Sáng hôm sau, ngay khi rời nhà Elizabeth, tôi quyết định đi thẳng tới chỗ Opal. Thật ra tôi đã quyết định làm điều này từ trước khi rời khỏi nhà cô rất lâu. Một điều gì đó trong những lời nói của cô đã khơi gợi nỗi buồn trong tôi - thật ra mọi điều cô nói đều khơi gợi nỗi buồn trong tôi. Khi ở bên cô, tôi giống như một con nhím vậy, vô cùng mong manh và nhạy cảm, như thể mọi giác quan của tôi đều được đánh thức. Điều buồn cười là trước nay tôi vẫn tưởng mọi giác quan của mình đã được đánh thức rồi - một người bạn thân chuyên nghiệp thì phải như vậy - nhưng có một cảm xúc tôi chưa từng trải qua, và đó là tình yêu. Đúng, tôi yêu tất cả bạn bè của mình nhưng không phải theo cách này, không phải theo cái cách khiến tim tôi thót lên khi nhìn Elizabeth, không phải theo cái cách khiến tôi lúc nào cũng muốn ở bên cô. Hơn nữa tôi muốn ở bên cô không phải vì cô, tôi nhận ra đó là vì tôi. Thứ tình yêu này đã đánh thức một số giác quan đang ngủ say trong tôi mà thậm chí tôi còn chưa từng biết đến sự tồn tại của chúng.
Tôi hắng giọng, kiểm tra lại hình dạng và bước vào văn phòng của Opal. Ở Tỉn Phai không có cửa, vì ở đây chẳng ai mở chúng được, nhưng còn có một lý do nữa: cửa đóng vai trò như rào cản; chúng là những thứ nặng nề, khó chịu mà bạn có thể điều khiển để nhốt ai đó ở trong hay ngoài và chúng tôi không đồng ý với điều đó. Chúng tôi chọn những văn phòng không vách ngăn để tạo không khí thân thiện và cởi mở hơn. Mặc dù chúng tôi luôn được dạy như vậy, nhưng gần đây tôi lại phát hiện ra cánh cửa màu hoa vân anh với hộp thư mỉm cười của Elizabeth là cánh cửa thân thiện nhất tôi từng thấy, vì thế cái lý thuyết đặc biệt kia cũng trôi theo gió rồi. Cô đã khiến tôi phải xem xét lại tất cả mọi điều.
Không nhìn lên, Opal nói to, “Vào đi Ivan.” Chị đang ngồi sau bàn, mặc váy tím như thường lệ, những lọn tóc dài buộc gọn gàng được rắc trang kim nên mỗi khi cử động chị lại tỏa sáng lấp lánh. Bức tường nào trong phòng chị cũng treo những bức ảnh lồng khung của hàng trăm đứa trẻ, tất cả đều mỉm cười hạnh phúc. Thậm chí chúng còn phủ kín giá sách, bàn cà phê, tủ, bệ lò sưởi và bậu cửa sổ. Nhìn chỗ nào tôi cũng thấy từng hàng từng hàng ảnh của những người trước đây Opal đã làm việc cùng và trở thành bạn bè. Bàn làm việc của chị là nơi duy nhất trống, trên đó chỉ đặt một khung ảnh. Chiếc khung ảnh đã để ở đó nhiều năm, quay mặt về phía Opal nên không ai có cơ hội nhìn xem trong ảnh là ai hay cái gì. Chúng tôi biết nếu hỏi thì chị sẽ kể cho chúng tôi nghe, nhưng không ai lại khiếm nhã đến mức hỏi chị. Những gì không cần biết thì chúng tôi cũng không cần phải hỏi. Một số người thường không hiểu nguyên tắc đó. Bạn có thể chuyện trò rất nhiều với người khác, chuyện trò một cách có ý nghĩa mà không cần đề cập tới những chuyện quá riêng tư. Có một ranh giới, bạn biết đấy, như một trường vô hình bao quanh mọi người mà bạn biết là mình không nên bước vào hay vượt qua, và tôi chưa bao giờ vượt qua ranh giới đó với Opal hoặc bất kỳ ai khác. Một số người thậm chí còn không thể hiểu được điều này.
Elizabeth sẽ ghét căn phòng này, tôi nghĩ khi đưa mắt nhìn quanh. Cô ấy sẽ ngay lập tức di chuyển mọi thứ, sẽ lau bụi và đánh bóng mọi thứ cho đến khi chúng sáng lên như vẻ bóng loáng lạnh lùng trong bệnh viện. Kể cả khi ở quán cà phê cô cũng phải sắp xếp lọ muối, tiêu và hũ đường thành hình tam giác cân ở chính giữa bàn. Lúc nào cô cũng phải dịch chuyển thứ này sang bên này, thứ kia sang bên kia một tí, dịch lên dịch xuống cho đến khi chúng thôi làm phiền và cô có thể tập trung trở lại. Điều khôi hài là có những lúc cuối cùng cô lại dịch chuyển mọi thứ trở lại đúng vị trí ban đầu và rồi thuyết phục bản thân rằng mình đã hài lòng về chúng. Điều đó nói lên rất nhiều về Elizabeth.
Nhưng sao tôi lại lại nghĩ về Elizabeth cơ chứ? Tôi cứ luôn như vậy. Trong những tình huống hoàn toàn chẳng liên quan gì đến cô tôi vẫn nghĩ đến cô và cô lại thành một nhân vật trong đó. Bỗng nhiên tôi tự hỏi, cô ấy nghĩ gì, cảm thấy gì, cô ấy sẽ làm gì hay nói gì nếu cô ấy ở cùng tôi? Phần quan trọng nhất là bạn trao cho ai đó một phần trái tim; rồi cuối cùng họ sẽ chiếm hết tâm trí bạn và không để lại phần nào cho ai nữa.
Dù sao đi nữa, tôi nhận ra mình đang đứng trước bàn và chưa nói một lời nào kể từ lúc bước vào.
“Sao chị lại biết đó là tôi?” Cuối cùng tôi cũng cất lời.
Opal nhìn lên và nở một nụ cười khiến chị trông như đã biết tất cả. “Tôi đang đợi anh mà.” Môi chị trông như hai chiếc gối và cũng được tô màu tím để hợp với chiếc váy. Tôi lại nghĩ đến cảm giác khi hôn môi Elizabeth.
“Nhưng tôi có hẹn gặp chị đâu,” tôi phản đối. Tôi biết mình có trực giác nhưng Opal luôn là người dẫn đầu.
Chị lại cười. “Tôi làm được gì cho anh đây?”
“Tôi tưởng chị sẽ biết mà không cần hỏi tôi chứ,” tôi đùa, ngồi xuống chiếc ghế xoay của chị và nghĩ đến chiếc ghế xoay trong văn phòng Elizabeth, rồi nghĩ đến Elizabeth, đến cảm giác được chạm vào cô, ôm cô, cười với cô và nghe hơi thở nhẹ nhàng của cô khi ngủ đêm qua.
“Chị biết chiếc váy mà Calendula mặc ở buổi họp tuần trước không?”
“Biết.”
“Chị biết cô ấy lấy nó ở đâu không?”
“Sao, anh cũng muốn một chiếc à?” Opal hỏi, mắt lấp lánh.
“Vâng,” tôi đáp, vặn vẹo hai tay. “Ý tôi là không,” tôi vội nói. Tôi lấy hơi “Ý tôi là không biết liệu tôi có thể thay đổi trang phục của mình không.” Thế là tôi đã nói ra được rồi.
“Phòng trang phục, dưới tầng này hai tầng,” Opal giải thích.
“Tôi không biết là có phòng trang phục đấy,” tôi ngạc nhiên nói.
“Nó vẫn luôn ở đấy mà,” Opal nói, nheo mắt lại. “Tôi có thể hỏi sao anh lại cần đến nó không?”
“Tôi không biết.” Tôi nhún vai. “Chỉ là, Elizabeth, chị biết đấy, ừm, cô ấy khác với mọi người bạn khác của tôi. Cô ấy để ý đến những thứ này, chị biết không?”
Chị gật đầu chầm chậm.
Tôi cảm thấy nên giải thích thêm một chút. Sự im lặng khiến tôi không thoải mái. “Chị thấy đấy, hôm nay Elizabeth bảo tôi rằng lý do tôi mặc bộ quần áo này là vì chúng là đồng phục, tôi là người mất vệ sinh hoặc nếu không thì cũng là người thiếu trí tưởng tượng.” Tôi thở dài, nghĩ về điều đó. “Điều không đúng nhất về tôi là thiếu óc tưởng tượng.”
Opal cười mỉm.
“Và tôi biết mình không phải người mất vệ sinh,” tôi tiếp tục. “Sau đó tôi nghĩ đến chuyện đồng phục,” tôi nhìn mình từ trên xuống dưới, “và có thể cô ấy nói đúng, chị biết không?”
Opal mím môi.
“Có một điều về Elizabeth là cô ấy cũng mặc đồng phục. Cô ấy mặc màu đen - lúc nào cũng là những bộ vest tẻ ngắt đó - trang điểm thì như là mặt nạ, tóc luôn buộc phía sau, không có gì được tự do hết. Cô ấy lúc nào cũng làm việc và quá coi trọng nó,” tôi ngước nhìn Opal choáng váng, vừa nhận ra một điều. “Hoàn toàn giống tôi Opal ạ.”
Opal yên lặng.
“Thế mà lúc nào tôi cũng gọi cô ấy là kẻ nhoẹt hát.”
Opal khẽ cười.
“Tôi muốn dạy cô ấy vui đùa, thay đổi quần áo, thôi đeo mặt nạ, thay đổi cuộc sống để có thể tìm được hạnh phúc, nhưng tôi làm việc đó bằng cách nào kia chứ nếu tôi cũng giống hệt như cô ấy?”
Opal khẽ gật đầu. “Tôi hiểu Ivan ạ. Tôi có thể thấy anh cũng đã học được nhiều từ Elizabeth. Cô ấy đã mang đến cho con người anh điều gì đó còn anh đang chỉ cho cô ấy một cách sống mới.”
“Hôm Chủ nhật chúng tôi đã đi bắt Sứ giả,” tôi khẽ nói, đồng tình với chị.
Opal mở chiếc tủ phía sau chị và toét miệng cười. “Tôi biết.”
“Ồ, tốt quá, chúng đến rồi.” Tôi vui vẻ nói, ngắm những bông Sứ giả đang lơ lửng trong chiếc lọ đặt ở tủ.
“Một bông của anh cũng đã tới Ivan ạ,” Opal nói nghiêm nghị.
Tôi cảm thấy mặt mình đỏ lên. Tôi thay đổi chủ đề. “Chị biết không, tối qua cô ấy đã ngủ ngon lành suốt sáu tiếng đồng hồ đấy. Đó là lần đầu tiên điều này xảy ra.”
Nét mặt Opal không dịu đi. “Cô ấy nói với anh như vậy à Ivan?”
“Không, tôi thấy cô ấy…” tôi ngừng lời. “Nghe này, Opal, đêm qua tôi đã ở lại, tôi chỉ ôm cô ấy cho đến khi cô ấy thiếp đi thôi, không có chuyện gì to tát cả. Cô ấy đề nghị tôi làm thế.” Tôi cố tỏ ra thuyết phục. “Và chị thử nghĩ xem, tôi lúc nào chẳng làm như vậy với những người bạn khác. Tôi đọc truyện cho họ nghe khi đi ngủ, ở bên họ cho đến khi họ ngủ, thậm chí có khi còn ngủ trên sàn phòng họ nữa. Chuyện này chẳng có gì khác cả.”
“Đúng vậy không?”
Tôi không trả lời.
Opal cầm chiếc bút máy có gắn một chiếc lông to tướng màu tím, nhìn xuống và tiếp tục với việc viết thư pháp của mình. “Anh nghĩ anh phải làm việc với cô ấy bao lâu nữa?”
Câu hỏi khiến tôi bối rối. Tim tôi khẽ thót lên. Opal chưa bao giờ hỏi tôi điều này. Thời gian chưa từng là vấn đề trong những trường hợp trước đây, mọi thứ luôn diễn tiến một cách tự nhiên. Có lúc bạn chỉ cần một ngày với người này, nhưng lúc khác bạn lại cần tới tận ba tháng. Khi nào bạn của chúng tôi sẵn sàng thì là sẵn sàng, và chúng tôi chưa bao giờ phải đặt ra mốc thời gian. “Tại sao chị hỏi vậy?”
“À,” chị có vẻ lo lắng, bồn chồn, “tôi chỉ băn khoăn thế thôi. Chỉ là quan tâm thôi… Ở đây anh là người giỏi nhất, Ivan ạ, và tôi chỉ muốn anh nhớ rằng còn rất nhiều người khác cần đến anh.”
“Tôi biết mà,” tôi nói có phần lớn tiếng. Giọng Opal chứa đựng tất cả những sắc thái trước đây tôi chưa từng nghe, những sắc thái tiêu cực thổi màu xanh và đen vào không trung và tôi khá là không thích chúng.
“Tuyệt,” chị nói, có vẻ hơi ngạo mạn so với thường ngày, và chị biết điều đó. “Trên đường tới phòng trang phục, anh làm ơn mang cái này xuống phòng phân tích được không?” Chị đưa cho tôi lọ Sứ giả.
“Chắc chắn rồi.” Tôi đón chiếc lọ từ tay chị. Bên trong có ba hạt Sứ giả, một của Luke, một của Elizabeth và hạt thứ ba là của tôi. Chúng nằm trên đáy lọ, đang nghỉ ngơi sau cuộc hành trình trong gió. “Chào chị,” tôi nói với Opal có phần ngượng ngập, quay lưng bước khỏi phòng. Tôi có cảm giác như chúng tôi vừa cãi nhau xong mặc dù không phải vậy.
Tôi bước dọc hành lang tới phòng phân tích, giữ chặt nắp lọ để chúng không trốn đi được. Khi tôi bước đến lối vào thì Oscar đang chạy lăng xăng trong phòng, mặt lộ vẻ hốt hoảng.
“Mở cái lồng ra!” Anh hét lên với tôi khi phóng ra cửa, tay giơ ra phía trước, chiếc áo trắng bay phần phật như một nhân vật hoạt hình.
Tôi đặt chiếc lọ ra ngoài vùng nguy hiểm rồi vội đi tới chiếc lồng. Oscar chạy về phía tôi và, đúng giây cuối cùng, nhảy phắt sang một bên, đánh lừa được cái thứ đang đuổi theo anh khiến nó chạy thẳng vào lồng.
“Ha!” Anh cười phá lên, vặn chìa khóa rồi cầm nó vẫy vẫy về phía cái lồng. Trán anh lấm tấm mồ hôi.
“Cái quái quỷ gì trên trái đất thế này?” Tôi hỏi, tiến lại gần cái lồng hơn.
“Cẩn thận đấy!” Oscar hét lên và tôi nhảy bật về phía sau. “Anh đã sai khi hỏi đây là thứ gì trên trái đất, vì nó không thuộc trái đất đâu.” Anh lấy khăn tay lau trán.
“Không cái gì cơ?”
“Trên trái đất,” anh nhắc lại. “Chưa nhìn thấy sao băng bao giờ hả Ivan?”
“Tất nhiên là rồi.” Tôi đi quanh chiếc lồng. “Nhưng không nhìn gần.”
“Tất nhiên,” anh nói tiếp, với một giọng ngọt ngào quá mức, “anh chỉ nhìn thấy chúng từ xa, trông vô cùng tươi đẹp và rực rỡ, nhảy múa ngang qua bầu trời và anh gửi điều ước của mình theo chúng, nhưng,” giọng anh trở nên cáu kỉnh, “anh quên mất Oscar, người phải đi thu thập những điều ước của anh trên cái ngôi sao ấy.”
“Xin lỗi Oscar nhé, thực tình tôi đã quên mất. Tôi không nghĩ mấy vì sao lại nguy hiểm đến thế.”
“Tại sao?” Oscar độp lại, “Anh nghĩ là một hành tinh đang cháy cách xa hàng triệu dặm, có thể nhìn thấy từ mặt đất, lại sà xuống hôn lên má tôi chắc? Dù sao thì cũng chả quan trọng gì. Anh mang cái gì đến thế? Ồ, tuyệt, lọ Sứ giả. Đúng là thứ tôi cần sau cái quả cầu lửa đó đấy,” anh hét lên với cái lồng, “một thứ biết tôn trọng người khác.”
Đáp lại, quả cầu lửa nảy bật lên giận dữ.
Tôi bước tránh xa chiếc lồng. “Thế nó mang điều ước gì vậy?” Tôi thấy thật khó tin nổi cái quả cầu ánh sáng đang cháy này lại có thể giúp được ai đó điều gì.
“Thật hay là anh đã hỏi,” Oscar nói, cho thấy rõ ràng chẳng có gì hay ho cả. “Quả cầu này mang theo lời ước đuổi tôi vòng quanh phòng.”
“Có phải của Tommy không thế?” Tôi cố không cười.
“Tôi chỉ có thể đoán vậy thôi,” anh nói giọng bực tức. “Nhưng thực tình tôi không thể than vãn với anh ta được vì chuyện đó xảy ra cách đây hai mươi năm rồi, khi Tommy còn chưa biết gì và mới vào nghề cơ.”
“Hai mươi năm?” Tôi ngạc nhiên hỏi.
“Nó đã phải mất bằng đấy thời gian để tới được đây,” Oscar giải thích, mở nắp lọ và dùng một dụng cụ trông rất lạ để lấy hạt Sứ giả ra. “Dù sao thì nó cũng cách đây cả triệu năm ánh sáng. Tôi nghĩ hai mươi năm còn là sớm đấy.”
Tôi để Oscar nghiên cứu hạt Sứ giả và lên đường tới phòng trang phục. Olivia đang được lấy số đo trong đó.
“Chào Ivan,” chị nói giọng ngạc nhiên.
“Chào Olivia, chị đang làm gì thế?” Tôi hỏi, quan sát trong lúc một người phụ nữ đo vòng eo bé tí của chị.
“Đang lấy số đo để may váy, Ivan ạ. Đêm qua bà Cromwell tội nghiệp đã mất rồi,” chị buồn bã nói. “Ngày mai là đám tang. Tôi đi dự đám tang nhiều quá nên cái váy đen duy nhất của tôi sờn mất rồi.”
“Tôi rất lấy làm tiếc,” tôi nói, biết rõ Olivia yêu quý bà Cromwell đến mức nào.
“Cảm ơn anh Ivan, nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục thôi. Sáng nay một bà cụ đã được chuyển đến nhà tế bần, bà ấy cần tôi giúp đỡ và giờ tôi phải tập trung vào bà ấy.”
Tôi gật đầu thấu hiểu.
“Anh tới đây có việc gì thế?”
“Bạn mới của tôi, Elizabeth, là một phụ nữ. Cô ấy để ý tới quần áo của tôi.”
Olivia cười tủm tỉm.
“Anh muốn một chiếc áo phông màu khác à?” Người phụ nữ đang đo hỏi tôi. Cô lấy từ trong ngăn kéo ra một chiếc áo phông màu đỏ.
“À không.” Tôi đổi chân và nhìn một lượt những chiếc giá xếp từ sàn lên đến trần nhà. Chiếc nào cũng được gắn tên và tôi thấy tên của Calendula dưới một dãy quần áo đẹp đẽ. “Tôi đang tìm một thứ trông có vẻ… thông minh hơn.”
Olivia nhướng mày. “Vậy thì anh phải đo để may một bộ vest rồi Ivan ạ.”
Chúng tôi thống nhất sẽ may cho tôi một bộ vest đen đi kèm sơ mi và cà vạt xanh vì đó là màu tôi thích nhất.
“Anh có cần gì nữa không hay chỉ thế thôi?” Olivia hỏi tôi, đôi mắt lấp lánh.
“Đúng ra là,” tôi hạ giọng và nhìn quanh để đảm bảo người phụ nữ không nghe thấy được. Olivia ghé đầu lại gần tôi hơn.
“Tôi không biết chị có thể dạy tôi nhảy nện gót bằng giày đế mềm được không.”
Hết chương 26. Chương tiếp theo sẽ được cập nhật trong thời gian nhanh nhất.