhân cách không tệ hại là có thể xưng hiệp rồi. Mà trong đó, nữ kiếm khách đã ít lại càng ít, không gọi là nữ hiệp cũng không được”.
Mộ Dung Vô Phong cười nhạt, nói: “Xưng vị trên giang hồ hóa ra đều rất có ý tứ”, nói xong, người hầu cận đẩy xe cho chàng hướng về bên trái, chuẩn bị rời đi, chợt nghe thấy đằng sau có tiếng bước chân lộn xộn. Một kẻ thét lên: “Người đằng trước kia đứng lại”.
Người qua lại trước của quán vốn rất đông, nghe thấy tiếng thét giận dữ ấy có đến mười mấy người đứng lai.
Mấy người Mộ Dung Vô Phong cứ tiếp tục đi tiếp.
Chỉ thấy một bóng vàng vụt qua, một thân hình nhỏ nhắn tung mình nhảy tới, đáp xuống trước mặt Mộ Dung Vô Phong.
Mọi người nhìn kỹ, hóa ra là một cô gái mười bảy mười tám tuổi, mày nhỏ mắt lớn, mặc một bộ y phục màu vàng nhạt, mái tóc dài mượt mà dùng một chiếc khăn màu tía buộc lại, tai đeo một đôi khuyên bằng đá quý màu tím rủ xuống mười mấy hạt đá quý ngũ sắc to bằng hạt gạo, theo cử động của thân thể mà phát ra tiếng “lanh canh” Trong tay nàng ta là kiếm, mũi kiếm chỉ thẳng vào Mộ Dung Vô Phong, nói: “Vừa rồi chính ngươi nhắc tới tên của Sở Hà Y?”.
Người hầu áo xám duỗi ngón trỏ, đặt vào mũi kiếm ung dung hất thanh kiếm khỏi mặt Mộ Dung Vô Phong tầm giọng nói: “Cô nương có gì muốn nói, xin bình tĩnh mà nói”, rồi tiện tay búng lên mũi kiếm một cái, chỉ nghe “keng” một tiếng, mũi kiếm đã gãy đôi.
Hà Y rùng mình, chỉ lực thật lợi hại!
Nàng ta nhìn thanh kiếm của mình, vừa giận vừa sợ nói: “Ngươi dám phá hỏng kiếm của ta?”.
Người hầu áo xám lạnh lùng nghiêm nghị, nói: “Kẻ dám vô lễ trước mặt công tử, không chỉ bẻ một thanh kiếm mà thôi”.
Người này xem ra tuổi hơn ba mươi, eo thon vai rộng. Mặt hẹp mà dài, lại có chiếc mũi khoằm như chim ưng, khi nói, mắt nheo thành khe hẹp. Còn người kia tuy tuổi tác tương đương, xem ra văn nhã thanh tú hơn nhiều.
Một ánh chớp rạch nàng không trung, trời bỗng đổ mưa nhỏ. Hai người hầu cận lại như họa lớn đến nơi, vội nâng Mộ Dung Vô Phong đưa vào trong hành lang dưới hiên.
Tiểu cô nương kia lằng nhằng không thôi, nói: “Nếu các người chịu giao Sở Hà Y ra, mọi việc giữa chúng ta đều bỏ qua. Còn không bản cô nương đây…”, rồi lại chỉ thanh kiếm gãy trong tay vào mặt Mộ Dung Vô Phong. Trong mắt chẳng rõ vì sao lại tràn đầy nước mắt và hận thù. Biết rõ là không địch lại, vậy mà bộ dạng như bất cứ lúc nào cũng chuẩn bị lao vào liều mạng.
“Khoan hãy động thủ!”, một thanh niên áo gấm chớp mắt đã lao tới, khẽ vung tay một cái đã nhẹ nhàng đẩy cánh tay của nàng ta đi.
Người vừa đến là một thanh niên cao ráo thanh tao tựa ngọc, chắp tay nói: “Tại hạ là Thẩm Đồng phái Nga My. Vừa rồi ngẫu nhiên nghe thấy các vị nhắc tới một người mà bản phái đang truy tìm khắp nơi, không khỏi quá kích động. Tệ sư muội tuổi nhỏ chưa biết gì, mạo muội đắc tội rồi”, nói xong lại vái một vái. Đằng sau Thẩm Đồng cón có bốn người khác, y phục tuy khác nhau nhưng trên chuôi kiếm đều có khắc đồ hình bát quái, rõ ràng là kiếm riêng của phái Nga My chuyên dùng.
Ông Anh Đường ha ha cười, cũng chắp tay đi tới, nói: “Chẳng hay ngọn gió nào đưa Nga My thất kiếm tới Thính Phong lâu chúng tôi vậy?”, ông ta bao nhiêu năm làm ông chủ, nhìn vô số người trên giang hồ mà Ông Anh Đường không nhận ra thật không nhiều: “Vị này nhất định là thiên kim tiểu thư của Phương chưởng môn, Phương Li Châu cô nương rồi. Chớp mắt đã lớn bằng chừng này! Cha cô vẫn khỏe chứ?”, rồi đưa mắt sang: “Chu Tôn Thập, Diệp Bá Thắng, Từ Khuông Chi, Hà Thụy, ai da, sao lại chỉ có sáu người? Ha ha, ta biết rồi, Thẩm Bân tên nghiện rượu đó, nhất định đã chạy vào quán nốc rượu rồi”.
Ông Anh Đường không nhắc tới Thẩm Bân thì thôi, vừa nhắc tới Thẩm Bân, sáu người kia trên mặt đều toát lên vẻ bi phẫn.
Thẩm đồng nói: “Chúng tôi tìm Hà Sở Y chính là vì việc của Thẩm Bân”.
Ông Anh Đường thấy bọn họ thần sắc nặng nề, không nhịn được mà ngây người ra, hỏi: “Thâm công tử làm sao rồi?”.
“Huynh ấy bị người ta sát hại rất tàn nhẫn, chúng tôi vừa mới tìm được thi thể, nếu các vị có thể nói cho chúng tôi biết hành tung của Sở hà Y, tại hạ vô cùng cảm kích.”
“Tôi ở đây”, Hà Sở Y chậm rãi từ trong bóng tối bước ra.
Nàng liếc nhìn Mộ Dung Vô Phong, phát hiện chàng cũng đang nhìn mình.