Chứng liệt của ông tồi tệ đến mức tôi không chắc ông có thể bò ra ngoài hay không, kể cả có muốn, dù sao thì ông quá khiếp sợ bị bắt nên cũng không dám thử. Hàng đêm, sau khi tàu chuyển bánh, chúng tôi lại kéo những chiếc rương ra và cho ông dựa vào góc hoặc đặt ông lên giường xếp, còn tùy vào việc ông muốn ngồi dậy hay tiếp tục nằm xuống. Chính Walter là người khăng khăng đòi để ông nằm trên giường xếp, đến lượt mình, tôi cũng nhất quyết buộc Walter phải dùng giường cuốn. Và thế là tôi trở lại ngủ trên tấm chăn ngựa trong góc toa.
Chỉ mới hai ngày từ khi chúng tôi sống chung, những cơn co giật của Camel đã nghiêm trọng đến mức ông thậm chí không thể nói được. Walter phát hiện ra vào buổi trưa khi trở lại tàu để mang đồ ăn cho Camel. Tình trạng của Camel rất tồi tệ, Walter đã tìm tôi trong lều thú để kể việc đó, nhưng vì August đang quan sát nên tôi không thể trở về tàu.
Gần nửa đêm, Walter và tôi đang ngồi bên nhau trên giường xếp, chờ tàu chuyển bánh. Ngay khi tàu di chuyển, chúng tôi đứng dậy và kéo những cái rương ra xa tường.
Walter quỳ xuống, đặt tay xuống dưới nách Camel và nâng ông ngồi dậy. Rồi cậu ta lôi một cái chai bẹt trong túi ra.
Khi mắt Camel bắt gặp cái chai, ông đột ngột ngước nhìn mặt Walter. Rồi ông ràn rụa nước mắt.
“Gì vậy?” tôi vội hỏi.
“Mày nghĩ nó là cái quái gì chứ?” Walter nói. “Rượu đấy. Rượu thật. Hàng tốt đấy.”
Camel đưa đôi tay run bần bật với lấy cái chai. Walter, vẫn đang giữ cho ông ngồi thẳng, tháo nắp và đưa nó trên môi ông già.
LẠI MỘT TUẦN NỮA TRÔI QUA, và Marlena vẫn giấu mình trong phòng riêng. Tôi giờ đây muốn thấy nàng phát điên, đến nỗi tôi nhận thấy mình đang cố tìm cách nhòm qua cửa sổ mà không bị bắt gặp. Thật may mắn, lương tri đã thắng thế.
Hàng đêm, tôi nằm trên cái chăn ngựa hôi hám ở góc toa và tua lại cuộc nói chuyện cuối cùng của chúng tôi, từng từ quý giá. Tôi cứ đi theo cái quỹ đạo khổ sở đó hết lần này đến lần khác - từ niềm vui khó tin dồn dập kéo đến rồi lại nhanh chóng xẹp xuống. Tôi biết rằng nàng chẳng thể làm gì khác ngoài từ chối tôi, nhưng kể cả như vậy, tôi vẫn không thể chịu được. Cứ nghĩ về điều đó tôi lại khích động đến mức cứ trở mình trằn trọc mãi cho tới khi Walter bảo tôi thôi đi vì tôi đang làm cậu ta không ngủ được.
CỨ THẾ, CỨ THẾ. Hầu như chúng tôi chỉ lưu lại một ngày ở mỗi thị trấn, mặc dù chúng tôi thường dừng lại hai ngày qua Chủ nhật. Trong lúc đi từ Burlington tới Keokuk, Walter - với sự giúp đỡ của một lượng lớn uýt ki - đã moi được tên và nơi ở cuối cùng được biết đến của con trai Camel. Trong vài lần dừng tiếp theo, Walter vào thị trấn ngay sau khi ăn sáng và tới gần giờ diễn mới quay về. Đến Springfield thì cậu ta liên hệ được.
Đầu tiên, con trai của Camel từ chối hợp tác. Nhưng Walter rất kiên trì. Ngày nối ngày, nó vào thị trấn, đàm phán bằng điện tín, và đến thứ Sáu kế tiếp cậu con trai đã đồng ý gặp chúng tôi tại Providence và nhận chăm sóc ông già. Có nghĩa là chúng tôi sẽ phải tiếp tục thu xếp chỗ ở hiện tại cho Camel thêm vài tuần nữa, nhưng ít nhất cũng có một giải pháp. Và giải pháp đó khá hơn nhiều so với những gì chúng tôi có cho tới lúc này.
Ở TERRE HAUTE, Lucinda Duyên Dáng đột ngột qua đời. Sau khi hồi phục từ nỗi đau thương mất mát to lớn nhưng ngắn ngủi của mình, Bác Al đã tổ chức một buổi chia tay xứng đáng với “Lucinda yêu quý của chúng ta”.
Một giờ sau khi ký giấy khai tử, thi thể Lucinda được đặt trong khoang nước của xe chở hà mã, xe này được buộc vào một đội hai mươi tư ngựa Percheron đen gắn lông chim trên băng buộc đầu.
Bác Al trèo lên chiếc ghế dài cùng với người đánh xe, gần như suy sụp vì đau buồn. Một lúc sau ông ta ngọ nguậy những ngón tay, báo hiệu bắt đầu đám rước của Lucinda. Cô ta được kéo đi chầm chậm qua thị trấn, đi bộ theo sau là tất cả thành viên của Đoàn xiếc Ngoạn mục nhất Quả Đất của Anh em Benzini, rất đáng để xem. Bác Al vô cùng đau buồn, ông ta khóc than và gào thét vào cái khăn tay đỏ, chỉ cho phép mình thỉnh thoảng liếc nhìn lên để đánh giá xem tốc độ của đoàn rước có tạo điều kiện khuếch trương số lượng người gia nhập vào nó lên mức cực đại hay không.
Những phụ nữ đi ngay sau cỗ xe hà mã, tất cả đều mặc đồ đen và chấm những chiếc khăn tay viền đăng ten tao nhã vào khóe mắt. Tôi ở tít phía sau, bốn phía vây quanh là những người đàn ông đang gào khóc, khuôn mặt bóng lên vì nước mắt. Bác Al đã hứa trả ba đô la và một chai uýt ki Canada cho người nào diễn tốt nhất. Bạn chưa bao giờ thấy thứ gì sầu khổ đến vậy đâu - thậm chí cả lũ chó cũng tru lên.
Gần một nghìn người dân thị trấn đã theo chúng tôi về khu đất. Khi Bác Al đứng dậy trên xe ngựa, tất cả đều lặng im.
Ông ta cởi mũ và ép nó vào ngực, moi ra một cái khăn tay và khẽ chấm lên mắt. Ông ta đọc một bài diễn văn xúc động đến thắt tim, quẫn trí đến mức ông gần như không kìm nén nổi bản thân. Cuối bài diễn thuyết, ông ta nói rằng nếu có thể quyết định, ông sẽ hủy sô diễn tối nay để thể hiện sự tôn trọng với Lucinda. Nhưng ông không thể. Việc đó nằm ngoài tầm kiểm soát của ông. Ông là người coi trọng danh dự, và trong những giây phút cuối đời cô đã nắm tay ông và buộc ông phải hứa - không, phải thề - rằng ông sẽ không để cái chết rõ ràng là sắp đến của cô phá hỏng chu trình của buổi trình diễn và làm thất vọng hàng nghìn người đang mong chờ đến ngày diễn xiếc.
“Bởi vì dù sao chăng nữa...” Bác Al dừng lại, ghì chặt bàn tay vào tim và sụt sịt một cách thảm thương. Ông ta nhìn lên trời, nước mắt tuôn trào trên khuôn mặt.
Đàn bà, trẻ con trong đám đông gào khóc không che giấu. Một người phụ nữ đứng gần đầu lăng một cánh tay lên ngang trán rồi ngất xỉu, đám đàn ông ở cả hai bên nhoài người ra đỡ lấy cô ta.
Bác Al rõ ràng là cố gắng hết sức để lấy lại bình tĩnh, mặc dù ông ta không thể giữ cho môi dưới khỏi run lên. Ông ta gật đầu chầm chậm và tiếp tục. “Bởi vì, dù sao chăng nữa, như Lucinda yêu quý của chúng ta đã biết quá rõ... sô diễn phải tiếp tục!”
Tối đó chúng tôi đón một lượng khán giả khổng lồ - một cái “nhà rơm,” gọi như vậy vì sau khi tất cả ghế chính thức đã được bán hết, những người lao động tự do phải trải rơm trên đường biểu diễn cho khán giả không có chỗ ra ngồi.
Bác Al mở đầu sô diễn bằng một phút mặc niệm. Ông ta cúi đầu, nặn ra những giọt nước mắt thật sự, và gửi tặng màn trình diễn đến Lucinda, người mà lòng vị tha cao cả và thuần túy của cô là lý do duy nhất để chúng ta có thể tiếp tục trước sự mất mát to lớn này. Và chúng ta sẽ khiến cô tự hào - ồ vâng, tình yêu của chúng tôi dành cho Lucinda phi thường đến nỗi, bất chấp nỗi sầu khổ đang thiêu đốt chúng tôi, giằng xé trái tim tan vỡ của chúng tôi, chúng tôi vẫn sẽ dồn hết sức để thể hiện lòng trân trọng ước nguyện cuối cùng của cô và khiến cô tự hào. Các vị chưa từng được chứng kiến những gì kỳ diệu đến thế đâu, thưa quý ông quý bà, những tiết mục và các diễn viên quy tụ từ bốn phương trời để giải trí cho quý vị và làm quý vị vui thích, diễn viên thăng bằng, diễn viên nhào lộn, và diễn viên đu bay giỏi nhất...
SÔ DIỄN ĐƯỢC KHOẢNG một phần tư thời gian thì nàng bước vào lều thú. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của nàng trước cả khi nghe thấy tiếng thì thầm ngạc nhiên xung quanh mình.
Tôi đặt Bobo xuống sàn chuồng, quay lại và, hẳn rồi, nàng đang đứng đó, lộng lẫy trong trang phục dát xê quin hồng và khăn trùm đầu gắn lông chim. Nàng đang tháo cương cho những chú ngựa của mình và thả chúng xuống đất. Chỉ có Boaz - một con ngựa Ả rập màu đen và có lẽ là bạn diễn của Ngôi sao Bạc - là vẫn buộc cương, và rõ ràng là nó không vui vì điều đó.
Tôi dựa vào chuồng của Bobo, như bị thôi miên.
Những chú ngựa đó, tối nào tôi cũng đi cùng từ thị trấn này sang thị trấn khác và thường thì trông chẳng khác gì những con ngựa bình thường, đã thay đổi hoàn toàn. Chúng hỉ mũi và thở phì phì, cổ uốn cong còn đuôi thì vổng lên. Chúng tập hợp thành hai nhóm nhảy, một đen, một trắng. Marlena đứng đội diện với chúng, mỗi tay cầm một chiếc roi dài. Nàng giơ một chiếc lên và vung nó trên đầu. Rồi nàng bước lùi về phía sau, dẫn chúng ra khỏi lều thú. Lũ ngựa hoàn toàn được thoải mái. Chúng không phải đeo cương, không cương phụ, không yên - không gì cả. Chúng chỉ đi theo nàng, lắc đầu và hất chân về phía trước như những chú ngựa Saddlebred.
Tôi chưa từng được xem tiết mục của nàng - những người làm hậu trường như chúng tôi không có thời gian cho thú vui xa xỉ đó - nhưng lần này chẳng thứ gì có thể ngăn tôi được. Tôi đóng chặt cửa chuồng của Bobo và chui vào đường nối, một hành lang vải bạt không có nóc nối liền lều thú với lều chính. Người bán vé ghế đặt trước liếc vội tôi, và khi nhận ra tôi không phải là cớm thì anh ta quay lại công việc của mình. Những cái túi của anh ta kêu xủng xoảng, đầy chặt tiền. Tôi đứng cạnh anh ta, nhìn ngang qua ba vòng diễn tới tận cửa sau lều.
Bác Al giới thiệu, và nàng bước vào. Nàng xoay tròn, giơ cao cả hai chiếc roi trong không khí, vụt nhẹ một chiếc và lùi về sau vài bước. Hai nhóm ngựa nhanh chóng vào theo sau nàng.
Marlena đĩnh đạc bước vào vòng diễn trung tâm và những con ngựa đi theo, đàn ngựa đen trắng tung vó cao và nhảy dựng lên.
Khi đã vào đến trung tâm vòng diễn, nàng phát nhẹ roi trong không khí. Đàn ngựa bắt đầu chạy nước kiệu quanh vòng diễn, năm con đen nối đuôi năm con trắng. Sau hai vòng trọn vẹn, nàng lắc chiếc roi. Đám ngựa đen tăng tốc cho tới khi mỗi con đều phi nước kiệu cạnh một con trắng. Một cái lắc nữa, và chúng giảm tốc, tạo thành hàng để cho ngựa trắng đen xen kẽ nhau.
Nàng chỉ di chuyển ở mức tối thiểu, lớp xê quin hồng lung linh dưới ánh sáng rực rỡ. Nàng bước theo một vòng nhỏ ở trung tâm vòng diễn, khẽ quất roi thành tổ hợp các hiệu lệnh.
Đàn ngựa tiếp tục chạy vòng tròn, ngựa trắng chạy vượt qua ngựa đen rồi lại đến lượt ngựa đen vượt qua ngựa trắng, con ngựa cuối cùng luôn luân phiên đổi màu.
Nàng gọi to và chúng dừng lại. Nàng nói thêm điều gì đó, chúng quay đi và tiến lên đặt vó trước đặt trên gờ vòng diễn. Chúng bước sang bên, đuôi hướng về phía Marlena còn vó thì đặt trên gờ. Chúng đi đủ một vòng, trước khi nàng dừng chúng đi lại một lần nữa. Chúng trèo xuống và quay lại đối mặt với nàng. Rồi nàng gọi Nửa Đêm lên phía trước.
Đó là một chú ngựa đen tuyệt đẹp, ngựa lửa thuần Ả Rập với một hình thoi màu trắng hoàn hảo trên trán. Nàng nói chuyện với nó, cầm cả hai roi ở một tay và chìa gan bàn tay kia ra. Nó dúi mõm vào đó, cổ cong lại và lỗ mũi phình ra.
Marlena lùi lại và nâng một chiếc roi lên. Những con ngựa khác đứng nhìn, dậm chân tại chỗ. Nàng giơ chiếc kia lên và khẽ vụt đầu roi tới lui. Nửa Đêm đứng dậy trên hai chân sau, hai chân trước gập lại phía trước. Giờ nàng đang hét lên điều gì đó - lần đầu tiên nàng cao giọng - và lùi về sau một bước dài. Con ngựa tiến theo, đi trên hai chân sau và quờ quào không khí trước mặt. Nàng giữ nó ở tư thế đứng thẳng trong suốt quãng đường đi quanh vòng diễn. Rồi nàng ra hiệu cho nó hạ xuống. Lại một vòng quay roi khó hiểu nữa, và Nửa Đêm cúi đầu chào, quỳ xuống trên đầu gối của một chân trước còn chân kia duỗi thẳng. Marlena nhún đầu gối cúi chào thật thấp và khán giả hoan hô nhiệt liệt. Trong khi Nửa Đêm vẫn đang cúi đầu, nàng giơ cả hai roi lên và khẽ vụt. Đám ngựa còn lại xoay tròn tại chỗ.
Tiếng cổ vũ, tiếng tung hô ngày càng tăng. Marlena dang rộng tay trong không trung, quay người để từng khu khán giả có cơ hội thể hiện sự yêu mến với nàng. Rồi nàng quay về phía Nửa Đêm và duyên dáng ngồi lên cái lưng hạ thấp của nó. Nó đứng lên, uốn cong cổ, rồi đưa Marlena rời khỏi lều chính. Đám ngựa còn lại đi theo, lại một lần nữa phân nhóm theo màu sắc, cố đi dồn lại để có thể ở gần cô chủ của chúng.
Tim tôi đập mạnh đến mức, bất chấp tiếng gào thét của đám đông, tôi vẫn nhận thấy máu đang chẩy rần rật qua tai mình. Tình yêu trong tôi tràn ngập như chực trào ra, và bùng nổ.
TỐI ĐÓ, SAU KHI UÝT KI đã khiến Camel say như chết và Walter ngáy o o trên giường cuốn, tôi rời khỏi căn phòng nhỏ và đứng nhìn những cái lưng của đám ngựa xiếc.
Tôi chăm sóc cho những con ngựa này hàng ngày, dọn phân trong chuồng chúng, đổ đầy các thùng nước và máng ăn, chải lông cho chúng trước sô diễn. Tôi xem xét răng, chải bờm cho chúng và kiểm tra nhiệt độ ở chân. Tôi thưởng cho chúng và vỗ về cổ chúng. Chúng đã trở thành một phần quang cảnh thân thuộc của tôi như Queenie vậy, nhưng sau khi xem tiết mục của Marlena tôi sẽ không bao giờ nhìn chúng theo cách cũ nữa. Những con ngựa này là một sự mở rộng của Marlena - một phần của nàng đang ở đây, ngay lúc này, cùng với tôi.
Tôi với qua tấm ngăn chuồng và đặt tay lên một cái mông phủ lông đen mượt. Nửa Đêm, lúc này nó đã ngủ, ngạc nhiên kêu lên và quay đầu lại.
Khi thấy đó chỉ là tôi, nó lại quay đi. Tai nó cụp xuống, mắt nhắm lại, và nó chuyển trọng tâm để cho một chân sau nghỉ ngơi.
Tôi quay lại phòng chứa dê và kiểm tra xem Camel còn thở hay không. Rồi tôi nằm xuống tấm chăn ngựa và bị cuốn vào một giấc mơ về Marlena mà có lẽ tôi sẽ phải đánh đổi cả linh hồn.
PHÍA TRƯỚC những chiếc bàn hâm nóng thức ăn vào sáng hôm sau:
“Xem kìa,” Walter nói, giơ tay lên chọc vào sườn tôi.
“Gì cơ?”
Cậu ta chỉ.
August và Marlena đang ngồi ở bàn của chúng tôi. Đây là lần đầu tiên họ xuất hiện để dùng bữa kể từ tai nạn của nàng.
Walter giương mắt nhìn tôi. “Mày sẽ ổn chứ?”
“Ổn, hẳn nhiên rồi,” tôi cáu kỉnh đáp.
“Được rồi. Cứ đi xem sao,” cậu ta nói. Chúng tôi đi qua Ezra luôn-cảnh-giác và bước về phía hai bàn khác nhau.
“Chào buổi sáng, Jacob,” August nói khi tôi đặt đĩa của mình lên bàn và ngồi xuống.
“August. Marlena,” tôi nói, gật đầu với từng người.
Marlena nhìn lên thật nhanh rồi lại quay xuống đĩa của mình.
“Và vào một ngày đẹp trời thế này, cậu khỏe chứ?” August hỏi. Anh ta xọc vào một đống trứng bác.
“Khỏe. Còn anh?”
“Tuyệt vời,” anh ta đáp.
“Còn Marlena thế nào?” tôi hỏi.
“Khá hơn rất nhiều rồi, cám ơn anh,” nàng nói.
“Tối qua tôi đã xem tiết mục của cô,” tôi nói.
“Vậy sao?”
“Phải,” tôi nói, giũ khăn ăn và trải rộng nó trong lòng. “Nó thật... Tôi không biết phải nói thế nào nữa. Thật đáng kinh ngạc. Tôi chưa từng được xem cái gì như thế.”
“Ồ?” August nói, một bên lông mày nhếch lên. “Chưa từng ư?”
“Chưa. Chưa bao giờ.”
“Thật à.”
Anh ta nhìn thẳng vào tôi, không chớp mắt. “Tôi cứ nghĩ là lúc đầu chính màn biểu diễn của Marlena đã thôi thúc cậu gia nhập đoàn mà, Jacob. Tôi nhầm sao?”
Tim tôi khẽ nảy lên trong lồng ngực. Tôi cầm bộ dao nĩa lên: nĩa tay trái, dao tay phải - kiểu châu Âu, giống mẹ tôi.
“Tôi đã nói dối,” tôi đáp.
Tôi xiên vào đầu miếng xúc xích và bắt đầu cắt nó ra, chờ đợi một phản hồi.
“Cậu nói gì cơ?” anh nói.
“Tôi đã nói dối. Tôi đã nói dối!” Tôi đập mạnh dao nĩa xuống, một miếng xúc xích nhỏ vẫn đang cắm trên n ĩa. “Được chưa? Đương nhiên là tôi chưa từng nghe nói về Anh em Benzini trước khi nhảy lên tàu của các người. Thằng quái nào đã nghe về Anh em Benzini chứ? Gánh xiếc duy nhất tôi từng xem trong cả cuộc đời của mình là Anh em Ringling, và họ rất tuyệt. Tuyệt vời! Anh nghe tôi nói không?”
Một khoảnh khắc im lặng kỳ quặc. Tôi nhìn quanh, khiếp sợ. Mọi người trong lều đang nhìn tôi. Mồm Walter há hốc. Tai Queenie đang ép chặt vào đầu. Xa xa, có tiếng lạc đà rống lên.
Cuối cùng tôi nhìn sang August. Anh ta cũng vậy, đang nhìn tôi đăm đăm. Một bên mép ria của anh ta rung lên. Tôi nhét khăn ăn của mình xuống dưới mép đĩa, tự hỏi liệu anh ta có định với qua bàn để tóm lấy tôi không.
Mắt August mở to hơn. Tôi duỗi căng những khớp ngón tay dưới mặt bàn. Rồi August phá lên cười. Anh ta cười dữ dội đến mức đỏ cả mặt, ôm chặt lấy cơ hoành và cố sức để thở. Anh ta cười rú lên đến chảy cả nước mắt, còn môi thì run lên vì hoạt động quá nhiều.
“Ôi, Jacob,” anh ta nói trong lúc lau má. “Ôi, Jacob. Tôi nghĩ có lẽ mình đã đánh giá sai cậu. Phải. Đúng là như vậy. Tôi nghĩ có lẽ mình đã đánh giá sai cậu.” Anh ta cười sằng sặc và khụt khịt mũi, lấy khăn ăn lau mặt. “Ôi bạn thân mến,” anh ta thở dài. “Ôi bạn của tôi.” Anh ta đằng hắng rồi cầm bộ đồ ăn lên, xiên vài miếng trứng lên nĩa rồi lại đặt nó xuống, và lại một lần nữa anh ta cười như nắc nẻ.
Các thực khách khác quay lại với bữa ăn của mình, nhưng với vẻ rất miễn cưỡng, hệt như đám đông đã đứng xem khi tôi đuổi gã đàn ông nọ ra khỏi khu đất vào cái ngày đầu tiên đó. Nhưng tôi không thể không nhận thấy rằng khi quay lại với bữa ăn của mình, ánh nhìn của họ thật e sợ.
CÁI CHẾT CỦA LUCINDA ĐỂ LẠI cho chúng tôi một chỗ khuyết nghiêm trọng trong đội ngũ những kẻ kỳ dị. Và chỗ khuyết đó phải được lấp đầy - tất cả các đoàn xiếc lớn đều có những nàng béo, vì vậy chúng tôi cũng phải có.
Bác Al và August sục sạo tạp chí Billboard và cứ đến mỗi điểm dừng là lại gọi điện và gửi điện tín, cố gắng tuyển cho được một người mới, nhưng tất cả các nàng béo được biết đến đều tỏ ra hoặc là thỏa mãn với chỗ làm hiện tại của mình hoặc nghi ngờ về danh tiếng của Bác Al. Sau hai tuần và mười lần chuyển địa điểm, Bác Al đã quá tuyệt vọng đến mức ông ta phải tiếp cận một người đàn bà có vóc dáng to lớn trong đám khán giả. Thật không may, bà ta hóa ra lại là một sĩ quan cảnh sát, và kết cục là Bác Al bị thâm tím một bên mắt thay vì lôi kéo được một nàng béo, cùng với đó là những chỉ dẫn sơ lược về việc rời khỏi thị trấn.
Chúng tôi có hai tiếng đồng hồ. Các diễn viên lập tức cô lập mình trong những toa tàu. Những người lao động tự do một khi đã bị khích động thì chạy quanh như gà mất đầu. Bác Al không thở nổi và tím tái lại, khua gậy nhặng xị và đánh đập mọi người nếu họ không đi nhanh được như ông ta muốn. Lều bạt hạ xuống quá nhanh khiến khối người bị kẹt bên trong, và rồi những người đang hạ những cái lều khác lại phải tới lôi họ ra trước khi họ chết ngạt trong đống vải bạt rộng mênh mông, hay - tồi tệ hơn, theo đánh giá của Bác Al - phải dùng dao nhíp để khoét lấy một lỗ thở.
Sau khi tất cả bầy thú đã được đưa lên, tôi lui về toa ngựa xiếc. Tôi không thích ánh nhìn của dân thị trấn đang lảng vảng quanh rìa khu đất. Rất nhiều người mang theo vũ khí, và một linh cảm xấu sôi lên trong bụng tôi.
Tôi vẫn chưa thấy Walter, vậy nên tôi cứ đi tới đi lui trước cánh cửa mở, nhìn khắp khu đất. Những người da đen đã trốn trên tàu Phi Đội khá lâu rồi, và tôi không hề tin rằng cái đám dân thị trấn hỗn tạp ấy lại không tự bằng lòng nếu có một thằng lùn tóc đỏ thế chỗ lũ da đen.
Một tiếng năm mươi lăm phút kể từ khi chúng tôi nhận lệnh rời đi, cậu ta ló mặt ra ở cửa vào.
“Cậu đã ở chỗ quái quỷ nào thế?” Tôi hét lên.
“Là nó hả?” Camel lục khục nói từ sau đống rương.
“Phải, là cậu ấy. Trèo lên đây đi,” tôi nói, vẫy Walter vào. “Đám đông trông có vẻ giận dữ quá.”
Cậu ta không động đậy. Cậu ta mặt đỏ bừng và thở hổn hển. “Queenie đâu? Mày có thấy Queenie không?”
“Không. Sao?”
Cậu ta biến mất.
“Walter!” Tôi nhảy lên và theo nó tới cửa. “Walter! Cậu định đi đâu thế? Người ta đã thổi còi năm phút rồi đấy!”
Cậu ta đang chạy dọc theo con tàu, cúi xuống nhìn giữa các bánh xe. “Ra nào, Queenie! Lại đây nào, cô bé!” Cậu ta đứng thẳng dậy, dừng lại trước từng toa chở gia súc, gào qua lớp gỗ giát rồi chờ đợi tiếng đáp lại. “Queenie! Lại đây nào, cô bé!” Nỗi tuyệt vọng trong giọng cậu ta tăng lên sau mỗi lần gọi.
Một tiếng còi hụ lên, một hồi cảnh báo kéo dài tiếp nối bởi tiếng đầu máy rít lên và phun xì xì.
Giọng Walter run rẩy, khản đi vì gào thét. “Queenie! Cưng ở chỗ quái nào thế? Queenie! Ra đi!”
Phía trước, những người cuối cùng tụt lại đang nhảy lên các toa trần.
“Walter, thôi nào!” Tôi hét lên. “Đừng phí thời gian vô ích. Cậu phải lên ngay bây giờ.”
Cậu ta lờ tôi đi. Lúc này cậu ta đã ở chỗ các toa trần, nhòm vào giữa các bánh xe ngựa. “Queenie, ra đi!” cậu ta hét. Cậu ta khựng lại và đột ngột đứng thẳng lên. Trông cậu ta đờ ra. “Queenie?” Cậu ta không nói với một ai cụ thể cả.
“Ôi khỉ thật,” tôi thốt lên.
“Nó đang quay lại hay sao thế?” Camel hỏi.
“Trông không có vẻ như vậy,” tôi đáp.
“Đi lôi nó về đi!” ông quát.
Con tàu lắc về phía trước, những toa tàu nảy xóc lên khi đầu máy kéo những đoạn trùng giữa các móc nối.
Tôi nhảy xuống bãi sỏi và chạy về phía các toa trần. Walter đang đứng đ ối diện với đầu tàu.
Tôi chạm vào vai cậu ta. “Walter, đến lúc phải đi rồi.”
Cậu ta quay lại nhìn tôi, ánh mắt khẩn khoản. “Nó đâu rồi? Mày có thấy nó không?”
“Không. Đi thôi, Walter,” tôi nói. “Chúng ta phải lên tàu ngay bây giờ.”
“Tao không thể,” cậu ta nói. Khuôn mặt cậu trống rỗng. “Tao không thể bỏ nó lại. Tao không thể.”
Con tàu đang xình xịch tiến về phía trước, hơi nước tuôn ra nghi ngút.
Tôi liếc về phía sau mình. Dân thị trấn, được trang bị súng trường, gậy bóng chày và gậy, đang tràn tới. Tôi nhìn lại về phía đoàn tàu đủ lâu để có được cảm giác về tốc độ, và đếm, cầu Chúa rằng tôi đúng: một, hai, ba, bốn.
Tôi bế thốc Walter lên như một bao bột mì rồi ném cậu ta vào trong. Một tiếng rầm và một tiếng rên rỉ vang lên khi cậu ta đập vào sàn tàu. Tôi chạy hết tốc lực bên cạnh con tàu và tóm chặt lấy then chắn sắt cạnh cửa. Tôi để tàu kéo mình theo đúng ba bước sải dài, và rồi lợi dụng vận tốc của nó để nhảy bật vào trong toa.
Mặt tôi trượt qua những tấm ván sàn bấp bênh. Khi nhận ra mình đã an toàn, tôi tìm Walter, chuẩn bị cho cậu ta một trận.
Cậu ta đang nép mình trong góc, khóc lóc.
WALTER KHÔNG THỂ NGUÔI NGOAI. Cậu ta cứ ở rịt trong góc khi tôi kéo đống rương và đưa Camel ra. Tôi cạo râu cho ông già - một công việc thường bao gồm cả ba người chúng tôi - rồi kéo ông ra khu vực phía trước đám ngựa.
“Chà, thôi nào, Walter,” Camel nói. Tôi vòng tay qua nách để giữ ông, cái mông trần truồng của ông đu đưa trên cái thứ mà Walter gọi là thùng mật ong. “Mày đã làm những gì có thể rồi.” Ông nhìn qua vai về phía tôi. “Này, hạ thấp tao xuống một chút được không? Tao đang đu đưa trong làn gió nhẹ đây này.”
Tôi dịch chân để giạng ra dài hơn, cố gắng hạ thấp Camel trong khi vẫn giữ lưng mình thẳng. Thông thường Walter là người lo phần này vì chiều cao của cậu ta rất vừa vặn.
“Walter, tôi cần cậu giúp một tay,” tôi nói khi một cơn đau nhói qua lưng.
“Im đi,” cậu ta nói.
Camel lại quay lại nhìn, lần này một bên lông mày nhướng lên.
“Ổn thôi,” tôi nói.
“Không, không ổn chút nào.” Walter thét lên từ trong góc. “Chẳng có gì ổn cả! Queenie là tất cả những gì tao có. Mày hiểu chứ?” Giọng cậu ta chuyển thành tiếng thút thít. “Nó là tất cả những gì tao có.”
Camel vẫy tay về phía tôi ra dấu ông đã xong. Tôi lê chân hơn nửa mét và đặt ông nằm nghiêng.
“Nào, điều đó đâu có đúng,” Camel nói khi tôi lau rửa cho ông. “Một anh bạn trẻ như mày phải có người thân ở đâu đó chứ.”
“Ông chẳng biết gì cả.”
“Mày không có một người mẹ ở đâu đó à?” Camel gặng hỏi.
“Tôi chẳng cần mẹ nào hết.”
“Này, đừng có nói như thế,” Camel nói.
“Việc quái gì lại không nói chứ? Mụ ta đã bán tôi cho nơi này khi tôi mới mười bốn,” cậu ta trừng mắt nhìn chúng tôi. “Và đừng có nhìn tôi như thể các người đang thương hại tôi,” cậu ta gắt. “Dù sao mụ ta cũng chỉ là một con quạ già. Thằng quái nào cần mụ ta chứ.”
“Mày nói bán là sao?” Camel hỏi.
“Chậc, tôi không hẳn là được tạo hình thích hợp để làm việc đồng áng, đúng không? Cứ mặc xác tôi có được không?” Cậu ta xoay người, quay lưng về phía chúng tôi.
Tôi gài quần cho Camel, giữ lấy nách ông, và kéo ông trở lại phòng. Hai chân ông kéo lê phía sau, gót cọ xát với sàn tàu.
“Trời, ôi trời ơi,” ông thốt lên khi tôi đặt ông lên giường xếp. “Như thế chẳng phải quá đáng sao?”
“Bác sẵn sàng ăn một chút rồi chứ?” tôi nói, cố gắng đổi chủ đề.
“Không, chưa đâu. Nhưng một hớp uýt ki thì sẽ nuốt trôi đó.” Ông buồn bã lắc đầu. “Tao chưa từng nghe nói về một người đàn bà nào nhẫn tâm đến vậy.”
“Tôi vẫn nghe được đấy, ông biết mà,” Walter quát. “Vả lại, ông không có tư cách gì để nói cả, ông già ạ. Lần cuối ông nhìn thấy con trai mình là khi nào?”
Camel tái nhợt người đi.
“Hả? Không trả lời được hả, phải không?” Walter tiếp tục nói từ bên ngoài căn phòng. “Những gì ông làm và những gì mẹ tôi làm cũng chẳng khác nhau mấy, đúng không?”
“Có đấy,” Camel hét lên. “Quá khác nhau đấy. Mà làm thế quái nào mày biết được tao đã làm gì?”
“Có một đêm bác đã nhắc đến con trai trong cơn say,” tôi khẽ nói.
Camel nhìn tôi chằm chằm một lúc. Rồi mặt ông méo xệch. Ông nâng một cánh tay mềm oặt lên trán và quay qua chỗ khác. “Khốn thật,” ông nói. “Khốn nạn thật. Tao không hề hay là chúng mày đã biết,” ông nói. “Chúng mày phải nói với tao chứ.”
“Tôi cứ nghĩ là bác vẫn nhớ,” tôi nói. “Dù sao thì cậu ta cũng không nói gì nhiều. Cậu ta chỉ nói rằng bác đã bỏ nhà đi.”
“ ‘Cậu ta chỉ nói?’” Camel quay phắt đầu lại. “ ‘Cậu ta chỉ nói’? Cái đó nghĩa là sao chứ? Các người đã liên lạc với nó à?”
Tôi tụt xuống sàn và dựa đầu lên gối. Đêm nay sẽ là một đêm dài đây.
“Mày bảo ‘cậu ta chỉ nói’ là ý gì?” Camel rít lên. “Tao đang hỏi mày đấy!”
Tôi thở dài. “Phải, chúng tôi đã liên lạc với cậu ấy.”
“Bao giờ?”
“Vài hôm trước.”
Ông nhìn tôi, kinh ngạc. “Nhưng vì sao?”
“Cậu ấy sẽ gặp chúng ta ở Providence. Cậu ấy sẽ đưa ông về nhà.”
“Ôi không,” Camel kêu lên, lắc đầu quầy quậy. “Ôi không, nó sẽ không làm thế.”
“Camel...”
“Mấy người đi làm việc đó để làm quái gì cơ chứ? Các người không có quyền!”
“Chúng tôi không có lựa chọn nào khác!” tôi hét lên, rồi dừng lại, nhắm mắt và cố gắng trấn tĩnh. “Chúng tôi không có lựa chọn nào khác,” tôi nhắc lại. “Chúng tôi phải làm gì đó.”
“Tao không thể quay về! Chúng mày không hiểu chuyện gì đã xảy ra đâu. Chúng không còn cần tao nữa.”
Môi ông run lên, còn mồm thì ngậm chặt lại, quay mặt đi. Một lúc sau, vai ông bắt đầu rung lên.
“Khỉ thật,” tôi nói. Tôi cao giọng, hét lên qua khung cửa mở. “Này, cám ơn nhé Walter! Tối nay cậu đã giúp đỡ rất nhiều! Tôi rất cảm kích đấy!”
“Cút đi!” cậu ta đáp.
Tôi tắt đèn dầu và bò lên tấm chăn ngựa của mình. Tôi nằm xuống bề mặt thô ráp của nó và rồi lại ngồi dậy.
“Walter!” tôi hét lên. “Này, Walter! Nếu cậu không quay vào, tôi sẽ dùng giường cuốn đấy.”
Không có tiếng trả lời.
“Có nghe tôi nói không? Tôi nói tôi sẽ dùng giường cuốn đó.”
Tôi chờ một hay hai phút gì đó rồi bò qua sàn.
Cả đêm Walter và Camel tạo ra những âm thanh khi người ta cố kìm nén không khóc, còn tôi thì rịt gối vào tai, cố không phải nghe họ rên rỉ.
TÔI TỈNH GIẤC NHỜ GIỌNG CỦA MARLENA.
“Cốc cốc. Tôi vào được chứ?”
Tôi vụt mở mắt. Đoàn tàu đã dừng bánh, và không hiểu sao tôi lại ngủ được suốt lúc đó. Tôi cũng giật mình vì tôi đang mơ về Marlena, và trong một khoảnh khắc tôi không biết liệu có phải mình vẫn đang ngủ hay không.
“Xin chào? Có ai trong đó không?”
Tôi bật dậy, tựa người trên khuỷu tay và nhìn sang Camel. Ông lão nằm bất lực trên chiếc giường xếp, mắt mở to sợ hãi. Cánh cửa phía trong đã để ngỏ cả đêm. Tôi đứng bật lên.
“Đây, đợi một chút!” Tôi vội đi ra để gặp nàng, kéo cánh cửa đóng lại phía sau mình.
Nàng đã trèo vào trong toa. “Ồ, xin chào,” nàng nói, nhìn về phía Walter. Cậu ta vẫn đang rúc vào xó. “Thật ra tôi đang kiếm cậu. Đây có phải chó của cậu không?”
Walter quay ngoắt đầu lại. “Queenie!”
Marlena cúi xuống để thả nó ra, nhưng trước khi nàng kịp làm thế, Queenie đã vặn người thoát ra, rơi xuống sàn đánh phịch một cái. Nó quờ quạng đi trên sàn rồi sà vào lòng Walter, liếm mặt chủ và vẫy đuôi mạnh đến mức ngã bổ chửng ra sau.
“Ôi, Queenie! Cưng đã ở đâu vậy, cưng hư, hư lắm! Cưng làm anh lo lắm đấy, bé hư!” Walter chìa mặt và đầu ra cho con chó liếm, còn Queenie thì lắc lư và vặn vẹo vì sung sướng.
“Nó đã ở đâu vậy?” tôi hỏi, quay về phía Marlena.
“Nó chạy theo đoàn tàu khi chúng ta rời ga vào hôm qua,” nàng nói, vẫn hướng ánh nhìn về phía Walter và Queenie. “Tôi thấy nó từ cửa sổ và nhờ Auggie ra ngoài. Anh ấy nằm sấp bụng trên sàn tàu và bế nó lên.”
“August ư?” tôi nói. “Thật à?”
“Phải. Sau đó nó đã cắn anh ấy vì anh ấy làm nó đau.”
Walter ôm con chó bằng cả hai tay và vùi mặt vào bộ lông của nó.
Marlena đứng nhìn thêm một lúc rồi quay về phía cửa ra. “Chà, tôi nghĩ mình phải đi rồi,” nàng nói.
“Marlena,” tôi gọi, với lấy tay nàng.
Nàng dừng lại.
“Cám ơn cô,” tôi nói và thả tay ra. “Cô không biết việc này có ý nghĩa thế nào với cậu ấy đâu. Với cả hai chúng tôi, thật đấy.”
Nàng liếc nhìn tôi thật nhanh - với dấu hiệu nhỏ nhất của một nụ cười - rồi lại nhìn lên lưng những con ngựa của nàng. “Vâng. Có chứ. Tôi nghĩ là mình biết.”
Mắt tôi ươn ướt khi nàng trèo xuống toa tàu.
“CHẬC, CHÚNG MÀY BIẾT GÌ KHÔNG,” CAMEL NÓI. “Có lẽ rốt cuộc hắn vẫn là một con người.”
“Ai? August á?” Walter hỏi. Cậu ta cúi xuống, nắm lấy tay cầm của một chiếc rương và kéo nó ngang qua sàn phòng. Chúng tôi đang sắp xếp căn phòng vào trật tự của ban ngày, mặc dù Walter làm mọi việc chỉ với nửa tốc độ vì cậu ta cứ đòi được ôm Queenie ở một tay. “Không đời nào.”
“Cậu có thể thả nó xuống, cậu biết đấy,” tôi nói. “Cửa đóng rồi.”
“Hắn đã cứu con chó của mày,” Camel nhấn mạnh.
“Hắn sẽ không làm thế nếu biết nó là của tôi. Queenie biết điều đó. Đó là lý do nó cắn hắn. Đúng vậy, cưng biết, phải không, bé yêu?” cậu ta nói, kéo mũi con chó lên mặt mình rồi trở lại kiểu nói với trẻ con. “Phải, Queenie là một cô bé thông minh.”
“Điều gì khiến cậu nghĩ anh ta không biết?” tôi hỏi. “Marlena biết mà.”
“Bởi vì tôi biết thế. Trong cái xác Do Thái đó làm gì có nổi một khúc xương người.”
“Cẩn thận cái mồm của cậu đấy!” tôi hét lên.
Walter ngừng lại, nhìn tôi. “Sao? Ồ, này, mày không phải dân Do Thái đấy chứ? Nghe này, tao xin lỗi. Tao không có ý đó. Chỉ là một lời nói rẻ tiền thôi mà,” cậu ta nói.
“Phải, đó quả là một lời nói rẻ tiền,” tôi nói, vẫn hét lên. “Tất cả đều là những lời nói rẻ tiền và tôi sắp phát buồn nôn vì chúng rồi. Nếu là một diễn viên, cậu bình phẩm về đám người làm. Nếu là một người làm, cậu bình phẩm về dân Ba Lan. Nếu là dân Ba Lan, cậu bình phẩm về người Do Thái. Và nếu cậu là một thằng lùn - chà, nói tôi nghe, Walter? Cậu chỉ ghét người Do Thái và đám người làm thôi, hay là ghét cả dân Ba Lan nữa?”
Walter đỏ chín mặt và cúi gằm xuống. “Tao không ghét họ. Tao chẳng ghét ai cả.” Sau một lúc cậu ta nói thêm, “Chậc, được rồi, tao thật sự ghét August. Nhưng tao ghét hắn vì hắn là một thằng khốn điên loạn.”
“Không cần tranh cãi gì về điểm đó,” Camel càu nhàu.
Tôi nhìn từ Camel sang Walter, rồi lại nhìn trở lại. “Phải,” tôi thở dài nói. “Phải, tôi cho là không.”
Ở HAMILTON, NHIỆT ĐỘ dần lên tới trên ba mươi độ, mặt trời gay gắt rọi lên khu đất, mà nước chanh thì không cánh mà bay.
Người đàn ông ở quầy nước quả, người chỉ rời bể trộn lớn không quá vài phút, bổ về phía Bác Al, ông ta tin rằng những người lao động tự do chính là thủ phạm.
Bác Al cho họ tập hợp thành vòng tròn. Họ đi ra từ phía sau chuồng ngựa và lều thú, vẫn còn ngái ngủ, tóc dính đầy rơm. Tôi quan sát từ đằng xa, nhưng thật khó mà không nghĩ rằng họ có vẻ gì đó vô tội.
Có vẻ như Bác Al không đồng tình. Ông ta cứ lao đi lao lại, rống lên như Thành Cát Tư Hãn duyệt quân. Ông ta gào vào mặt họ, kể lể chi tiết phí tổn - cả chi phí nguyên liệu lẫn doanh thu bị hao hụt - của số nước chanh bị ăn cắp và nói rằng tất cả bọn họ sẽ bị cắt lương nếu chuyện này còn tái diễn. Ông ta vỗ mạnh vài phát lên đầu rồi đuổi họ đi. Họ nem nép trở về chỗ nghỉ, vò đầu và nhìn nhau đầy nghi hoặc.
Chỉ trong mười phút trước khi mở cổng, những người ở quầy nước quả đã pha xong một mẻ khác bằng nước lấy từ máng của động vật. Họ lọc bỏ yến mạch, cỏ khô, và râu ria của thú qua một đôi bít tất dài được một anh hề tặng cho, và khi họ đổ xong những “vật nổi” vào - những lát chanh bằng sáp được thiết kế để tạo ấn tượng rằng thực chất việc pha chế có liên quan tới hoa quả thật ở một giai đoạn nào đó - thì một đám dân quê khổng lồ đã tiến vào lô giữa. Tôi không biết vòi dẫn nước có sạch hay không, nhưng tôi nhận thấy rằng ngày hôm đó mọi người trong đoàn tránh uống nước chanh.
Nước chanh lại bị mất ở Dayton. Một lần nữa, mẻ mới lại được pha với nước trong máng của thú và được bày ra một lúc trước khi đám dân quê xuống tới nơi.
Lần này, khi Bác Al tập trung tất cả những nghi phạm thường lệ đến, thay vì cắt lương của họ - dù sao cũng chỉ là một lời hăm dọa vô nghĩa vì chưa ai trong số họ được trả lương trong hơn tám tuần rồi - ông ta ép họ lôi những chiếc túi nhỏ đeo cổ bằng da dê của mình ra và nộp năm mươi xu mỗi người. Chủ nhân của những chiếc túi đeo cổ đó thật sự phẫn nộ.
Kẻ trộm nước chanh đã đánh trúng vào chỗ đau của những người lao động tự do, và họ đã sẵn sàng hành động. Khi chúng tôi tới Columbus, vài người trong số họ núp gần bể trộn và chờ đợi.
TRƯỚC GIỜ DIỄN KHÔNG LÂU, August gọi tôi tới lều thay đồ của Marlena để xem mẩu quảng cáo về một chú ngựa trò màu trắng. Marlena cần một con khác vì mười hai con ngựa sẽ đẹp mắt hơn là mười, và đẹp mắt là tất cả. Hơn nữa, Marlena nghĩ Boaz đang chán vì bị bỏ lạ i một mình trong lều thú trong khi những con khác được biểu diễn. Đấy là những gì August nói, nhưng tôi nghĩ mình đang được yêu mến trở lại sau vụ bùng nổ ở nhà bếp. Hoặc là thế, hoặc là August đã quyết định giữ bạn bè ở gần bên và giữ kẻ thù thậm chí còn gần hơn.
Tôi đang ngồi trên ghế gấp với tạp chí Billboard trong lòng và một chai nước rễ thổ phục linh trong tay. Marlena đang đứng trước gương chỉnh trang lại y phục, và tôi cố không nhìn. Một lần mắt chúng tôi chạm nhau trong gương, tôi đã nghẹt thở, nàng đỏ mặt, và cả hai chúng tôi đều nhìn đi chỗ khác.
August không biết việc đó, anh ta đang cài khuy áo gi lê và tán chuyện một cách hòa nhã thì Bác Al xộc vào qua vạt lều.
Marlena quay lại, cảm thấy bị xúc phạm. “Này, ông không biết là phải hỏi trước khi vào lều thay đồ của phụ nữ à?”
Bác Al chẳng thèm đếm xỉa đến nàng. Ông ta bước thẳng tới chỗ August và chọc ngón tay vào ngực anh ta.
“Đó là con voi khốn nạn của mày!” ông ta gào lên.
August nhìn xuống ngón tay đang chọc vào ngực mình, ngập ngừng một chút, rồi điệu đàng cầm lấy nó giữa ngón cái và ngón trỏ. Anh ta đưa tay Bác Al sang một bên, rồi khẽ rút từ trong túi ra một chiếc khăn tay để lau vết nước bọt dính trên mặt.
“Ông nói gì cơ?” anh ta hỏi sau khi xong tất cả các động tác.
“Đó là con voi ăn cắp khốn nạn của mày!” Bác Al gào lên, lại một lần nữa phun nước miếng phì phì lên August. “Nó nhổ cọc trói ra, lôi theo người, uống thứ nước chanh khốn kiếp ấy, rồi quay về và đóng cọc xuống đất!”
Marlena đưa một tay lên che miệng, nhưng không kịp.
Bác Al quay lại, điên tiết. “Cô nghĩ việc đó khôi hài lắm hả? Cô nghĩ nó khôi hài lắm hả?”
Mặt nàng bợt ra như không còn một giọt máu nào.
Tôi đứng dậy khỏi ghế và bước tới. “Chậc, ông phải thừa nhận là có một chút...”
Bác Al quay lại, ấn thật lực cả hai bàn tay lên ngực tôi và đẩy tôi một phát mạnh đến mức khiến tôi ngã ngửa lên một cái rương.
Ông ta xoay người về phía August. “Con voi ôn dịch ấy khiến ta phải trả cả gia tài đấy! Nó là lý do ta không thể trả lương cho mọi người, phải chú ý đến thương mại và chịu đựng cơn giận của lũ quản lý đường sắt đốn mạt! Và để làm gì chứ? Cái thứ vô dụng chết tiệt đó đã không biểu diễn lại còn uống trộm nước chanh!”
“Al!” August gắt. “Cẩn thận cái mồm ông đấy. Tôi phải cho ông nhớ là ông đang ở trước mặt một phụ nữ.”
Bác Al quay đầu. Ông ta nhìn Marlena không chút hối hận rồi quay lại phía August.
“Woody sẽ thống kê thiệt hại,” ông ta nói. “Tao sẽ trích nó từ lương của mày.”
“Ông đã lấy tiền của những người lao động tự do rồi còn gì,” Marlena lặng lẽ nói. “Ông đang định hoàn tiền cho họ đấy à?”
Bác Al nhìn nàng trừng trừng, và vì phản cảm với biểu hiện của ông ta tôi đã bước lên đứng giữa họ. Ông ta chuyển cái nhìn sang tôi, nghiến hàm giận dữ. Rồi ông ta quay đi và bước ra ngoài.
“Thật dở hơi,” Marlena nói, trở lại bàn trang điểm. “Đáng lẽ tôi phải mặc xong quần áo rồi.”
August đứng bất động tuyệt đối. Rồi anh ta với lấy chiếc mũ chóp và cái móc voi.
Marlena thấy hành động đó qua gương. “Anh định đi đâu?” nàng vội hỏi. “August, anh định làm gì vậy?”
Anh ta bước ra cửa.
Nàng tóm chặt tay anh ta. “Auggie! Anh định đi đâu?”
“Anh không phải là người duy nhất sẽ phải trả giá cho số nước chanh đó,” anh ta nói, gạt nàng ra.
“August, không!” Nàng lại tóm chặt khuỷu tay anh ta. Lần này nàng dồn trọng lượng của mình vào, cố gắng ngăn anh ta rời khỏi đó. “August, đợi đã! Vì Chúa. Nó không biết. Lần sau chúng ta sẽ cột nó chặt hơn...”
August giật mạnh để thoát ra khiến Marlena ngã uỵch xuống sàn. Anh ta nhìn nàng trong sự chán ghét cực độ, rồi chụp mũ lên đầu và quay đi.
“August!” nàng hét lên. “Dừng lại!”
Anh ta đẩy mở vạt lều và biến mất. Marlena ngồi dậy tại chính chỗ nàng đã ngã, choáng váng. Tôi hết nhìn nàng rồi lại quay sang vạt lều.
“Tôi sẽ đi theo anh ấy,” tôi nói, đi về phía cửa.
“Không! Đợi đã!”
Tôi cứng người.
“Chẳng ích gì đâu,” nàng nói, giọng trống rỗng và nhỏ xíu. “Anh không thể ngăn anh ấy.”
“Thì tôi phải thử chứ. Lần trước tôi đã không làm gì cả và tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân.”
“Anh không hiểu đâu! Anh chỉ làm mọi việc tồi tệ thêm thôi! Jacob, làm ơn! Anh không hiểu!”
Tôi quay lại đối diện với nàng. “Không! Tôi không hiểu! Tôi không còn hiểu bất cứ thứ gì nữa. Không một thứ chết tiệt nào hết. Cô có muốn mở mắt cho tôi không?”
Mắt nàng mở to. Miệng há hốc thành hình chữ O. Rồi nàng vùi mặt vào lòng bàn tay và khóc nức nở.
Tôi đứng nhìn, hoảng sợ. Rồi tôi quỳ xuống và ôm nàng trong vòng tay.
“Ôi, Marlena, Marlena...”
“Jacob,” nàng thì thầm vào áo tôi. Nàng níu lấy tôi thật chặt, như thể tôi đang giữ nàng khỏi bị hút vào một cơn lốc.
Hết chương 15. Mời các bạn đón đọc chương 16!