Nếp Gấp Thời Gian Truyện 1


Truyện 1
Bà Gì Đó.

Đó là một đêm giông bão mịt mùng. Trong phòng ngủ áp mái của nó, Margaret Murry trùm kín mít trong chiếc chăn vá víu cũ kỹ và ngồi bệt dưới chân giường, quan sát cây cối đang ngả nghiêng trong cơn gió quất dữ dội. Đằng sau cây cối, những đám mây lướt điên cuồng ngang qua bầu trời. Cứ vài khắc, mặt trăng lại xé toạc mây, tạo nên những cái bóng ma quái lướt đi trên mặt đất.

Ngôi nhà run rẩy.

Trùm chăn kín mít, Meg run rẩy.

Thường nó chẳng sợ thời tiết. Đây không chỉ là tại thời tiết, nó tự nhủ. Là thời tiết cộng thêm mọi điều khác. Thêm vào mình. Thêm vào Meg Murry làm cái gì cũng hỏng.

Trường học. Trường học thật tệ hại. Nó bị đánh tụt xuống nhóm dốt nhất lớp. Sáng hôm đó, một trong các thầy giáo của nó đã phải gắt lên: “Meg, thật sự thầy không hiểu, sao một đứa trẻ có bố mẹ được cho là tài giỏi như em lại có thể học kém đến vậy. Nếu em không cố mà học cho tốt hơn một tí thì năm tới em sẽ phải học lại đấy.”

Suốt bữa trưa, nó làm om sòm lên một chút để thử khiến cho bản thân cảm thấy thoải mái hơn, và một đứa bạn gái đã thốt lên đầy khinh miệt: “Meg ạ, rốt cuộc, bọn mình chẳng còn là lũ nhóc tiểu học nữa. Sao lúc nào cậu cũng cư xử như một đứa trẻ lên ba vậy?”

Và trên đường từ trường về nhà, khi Meg leo lên con dốc với hai cánh tay ôm đầy sách, một đứa con trai đã lải nhải điều gì đó về “thằng em câm khờ”(1) của nó. Thế là nó quẳng mấy quyển sách lên vệ đường và túm thằng kia lại bằng tất cả sức lực mà nó có, rồi trở về nhà với cái áo cánh rách toạc và vết tím bầm to tướng dưới một bên mắt.

Sandy và Dennys, hai đứa em sinh đôi mười tuổi của nó, đã từ trường về nhà trước nó cả giờ đồng hồ, thì rất phẫn nộ. “Nếu cần cứ để bọn em dần cho nó một trận.”

Một kẻ hay phạm lỗi, đó chính là mình, nó chán nản nghĩ. Đó là những gì sau đó họ sẽ nói. Không phải mẹ. Mà là họ. Tất cả Mọi người Khác. Ước gì Bố...

Nhưng vẫn không thể nghĩ về bố mà không chực rơi nước mắt. Chỉ có mẹ mới có thể nói về bố thật bình thản, “Khi nào bố con quay về...”

Quay về từ nơi nào? Mà bao giờ chứ? Chắc chắn mẹ nó phải biết mọi người đang xì xào chuyện gì, biết rõ những lời đồn thiển cận đầy ác ý. Chắc chắn những lời nói đó cũng làm tổn thương mẹ chẳng kém gì Meg. Nhưng nếu có thì mẹ cũng chẳng thể hiện ra ngoài. Chẳng điều gì có thể làm xáo động sự bình thản của mẹ.

Sao mình lại không thể che giấu nhỉ? Meg nghĩ. Tại sao mình cứ luôn phơi bày mọi thứ ra?

Cửa sổ rung lạch cạch điên cuồng trong gió, Meg kéo cho cái chăn quanh mình chặt thêm. Cuộn tròn trên một cái gối của nó, con mèo con lông xám ngáp dài, để lộ cái lưỡi màu hồng, rồi lại rúc đầu xuống ngủ tiếp.

Tất cả mọi người đều đang ngủ. Mọi người trừ Meg. Ngay cả Charles Wallace, “thằng em câm khờ” - đứa luôn có cái cách khó hiểu để biết khi nào nó còn thức và không vui, đứa vẫn nhiều đêm nhón chân lên trên căn phòng áp mái với Meg - ngay cả Charles Wallace cũng đang ngủ.

Làm sao họ có thể ngủ được nhỉ? Suốt cả ngày trên radio liên tục có những cảnh báo cuồng phong. Làm sao họ có thể bỏ mặc nó trên căn gác áp mái, trên cái giường bằng đồng thau ọp ẹp này, khi biết rằng mái nhà có thể bị thổi tung khỏi ngôi nhà và nó sẽ bị ném vào bầu trời đêm dữ dội để rồi rớt xuống nơi nào đó ai mà biết được?

Cơn run rẩy của nó càng trở nên không nén được.

Chính mày đã xin để được ở phòng ngủ áp mái này, nó cáu kỉnh nói với bản thân mình. Mẹ cho mày ở đây vì mày là chị cả. Đó là một đặc ân, chứ không phải một hình phạt.

“Không phải suốt một trận cuồng phong chứ, đâu phải là một đặc ân,” nó nói to. Nó quẳng cái chăn xuống chân giường, rồi đứng dậy. Con mèo con duỗi mình sảng khoái, rồi ngẩng lên nhìn nó đôi mắt mở to vô tội.

“Ngủ tiếp đi,” Meg nói. “Hãy cứ sung sướng vì mày chỉ là một con mèo con chứ không phải con quái vật như tao.” Nó nhìn mình trong cái gương tủ và làm bộ mặt đáng sợ, nhe ra một mồm đầy răng đang đeo nẹp hàm. Bất giác, nó chỉnh lại gọng kính, rồi lùa ngón tay vào mớ tóc màu nâu lông chuột, làm tóc dựng đứng rối tung lên, rồi thở dài một tiếng ồn ào không kém tiếng gió bên ngoài.

Cái sàn gỗ rộng lạnh ngắt dưới chân nó. Gió thổi qua những kẽ nứt trên khung cửa sổ, bất chấp tác dụng bảo vệ mà cái khung kính trượt đáng nhẽ nên chứng tỏ. Nó có thể nghe thấy tiếng gió rít trong các ống khói. Nó nghe thấy tiếng Fortinbras, con chó đen to xù, bắt đầu sủa váng ở dưới nhà. Hẳn con chó cũng đang sợ. Mà nó sủa cái gì nhỉ? Fortinbras chưa bao giờ sủa vô cớ.Truyen8.mobi

Đột nhiên, nó nhớ ra khi đến bưu điện lấy thư, nó có nghe vài lời bàn tán về một kẻ lang thang bị nghi ngờ đã lấy cắp mười hai cái ga trải giường của bà Buncombe, vợ ông nguyên soái. Họ không bắt được hắn, mà có khi giờ này hắn đang mò đến nhà gia đình Murry cũng nên, một ngôi nhà biệt lập trên con đường vắng vẻ như vậy; và lần này, có lẽ hắn không chỉ muốn những cái ga giường. Lúc đấy, Meg chẳng chú ý lắm đến câu chuyện phiếm về kẻ lang thang, vì bà giám đốc bưu điện với nụ cười đường mật cứ hỏi thăm dạo gần đây nó có nghe tin gì của bố hay không.

Nó rời khỏi căn phòng nhỏ, lần mò qua những khoảng bóng tối của phòng áp mái chính, và va phải cái bàn bóng bàn. Bây giờ thì lại thêm một vết bầm ở hông vào đống xui xẻo của mình, nó nghĩ.

Tiếp nữa nó giẫm phải cái nhà búp bê cũ của nó, con ngựa gỗ bập bênh của Charles Wallace, mấy đoàn tàu chạy điện của hai đứa em sinh đôi. “Sao tất cả những chuyện này lại cứ xảy đến với tao?” Nó gặng hỏi con gấu nhồi bông to tướng.

Ở chân cầu thang gác mái, nó đứng yên và dỏng tai nghe. Không một tiếng động nào từ phòng của Charles Wallace ở bên phải. Bên trái, trong phòng bố mẹ nó, không một tiếng sột soạt của mẹ đang ngủ một mình trên chiếc giường đôi rộng lớn. Nó nhón chân đi xuống hành lang và vào phòng hai đứa sinh đôi, lần nữa chỉnh lại cái gọng kính như thể chúng sẽ giúp nó nhìn rõ hơn trong bóng tối. Dennys đang ngáy. Sandy thì lẩm nhẩm gì đó về bóng rổ rồi bặt hẳn. Cặp sinh đôi chẳng có bất kể vấn đề gì. Chúng chẳng phải học sinh xuất sắc, nhưng cũng chẳng phải hạng xoàng xĩnh. Chúng cực kỳ bằng lòng với hàng loạt những điểm B, thi thoảng thì được điểm A hoặc C. Chúng là những đứa chạy khỏe và nhanh, chơi game cũng giỏi, và nếu có những lời đàm tiếu về ai đó trong gia đình Murry, thì chắc chắn không phải là về Sandy và Dennys.

Nó rời phòng hai đứa sinh đôi và đi tiếp xuống cầu thang, bước tránh cái bậc thứ bảy cọt kẹt. Fortinbras đã thôi sủa. Như vậy, lần này không phải là kẻ lang thang. Fort sẽ tiếp tục sủa nếu như có ai lởn vởn quanh đây.

Nhưng giả sử đúng là kẻ lang thang có qua đây? Giả sử hắn có một con dao? Chẳng có ai ở ngay gần đây để mà nghe thấy tiếng nhà mình hét, hét và hét. Mà dẫu sao thì ai thèm quan tâm cơ chứ.

Mình sẽ tự pha một chút ca cao, nó quyết định. Món đó sẽ làm mình thấy khá hơn và nếu cái mái có bị thổi tung đi, ít ra mình sẽ không bị cuốn theo.

Trong bếp, nó thấy đèn đã sáng rồi, còn Charles Wallace đang ngồi bên bàn uống sữa và ăn bánh mì chấm mứt. Nom nó thật bé nhỏ và yếu ớt khi một mình ngồi đó trong căn bếp rộng kiểu cũ, một thằng bé tóc vàng hoe trong bộ pyjama Dr. Dentons(2) màu xanh đã bạc màu, chân nó đu đưa và còn ít nhất hơn mười lăm xăng-ti-mét nữa mới chạm được xuống sàn nhà.

“Chào,” nó phấn khởi nói. “Em chờ chị mãi.”

Từ dưới gầm bàn ngay chỗ chân Charles, Fortinbras đang nằm chầu vài mẩu bánh vụn vội ngẩng cái đầu đen mảnh khảnh của nó lên mừng Meg, đuôi con vật đập thùm thụp xuống sàn nhà. Hồi đó, vào một đêm mùa đông, Fortinbras đến trước cửa nhà chúng, một con chó con đang lớn, bị bỏ rơi và gầy giơ xương. Nó phần là chó săn Llewellyn, phần là chó đua, chính bố Meg cả quyết vậy, và nó mang một vẻ đẹp đen tuyền thon thả rất riêng.

“Sao em không lên gác mái?” Meg hỏi em, giọng như thể cậu em chí ít cũng phải bằng tuổi nó. “Chị sợ đến cứng cả người!”

“Trên cái phòng gác mái đấy của chị gió quá,” thằng bé nói. “Em biết thể nào chị cũng xuống. Em đang hâm sữa trên bếp lò cho chị. Chắc là nóng rồi đấy.”

Làm thế nào mà Charles Wallace luôn hiểu chị nó như vậy? Vì sao nó lại luôn nói đúng? Thằng bé chẳng bao giờ biết, hoặc tỏ vẻ quan tâm, đến những gì Dennys hay Sandy đang nghĩ. Chỉ có tâm trí của mẹ, và Meg, là nó dò được chính xác đến đáng sợ.

Phải chăng vì mọi người có chút sợ sệt Charles, nên họ luôn thì thào về cậu út nhà Murry, thằng bé mà người ta đồn là không được sáng dạ cho lắm? “Tôi nghe nói là những người thông minh hay có những đứa con bất bình thường,” Meg đã từng một lần nghe lỏm được. “Hai thằng bé sinh đôi có vẻ ổn cả, những đứa trẻ bình thường, nhưng còn con bé vô duyên và cái thằng em bé bỏng của nó thì chắc chắn là mất trí.”

Đúng là Charles Wallace rất hiếm khi nói chuyện lúc có ai đó xung quanh, vì vậy nhiều người tưởng rằng nó chưa bao giờ học nói. Và cũng đúng là nó không nói gì hết cho mãi đến năm nó gần lên bốn. Meg thường giận đến tái mặt khi thấy mọi người nhìn em nó rồi tặc lưỡi, vừa lắc đầu đầy thương hại.

“Đừng lo cho Charles Wallace, Meg ạ,” một lần bố nó đã bảo nó vậy. Meg hãy còn nhớ như in vì không lâu sau đấy bố nó đã ra đi. “Đầu óc em con chẳng có vấn đề gì đâu. Chỉ là em con làm mọi việc theo cách riêng của nó, vào thời điểm riêng của nó.”

“Con không muốn em lớn lên trở thành khờ khạo như con,” Meg nói.

“Ồ, con yêu, con không khờ khạo,” bố nó đáp. “Con cũng giống Charles Wallace. Sự phát triển của con phải đi theo nhịp riêng. Nó chỉ không diễn ra theo nhịp bình thường thôi.”

“Sao bố biết được ạ?” Meg gặng hỏi. “Sao bố biết rằng con không khờ khạo? Không phải chỉ vì bố yêu con đấy chứ?”

“Bố yêu con, nhưng không phải vì thế mà bố nói vậy. Mẹ và bố đã ra một vài bài kiểm tra cho các con, con biết mà.”

Phải, đúng là vậy. Meg đã nhận ra một số “trò chơi” nó cùng chơi với bố mẹ là những bài kiểm tra dạng gì đó, và nó với Charles đã phải làm nhiều hơn hai đứa sinh đôi. “Ý bố là, những bài kiểm tra chỉ số IQ phải không ạ?”

“Ừ, một vài bài trong số đó.”

“Thế IQ của con có bình thường không hả bố?”

“Còn hơn cả bình thường.”

“Vậy là sao hả bố?”

“Chuyện đó bố sẽ chưa nói cho con biết. Nhưng bố cam đoan rằng cả con và Charles đều sẽ tự làm tốt mọi việc các con thích khi các con lớn lên. Con cứ chờ cho đến khi Charles Wallace biết nói. Rồi con sẽ thấy.”Truyen8.mobi

Bố mới đúng làm sao, mặc dù bản thân bố thì đã ra đi trước khi Charles Wallace biết nói, bất thình lình, và không hề bập bẹ như các em bé khác, nói được cả câu hoàn chỉnh. Bố sẽ tự hào biết bao!

“Chị nên xem sữa thế nào,” Charles Wallace nhắc Meg, lối diễn đạt của nó rõ ràng và mạch lạc hơn hẳn hầu hết những đứa nhóc năm tuổi khác. “Chị biết chị sẽ không thích sữa bị đóng váng trên mặt đâu.”

“Em cho nhiều sữa gấp đôi cần thiết.” Meg ngó vào trong cái chảo.

Charles Wallace gật đầu bình thản. “Em nghĩ có lẽ mẹ cũng muốn một chút.”

“Mẹ muốn chút gì cơ?” một giọng nói vang lên, và đó là mẹ của chúng đang đứng ngay ở cửa ra vào.

“Ca cao ạ,” Charles Wallace nói. “Mẹ có muốn một cái bánh sandwich-với-xúc-xích-gan-và-phó-mát-kem-tươi không ạ? Con sẽ rất vui được làm cho mẹ một cái.”

“Hấp dẫn đấy chứ,” bà Murry đáp, “nhưng mẹ có thể tự làm nếu con đang bận.”

“Không phiền gì đâu mẹ.” Charles Wallace trượt xuống khỏi ghế của nó và chạy đến bên tủ lạnh, đôi chân nó trong bộ pyjama bước nhẹ uyển chuyển như chân một con mèo con. “Thế còn chị, Meg?” nó hỏi. “Sandwich chứ?”

“Ừ, cám ơn em,” Meg trả lời. “Nhưng đừng xúc xích gan nhé. Nhà mình còn cà chua đúng không?”

Charles Wallace liếc vào giỏ đồ khô. “Một quả. Con làm cho chị Meg không sao chứ, mẹ?”

“Thế thì còn gì bằng?” Bà Murry mỉm cười, “Nhưng đừng ồn ào quá, Charles. Trừ phi con muốn đánh thức luôn cả hai anh con nữa.”

“Độc quyền nhé,” Charles Wallace nói, “Từ mới của con hôm nay đấy. Ấn tượng, phải không?”

“Tuyệt vời,” bà Murry trả lời. “Meg, lại đây để mẹ xem vết bầm cho nào.”

Meg quỳ xuống dưới chân mẹ. Hơi ấm và ánh đèn của căn bếp đã làm nó thoải mái hơn nên nỗi sợ hãi căn gác mái đã biến đâu mất. Ca cao nóng bốc hơi thơm phức trên chảo; những bông phong lữ nở rộ trên mấy bậu cửa sổ, tỏa sắc cùng bó cúc vàng li ti ở giữa bàn ăn. Những tấm rèm đỏ rực, với họa tiết xanh lá cây-lẫn-xanh da trời, được kéo ra, dường như chiếu tỏa niềm hân hoan của họ ra khắp căn phòng. Cái lò sưởi kêu vo vo như một con thú lớn đang nằm ngủ; những chiếc đèn rực rỡ thứ ánh sáng chói lọi đều đều; bên ngoài, cô độc trong bóng tối, cơn gió vẫn đập vào ngôi nhà, nhưng sức mạnh điên giận khiến Meg kinh sợ lúc một mình trên gác mái đã phải chịu thua cảnh đầm ấm quen thuộc của căn bếp. Dưới chiếc ghế của bà Murry, Fortinbras thở ra mãn nguyện.

Bà Murry nhẹ nhàng chạm vào vết bầm bên má Meg. Meg ngẩng lên nhìn mẹ, nửa yêu thương khâm phục, nửa rầu rĩ trách móc. Có mẹ vừa là một nhà khoa học lại vừa là người đẹp như bà Murry chẳng phải lợi thế gì. Mái tóc đỏ rực, làn da mịn màng và đôi mắt tím biếc cùng cặp lông mày dài, sẫm màu của bà Murry dường như còn quyến rũ hơn lên khi so với vẻ xấu xí quá chừng của Meg. Mái tóc của Meg trông đỡ hơn nhiều khi nó cột bím gọn gàng. Vậy mà khi nó vào trung học mái tóc đó bị cắt xoẹt, nên bây giờ, nó và mẹ đang phải loay hoay để búi tóc lên, nhưng kết quả là một bên thì thò ra loăn xoăn, bên kia lại thẳng đuỗn, khiến nó trông thậm chí còn xấu xí hơn trước.

“Con không biết thế nào là kiềm chế phải không, con yêu?” Bà Murry hỏi. “Mẹ tự hỏi đã bao giờ con học được cách dung hòa chưa? Đúng là thằng bé nhà Henderson đã tặng con một vết bầm ác quá. Nhân đây, ngay sau khi con đi ngủ, mẹ thằng bé đã gọi điện đến để than phiền việc con làm nó bị thương nặng thế nào. Mẹ nói với bà ấy rằng nó hơn con những một tuổi và ít nhất nặng hơn con mười một ký, nên mẹ tưởng mẹ mới là người phải phàn nàn. Nhưng có vẻ như bà ấy vẫn nghĩ đó hoàn toàn là lỗi của con.”

“Con nghĩ là còn tùy mẹ nhìn nhận sự việc thế nào,” Meg nói. “Thường thì bất kể chuyện gì xảy ra, mọi người luôn nghĩ đó là lỗi của con, kể cả con chẳng liên quan gì hết. Nhưng con tiếc là con đã cố đánh nó. Thật là một tuần kinh khủng. Và con toàn bị những cảm giác tệ hại.”

Bà Murry cốc nhẹ lên cái đầu bù xù của Meg. “Con có biết tại sao không?”

“Con ghét làm một đứa lập dị,” Meg trả lời. “Cũng khó cho cả Sandy và Denny nữa. Con không rõ liệu hai em ấy thực sự giống như những người khác, hay chỉ giả bộ vậy thôi. Con cũng đã cố giả bộ, nhưng vô ích.”

“Con quá thẳng thắn để có thể giả vờ thành ai đó không phải là con,” Bà Murry nói. “Mẹ rất tiếc, Meglet ạ. Có lẽ, nếu có Bố ở đây, Bố sẽ giúp được con, còn mẹ, mẹ không nghĩ mẹ có thể làm được gì cho đến lúc con biết tự xoay sở khắc phục thêm một thời gian nữa. Rồi mọi việc sẽ dễ dàng hơn cho con. Còn bây giờ có lẽ vẫn chưa ổn lắm, phải không?”

“Có lẽ nếu con trông không quá kinh tởm... có lẽ nếu con xinh như mẹ...”

“Mẹ không xinh một tẹo nào, mẹ đẹp thôi,” Charles Wallace tuyên bố, vừa xắt khúc xúc xích gan. “Cho nên em cá là khi bằng tuổi chị mẹ cũng dễ sợ lắm.”

“Con mới đúng làm sao,” bà Murry nói. “Hãy cho bản thân mình thời gian, Meg ạ.”

“Rau diếp cho lên sandwich của mẹ nhé?” Charles Wallace hỏi.

“Không, cảm ơn con.”

Nó cắt sandwich thành từng miếng nhỏ, trút lên đĩa, rồi đặt đĩa trước mặt mẹ nó. “Chị Meg, của chị sẽ xong sau một phút nữa. Em nghĩ em sẽ nói chuyện với Bà Gì Đó về chị.”

“Bà Gì Đó là ai cơ?” Meg hỏi.

“Em nghĩ em muốn độc quyền bà ấy một thời gian,” Charles Wallace đáp. “Hành muối không chị?”

“Có, cảm ơn em.”

“Bà Gì Đó là biệt danh của ai?” Bà Murry hỏi.

“Đó là tên bà ấy,” Charles Wallace đáp. “Mẹ có biết căn nhà lợp ngói cũ biệt lập trong rừng mà lũ trẻ không bén mảng tới vì chúng nói nó bị ma ám không? Đấy chính là nơi họ sống.”

“Họ ư?”

“Bà Gì Đó và hai bà bạn của bà ấy. Vài ngày trước, con đi dạo với Fortinbras - lúc đó chị với hai anh đang ở trường, Meg ạ. Chúng con thích đi dạo trong rừng, rồi bỗng nhiên Fortinbras đuổi theo một con sóc và con phải chạy theo nó, cuối cùng chúng con dừng lại ngay trước căn nhà bị ma ám đó, nên gặp họ hết sức tình cờ, như mẹ vẫn nói.”Truyen8.mobi

“Nhưng chẳng ai sống ở đó cả,” Meg nói.

“Có Bà Gì Đó với hai bà bạn. Họ rất thú vị.”

“Sao con không nói chuyện này với mẹ sớm hơn?” Bà Murry chất vấn. “Và con thừa biết con không được ra khỏi nhà khi không được phép, Charles.”

“Con biết,” Charles nói. “Đó là lý do vì sao con không kể cho mẹ. Con chỉ vội đuổi theo Fortinbras không kịp nghĩ ngợi gì. Và rồi con quyết định, cũng tốt thôi, mình nên để dành chuyện xin phép cho tình huống khẩn cấp hơn, thế nào thì thế.”

Một cơn gió mạnh khác táp vào làm căn nhà rung chuyển, bất chợt mưa ập xuống quất mạnh vào cửa sổ.

“Con không nghĩ là con thích cơn gió này đâu,” giọng Meg đầy căng thẳng.

“Chúng ta sẽ mất vài tấm ván lợp trên mái, chắc chắn là như vậy,” bà Murry nói. “Nhưng căn nhà này đã đứng vững được ngót hai trăm năm rồi và mẹ nghĩ là nó sẽ còn trụ được lâu hơn chút nữa, Meg ạ. Xưa nay những cơn gió lớn vẫn thường xuất hiện trên quả đồi này.”

“Nhưng đây là một trận cuồng phong!” Meg rên rỉ. “Radio liên tục cảnh báo rằng đây là một trận cuồng phong!”

“Bây giờ đang là tháng Mười,” bà Murry trấn an nó. “Trước đây, vẫn có bão vào tháng Mười.”

Khi Charles Wallace đưa cho Meg miếng sandwich, Fortinbras bỗng lồng ra khỏi gầm bàn. Nó gầm gừ những tiếng dài và đục, họ có thể thấy cả bộ lông đen đang dần dựng ngược lên trên lưng nó. Meg thấy chính da mình cũng sởn gai ốc.

“Chuyện gì vậy?” nó lo lắng hỏi.

Fortinbras nhìn chòng chọc cánh cửa mở sang phòng thí nghiệm của bà Murry, vốn đặt trong phòng sản xuất bơ sữa cũ kỹ bằng đá ngay bên ngoài nhà bếp. Quá phòng thí nghiệm là đến phòng dự trữ đồ ăn dẫn thẳng ra ngoài trời, và bà Murry đã gắng hết sức để rèn cho mọi người đi vào nhà qua cửa ga ra hoặc cửa trước chứ không qua phòng thí nghiệm của bà. Vậy nhưng lúc này Fortinbras đang sủa về phía cửa phòng thí nghiệm, chứ không phải cánh cửa ga ra.

“Mẹ không để quên hóa chất khó ngửi nào đun dở trên ngọn đèn Bunsen đấy chứ?” Charles Wallace hỏi.

Bà Murry đứng dậy. “Không. Nhưng dù thế nào, mẹ nghĩ mẹ cũng nên đi xem cái gì khiến Fort khó chịu đến vậy.”

“Chính là kẻ lang thang, con chắc chắn đó là kẻ lang thang,” giọng Meg lạc đi vì lo sợ.

“Kẻ lang thang nào?” Charles Wallace hỏi.

“Chiều nay, ở bưu điện, mọi người cứ bàn tán là một kẻ lang thang đã ăn trộm hết cả ga giường của bà Buncombe.”

“Thế có khi chúng ta phải giữ bí mật về mấy cái vỏ gối cũng nên,” bà Murry nói khẽ. “Mẹ nghĩ ngay cả một kẻ lang thang cũng chẳng ở ngoài trời trong một đêm thế này đâu, Meg ạ.”

“Nhưng biết đâu đấy lại là lý do khiến hắn còn ở ngoài trời,” Meg gào lên, “cố tìm lấy một chỗ ẩn trú để không phải ở ngoài trời nữa.”

“Trong trường hợp ấy, mẹ sẽ cho hắn trú nhờ trong kho thóc đến sáng.” Bà Murry bước những bước dứt khoát về phía cửa ra vào.

“Con đi với mẹ.” Giọng Meg nheo nhéo.

“Không, Meg, con ở đây với em Charles và ăn hết bánh sandwich của con đi.”

“Ăn ư!” Meg kêu lên khi bà Murry đi sang phòng thí nghiệm để ra ngoài. “Làm sao mẹ lại bắt chị ăn vào lúc này chứ?”

“Mẹ tự lo được,” Charles nói. “Về thể lực ấy.” Nói vậy nhưng ngồi trên cái ghế của bố tại bàn mà hai chân nó cứ đá đá vào mấy thanh ngang; và khác với hầu hết trẻ con khác, Charles Wallace đã có khả năng ngồi vững.

Sau vài khoảnh khắc dường như dài vô tận với Meg, bà Murry trở vào, vừa giữ cửa mở cho... có phải cho kẻ lang thang không nhỉ? Hình như hơi nhỏ so với hình dung của Meg về kẻ lang thang. Không thể đoán nổi tuổi tác hay giới tính, vì hoàn toàn bị gói ghém trong những quần quần áo áo. Mấy cái khăn quàng đủ màu sắc buộc trên đầu, ngất ngưởng trên cùng là một chiếc mũ phớt của đàn ông. Cái khăn choàng màu hồng chóe thắt nút quanh chiếc áo bành tô sần ráp, và đôi ủng cao su màu đen bọc lấy hai chân.

“Bà Gì Đó,” Charles ngờ vực nói, “bà đang làm gì ở đây vậy? Lại còn vào giờ này đêm hôm nữa chứ?”

“Nào, không phải lo gì đâu, cháu cưng.” Một giọng nói phát ra từ giữa cái cổ áo choàng dựng đứng, cái khăn choàng và mấy cái khăn quấn cùng chiếc mũ, giọng nói kèn kẹt như cánh cửa lâu ngày không tra dầu, nhưng không hiểu sao nghe không đến nỗi khó ưa lắm.

“Bà... ờ... Gì Đó... nói bà ấy bị lạc đường,” bà Murry nói. “Bà có muốn một chút sô-cô-la nóng không, thưa Bà Gì Đó?”

“Thích mê ấy chứ,” Bà Gì Đó trả lời, cởi mũ và cái khăn choàng. “Chẳng có gì to tát, chuyện ta lạc đường thì cũng giống như chuyện bị gió thổi bay khỏi hướng đang đi thôi. Và khi nhận ra mình đang ở trước nhà Charles Wallace bé bỏng, ta nghĩ ta chỉ ghé vào và nghỉ ngơi một lát trước khi tiếp tục cuộc hành trình của mình.”

“Sao bà biết đây là nhà của Charles Wallace?” Meg hỏi.

“Bằng khứu giác.” Bà Gì Đó cởi một cái khăn màu xanh da trời-lẫn-xanh lá cây có họa tiết cong hình cánh hoa, một cái khăn in hoa màu đỏ vàng, một cái khác in hình thần Tự do màu vàng, và một cái khăn rằn đỏ-đen sặc sỡ. Dưới từng đấy lớp khăn lơ thơ ít tóc hoa râm được buộc bằng một cái nơ nhỏ nhưng gọn gàng trên đỉnh đầu. Đôi mắt bà sáng, mũi bà tròn mềm mại hình giọt nước, miệng bà nhúm lại như một quả táo mùa thu. “Úi chà chà, trong này dễ chịu và ấm áp ghê!” Bà nói.

“Mời bà ngồi.” Bà Murry chỉ một cái ghế. “Bà dùng bánh sandwich chứ, Bà Gì Đó? Tôi vừa ăn xúc xích gan và pho mát kem tươi; Charles ăn bánh mì với mứt, còn Meg thì rau diếp với cà chua.”

“Nào, để ta xem nào,” Bà Gì Đấy phân vân. “Ta thích mê món trứng cá muối của Nga.”

“Bà nhìn trộm!” Charles hét lên đầy phẫn nộ. “Chúng cháu đang để dành món đó cho sinh nhật Mẹ, bà đừng hòng được chút nào.”

Bà Gì Đó thở dài thật sâu, ra điều thất vọng.

Không,” Charles nói. “Nào, mẹ không được nhượng bộ bà ấy đâu, không thì con sẽ rất bực đấy. Thế còn xà lách trộn cá ngừ thì sao ạ?”

“Cũng được,” Bà Gì Đó ngoan ngoãn trả lời.

“Cháu sẽ đi chuẩn bị,” Meg xung phong rồi đi đến phòng dự trữ thức ăn lấy hộp cá ngừ.

Thật nực cười, nó nghĩ, bà già này xông vào nhà mình giữa đêm hôm và mẹ thì cứ coi như chẳng có chuyện gì kỳ lạ hết. Mình cược bà ta chính là kẻ lang thang. Mình cược chính bà ta đã ăn trộm mấy tấm ga giường kia. Và bà ta chắc chắn không phải là người Charles Wallace nên kết bạn cùng, nhất là khi ngay cả người bình thường nó cũng chẳng bao giờ trò chuyện.

“Ta mới ở vùng này chưa lâu,” Bà Gì Đó nói lúc Meg đang tắt đèn phòng dự trữ thức ăn và quay trở lại bếp với hộp cá ngừ, “và ta đã không nghĩ ta sẽ thích thú những người hàng xóm này tí nào cho đến khi Charles bé bỏng thân mến xuất hiện cùng con chó của cậu ấy.”

“Bà Gì Đó,” Charles Wallace gay gắt hỏi, “tại sao bà lấy những tấm ga giường của bà Buncombe?”

“Ờ thì, vì ta cần chúng, Charles thân mến ạ!”

“Bà phải mang trả chúng ngay.”

“Nhưng, Charles, cháu yêu quý, ta không thể. Ta đã dùng chúng rồi.”

“Bà vậy là rất sai,” Charles trách móc. “Nếu bà cần những chiếc ga giường đó đến vậy, nhẽ ra bà nên hỏi cháu.”

Bà Gì Đó lắc đầu và chặc lưỡi. “Cháu không thể chia sẻ bất kỳ chiếc ga giường nào hết. Còn bà Buncombe thì có thể.”

Meg thái một ít hành tây rồi trộn với cá ngừ. Sau vài giây lưỡng lự, con bé mở tủ lạnh và lấy ra một cái lọ đựng ít dưa dầm ngọt. Cho dù chẳng biết tại sao mình lại phục vụ bà ta, nó nghĩ khi đang cắt dưa. Mình chẳng tin bà ta tẹo nào.

“Nói với chị cháu là ta lành đi.” Bà Gì Đó nói với Charles. “Nói với con bé ý định của ta là tốt thôi.”

“Đường xuống địa ngục lát toàn những ý định tốt đẹp,” Charles ngâm nga.

“Úi chà, chẳng phải thằng bé ranh quá còn gì.” Bà Gì Đó tươi cười với nó vẻ đầy trìu mến. “Nó thật may mắn có được người hiểu mình.”

“Nhưng tôi e là không phải vậy,” bà Murry nói. “Chẳng ai trong chúng tôi hiểu Charles.”

“Nhưng ít ra thì chị đã không cố ép buộc nó.” Bà Gì Đó gật đầu hùng hồn. “Chị để nó được là chính mình.”

“Sandwich của bà đây,” Meg nói và mang bánh tới cho Bà Gì Đó.

“Mọi người có phiền không nếu ta cởi đôi ủng ra trước khi ăn?” Bà Gì Đó hỏi, tuy nhiên vẫn cầm cái sandwich lên. “Nghe xem này,” bà ta giậm giậm đôi chân trong ủng và họ nghe thấy có tiếng nước lõm bõm bên trong. “Các ngón chân của ta ướt nhão ra rồi. Phải cái là đôi ủng này quá chật với ta, nên ta chẳng bao giờ tự cởi nó ra được cả.”Truyen8.mobi

“Cháu giúp bà,” Charles đề nghị.

“Không phải cháu. Cháu không đủ sức đâu.”

“Tôi sẽ giúp.” Bà Murry ngồi xổm xuống dưới chân Bà Gì Đó, kéo thật mạnh một bên ủng trơn tuột. Chiếc ủng đột ngột bật ra khiến bà Murry ngã thụp xuống. Bà Gì Đó thì bổ ngửa về phía sau cùng cả cái ghế đập xuống sàn nhà, bàn tay già nua vẫn giơ cao cái bánh sandwich. Nước tràn ra từ chiếc ủng chảy khắp sàn, thấm cả vào tấm thảm lớn có tua viền.

“Ôi cái thân ta,” Bà Gì Đó nói trong tư thế nằm ngửa trên cái ghế lật ngược, hai chân chới với trong không trung, một bên đi tất sọc đỏ-trắng, bên kia vẫn còn mang ủng.

Bà Murry với lấy chân bà ta. “Bà ổn chứ, Bà Gì Đó?”

“Nếu chị có dầu xoa, ta sẽ bôi chút ít lên cái lòng tự trọng của mình.” Bà Gì Đó nói trong khi vẫn nằm ngửa tại chỗ. “Ta nghĩ nó đã bị tổn thương. Một ít dầu đinh hương trộn nhuyễn với tỏi thì thật tuyệt.” Rồi bà ta ngoạm một miếng sandwich lớn.

“Làm ơn đứng dậy đi,” Charles nói. “Cháu không thích nhìn bà cứ nằm kềnh ra thế đâu. Bà làm cho mọi chuyện quá đà rồi đấy.”

“Cháu đã bao giờ cố đứng trên đôi chân của mình trong khi lòng tự trọng bị tổn thương chưa?” Nói vậy nhưng Bà Gì Đó vẫn lồm cồm bò dậy, chỉnh lại chiếc ghế, rồi ngồi bệt xuống sàn, bên chân mang ủng xùm xùm trước mặt, ngoạm một miếng bánh nữa. Bà di chuyển quá sức nhanh nhẹn so với một phụ nữ lớn tuổi như vậy. Ít nhất Meg khá chắc chắn rằng bà là một phụ nữ lớn tuổi, và còn rất lớn tuổi là đằng khác.

Bà Gì Đó, với cái mồm nhồm nhoàm, ra lệnh cho bà Murry, “Giờ ta đã ngồi dậy rồi đây, kéo đi nào.”

Khá điềm tĩnh, cứ như bà già này và đôi ủng chẳng có gì bất bình thường, bà Murry co kéo cho đến khi chiếc ủng thứ hai tuột khỏi chân. Bên chân này của bà ta mang một chiếc tất màu xanh-và-xám có dệt hình quả trám, và Bà Gì Đó ngồi đó, ngó ngoáy mấy ngón chân, thỏa mãn ăn hết cái sandwich rồi thử trườn chân. “À,” bà ta nói, “khá hơn nhiều rồi đấy,” rồi mang đôi ủng ra giũ giũ trên bồn rửa. “Dạ dày ta căng rồi, và ta ấm cả trong lẫn ngoài, giờ đã đến lúc ta phải về nhà.”

“Bà không nghĩ tốt hơn bà nên ở lại cho đến sáng sao?” Bà Murry hỏi.

“Ồ, cám ơn, bạn thân mến, nhưng còn quá nhiều việc phải làm và ta không thể phí thì giờ ngồi ì ra đây chuyện phiếm được.”

“Nhưng đêm bão dữ dội quá thế này làm sao ra ngoài được chứ.”

“Những đêm bão là ta khoái lắm đấy,” Bà Gì Đó nói. “Chỉ có điều ta bị luồng gió cuốn phăng đi, rồi bị thổi trệch cả đường.”

“Thôi được, dù sao cũng phải chờ cho tất của bà khô đã chứ...”

“Tất ướt không thành vấn đề. Ta chỉ không thích có nước lõng bõng trong ủng của mình thôi. Nào, giờ thì đừng lo gì cho ta cả, con cừu non ạ.” (“Cừu non” không phải là từ mọi người thường nghĩ ra để gọi bà Murry). “Ta sẽ ngồi xuống một lát, đi ủng vào và sau đó lên đường. Nói đến chuyện đường xá, tiện đây, có tồn tại cái vật gọi là khối lập phương bốn chiều, cưng ạ.”

Mặt bà Murry bỗng trở nên trắng bệch, một tay phải với ra đằng sau nắm chặt lấy ghế cho vững. Giọng bà lạc đi. “Bà vừa nói gì cơ?”

Bà Gì Đó giật mạnh chiếc ủng thứ hai. “Ta nói,” bà ta vừa làu bàu, vừa nhét mạnh bàn chân vào ủng, “rằng có” ... nhét... “tồn tại cái vật” ... nhét... “gọi là khối lập phương bốn chiều.” Bàn chân của bà ta đã lọt được vào chiếc ủng, rồi chộp lấy mấy cái khăn quấn đầu, khăn quàng cổ, và chiếc mũ, bà ta xô mạnh cửa ra vào. Bà Murry vẫn bất động, không buồn nhúc nhích giúp người phụ nữ lớn tuổi một tay. Cánh cửa vừa mở ra, Fortinbras xộc vào, thở hồng hộc, ướt nhẹp và mình mẩy bóng loáng như một chú hải cẩu. Nó nhìn bà Murry và rên ư ử.

Cánh cửa đóng sầm.

“Mẹ ơi, chuyện gì vậy!” Meg gào lên. “Bà ấy nói cái gì vậy? Gì đấy ạ?”

“Khối lập phương bốn chiều...” Bà Murry thầm thì. “Ý bà ấy là gì nhỉ? Làm sao bà ấy lại biết được?”

Truyen8.mobi chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/25054


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận