Thuận Minh
Tác giả: Đặc Biệt Bạch
Chương 380: Danh chính ngôn thuận. (1+2+3)
Nhóm dịch: Huntercd
Nguồn: Vipvanda
Đả Tự: nomore8x - 4vn
Đại quân Đại Thanh vượt qua Giới Lĩnh Khẩu, khi đó ở Bắc Trực Đãi, hai vị tổng đốc, sáu vị tuần phủ, cùng với tám vị tổng binh, bố phòng kín mít khắp nơi, nhưng lại thành quyền chỉ huy phân tán, hiệu suất giảm xuống cực lớn.
Sau khi tiến vào Giới Lĩnh Khẩu, Mãn Thanh không để ý tới Sơn Hải Vệ và Vĩnh Bình Vệ ở gần đó, trực tiếp hướng về phía tây.
Thực tế ở quan ải gần đó có ba vị tổng đốc hai vị tuần phủ nhưng đều sợ hãi không dám xuất quân, cứ trơ mắt nhìn quân Mãn Thanh đánh về phía kinh sư.
Ngày 06 tháng 11 năm Sùng Trinh thứ 15, tại Kế Châu.
- Các huynh đệ, bình thường triều đình không phát lương cho các ngươi, nhưng lão tử cho các ngươi ăn no uống say, xông lên theo ta.
Thủ bị Kế Châu là Điền Trí Quốc tay cầm đại đao, ngồi trên ngựa hô lớn, mấy chục gia đinh, mấy trăm binh mã xung quanh lền liền dạ ran.
Không sai, chỉ có chút binh sĩ nhưng đấu chí hừng hực, giống như phía trước không phải là đại quân Mãn Thanh, mà là đám thổ phỉ vậy, giống như khẳng định xông tới sẽ đánh thắng vậy.
Đương nhiên, bọn họ chỉ như giọt nước nhỏ xuống sông, chớp mắt là biến mất, trong đại quân Mãn Thanh thậm chí chẳng có chút xáo động nào.
Trên tường thành Kế Châu, tri châu Vi Tất Ẩn mặt tái nhợt nhìn Điền Chí Quốc quyên mình vì nước, toàn thân run lên, tổng đốc Kế Châu bên cạnh cũng toát mồ hôi lạnh sắc mặt nhợt nhạt.
Thiên tổng Kế Châu hoàn toàn không biết tin tức Thát Đạt tập kích, chỉ khi quân địch tới dưới thành mới nhận ra. Điền Chí Quốc nhìn quân giặc bên ngoài biết rõ kết quả sẽ ra sao rồi, tình thế Kế Châu như vậy hẳn bên kinh sư vẫn chưa biết tin, cần phải người đi báo.
Phương pháp duy nhất là phái người ra phân tán sự chú ý của Thát Đát, rồi phái người đi báo tin, so với phá thành mà chết chẳng bằng tử chiến. Điền Chí Quốc có vài phần nhiệt huyết, lĩnh thân binh con cháu xuất thành quyết tử, để tranh thủ thêm thời gian cho tin sứ.
Hai tín sứ kỵ mã đúng là tranh thủ được lỗ hổng, phóng ngựa như bay về kinh sư, nhưng có mấy kỵ binh Mãn Châu đuổi theo sau, xem chừng lành ít dữ nhiều.
So với Điền Chí Quốc khẳng khái, tên thiên tổng trên tường thấy đứng ngây ra lắm ba lắp bắp không nói lên lời, Vi Tất Ẩn thì khôi phục được chút tinh thần, lạnh lùng nhìn tên thiên tổng nói:
- Trương thiên tổng, hiện giờ ông là người lãnh quân tối cao toàn thành rồi, kẻ địch tới phía dưới, mau đưa ra chủ ý đi.
- Tri châu lão gia, hay là, hay là chúng ta hàng đi.
Nghe lời này, Vi Tất Ẩn toàn thân run lên, tay đặt vào chuôi kiếm bên hông, lạnh lùngnnói:
- Lời vừa rồi bản quan coi như chưa nghe thấy, hay nhìn gương Điền thủ bị đã hi sinh vì nghĩa, coi chừng bản quan chém đầu ông.
Trương thiên tổng hổ thẹn cúi đầu xuống, chần trừ một chút nói:
- Tri châu lão gia, vậy chỉ có đem nam đinh trai tráng điều lên tường thành liều chết phòng ngự thôi hi vọng duy nhất của chúng ta là Thát Đát bên ngoài...
Nói được một nửa Trương thiên tổng ngừng lại nhìn ngoài thành, Vi Tất Ẩn phát hiện ra khác thường, cùng nhìn theo phương hướng đó, thấy quân Mãn Thanh đẩy ra tám khẩu đại pháo, đang cố định chuẩn bị xạ kích.
- Tướng quân pháo? Thát Đát làm sao có được thứ này.
Trương thiên tổng cũng là kẻ từng trải, nhận ra thứ kia làm hắn càng sợ hãi, thứ pháo này là lợi khí công thành, nếu dùng biển người công thành, thì bên trong động viên tráng đinh có thể sinh tồn được, nhưng dùng thứ pháo này bắn, thì không còn cách gì nữa.
Đại pháo Mãn Thanh chính là do thợ Khổng Hữu Đức mang từ Đăng Châu tới quan ngoại tạo thành, người Mãn Thanh bởi vì kỹ thuật tệ hại nên nòng pháo và thân pháo đều to hơn bình thường nhiều, phải tới ba nghìn tám trăm cân, cục chế tạo binh khí của Giao Châu doanh mới đầu cũng làm tới 3200 cân, hiện giờ đã tạo ra hỏa pháo 2800 cân rồi.
Tướng quân trên thành nhìn nhầm khẩu pháo này thành pháo đại tướng quân sinh ra sự uy hiếp tâm lý bất ngờ, nhưng dù là pháo mười hai cân (chỗ này ý chỉ đạn pháo không phải toàn trọng lượng như trên kia) thì đối phó với dạng tòa thành nhỏ như Kế Châu thì cũng rất dễ dàng.
Không may chỗ vị trí châu và Trương thiên tổng đứng là hướng mà nóng pháo nhắm vào, vì tri châu người loạng choạng một chút, sắc mặt trắng bệch, nhưng mau chóng bình thường trở lại, chỉnh mũ ô sa, ưỡn thẳng lưng nói với Trương thiên tổng run như cầy sấy:
- Cùng làm là chết mà thôi, bản quan chịu hoàng ân sẽ hi sinh vì nước vào ngày hôm nay.
Trương thiên tổng đại khái cũng hiểu ra gật đầu, lau mồ hôi lẩm bẩm nói:
- Nói thì đàng hoàng lắm, lúc cắt xén quân lương lại chẳng thấy ông nương tay chút nào...
Tiếng nổi rung chuyển núi đồi vang lên.
Trương thiên tổng đang làu bàu thì đại pháo đã phát xạ, một mé tường thành Kế Châu đổ xuống, binh mã Mãn Mông ào ào xông lên.
Thành Kế Châu bị phá dễ như thế làm A Ba Thái và tướng lính Mãn Thanh đều tỏ vẻ chán nản, ngược lại người Mông Cổ hưng phấn khác thường, vừa rồi xông vào thành đầu tiên đều là các bộ lạc nhỏ của Mông Cổ.
So với sự hưng phấn của người Mông Cổ, Đồ Lí Sâm sắc mặt có chút ngặng nề, hạng công tử như hắn, lại có quan hệ với hoàng thất, tương lai ắt sẽ được trọng dụng, cho nên lần này phái đi để tăng kinh nghiệm.
A Ba Thái là huynh đệ của Hoàng Thái Cực, mà Đồ Lí Sâm nhưng nhờ tỷ tỷ mới được mang lên họ Ái Tân Giác La, bất quá A Ba Thái trong lòng hiểu rõ, địa vị Đồ Lí Sâm lớn hơn mình không ít, nên rất khách khí hỏi gì đáp náy.
- Đại tướng quân, người Minh đều dũng mãnh không sợ chết như vậy sao?
Đó là câu hỏi đầu tiên của Đồ Lí Sâm, vừa rồi viên tướng Đại Minh xung trận, không có chút hiệu quả gì, bị một loạt cung giết chết, nhưng khí thế coi cái chết như không đó vẫn làm vị bối lặc này giật nảy mình.
A Ba Thái ngạc nhiên quay đầu lại, từ khi nào mà từ dũng mãnh không sợ chết lại được đặt lên người đám nam man nước Minh rồi, Đồ Lí Sâm thấy vẻ mặt A Ba Thái khác lạ, biết mình hỏi không ổn, vội bổ xung:
- Tòa thành nhỏ này chỉ có mấy trăm tên không sợ chết, người Minh nhiều hơn chúng ta, nếu như bọn chúng đều như vậy, binh mã của chúng ta không đủ dùng.
A Ba Thái cười lớn, tướng lĩnh Mãn Thanh đằng sau nghe thấy đều cười thầm, tiếng cười dừng lại, thấy Đồ Lí Sâm mặt không tự nhiên, A Ba Thái giải thích:
- Bối lặc gia, đám người Hán ở Đại Minh đều là heo chó, hôm nay thấy thành kế châu này, tiểu nhân cũng ngạc nhiên vì sao lại có đám không sợ chết ấy, có điều không cần lo, theo đại quân chúng ta đi lâu, ngài sẽ biết, dùng sĩ Bát Kỳ chúng ta đến đây không phải để đánh trận, mà là để lấy đồ.
Những lời này không thuyết phục được Đồ Lý Sâm, A Ba Thái lắc đầu nói:
- Những huynh đệ Chính Lam Kỳ đều nhiều lần nhập quan, mấy kỳ khác và già trẻ Bát Kỳ Mông Cổ cũng đã tới đây, bối lặc cứ hỏi bọn họ.
Thấy Đồ Lí Sâm quay đầu lại, các tướng lĩnh cao tầng nghe A Ba Thái nói “người Hán đều là chó lợn”, mấy quan quân người Hán cũng ở đó.
Nghe thấy lời này cả đám đều cười rộ lên, chẳng hề coi mình là người Hán, là heo chó .
- Quan lớn Đại Minh như Hồng Thừa Trù còn chẳng đầu hàng chúng ta, nước Minh lấy đâu ra người có thể tử chiến dũng mãnh nữa.
- Bối lặc gia, lần này ngài cứ thoải mái đi, muốn trâu ngựa có trâu ngựa, muốn nhân khẩu có nhân khẩu, còn có nữ nhân quyền quý của Đại Minh nữa, thứ đó nữ nhân thảo nguyên chúng ta bì không nổi đâu.
Có kẻ trêu đùa, có kẻ góp vui, không khí liền trở nên sôi nổi, đúng là giọng điệu cường đạo không chút che dấu.
Nói xong cả đám cầm thú bên ngoài cũng cười theo, căn bản không để Đại Minh vào trong lòng.
Toàn bộ Đại Minh nhân khẩu hơn trăm triệu, đất đai rộng lớn, nhân khẩu Mông Cổ chừng trăm vạn, đất đai khô cằn lạnh giá, văn minh càng chẳng nói hiện giờ Mãn Thanh mới bắt đầu sử dụng chữ viết của mình, trước kia toàn dùng chữ Hán và chữ Mông.
Nhưng một dân tộc nhỏ bé man mọi như vậy lại dễ dàng đánh bại đế quốc Đại Minh văn minh, thực đáng cười, đáng buồn, đáng thương.
Nhìn người Mông Cổ và nhân mã Tam Thuận Vương cướp bóc hăng hái như vậy, quan binh Mãn Thanh đều khinh bỉ, những kẻ đó nhìn qua thôi là biết chưa được thấy mùi đời, nước Minh sớm đã bị Mãn Thanh mấy lần nhập quan vét sạch rồi, món lợi chân chính ở chỗ chưa từng bị cướp bóc cơ.
A Ba Thái và Đồ Lí Sâm đã quay về lều, A Ba Thái đã quyết định bất kể việc gì cũng cùng vị bối lặc này thảo luận, thế nào cũng không sai được, nếu không hoàng đế cũng sẽ không điểm danh mỗi Đồ Lí Sâm đi theo quân hành dộng.
- Hạ được Kế Châu, chúng ta cách kinh sư nước Minh hai ngày đường thôi, hoàng đế nước Minh khẳng định điều động binh mã xung quân cần vương hộ giá. Bắc Trực Đãi sẽ bỏ ngỏ, mục tiêu của chúng ta không phải là kinh sư của nước Minh, nghỉ ngơi hai ngày chúng ta sẽ xuôi về phía nam.
Đồ Lí Sâm ngơ ngáo gật đầu, A Ba Thái mất kiên nhẫn giải thích:
- Lần này hoàng đế dặn nhất định phải xuống phía nam, tôi nghĩ, Bắc Trực Đãi nhất định bị cướp bóc sạch rồi, xuống phía nam mới có nhân khẩu vàng bạc.
Nhìn bộ dạng như hiểu như không của Đồ Lí Sâm, A Ba Thái dù coi thường, nhưng trên mặt không lộ ra chút nào, đợi Đồ Lí Sâm về rồi, A Ba Thái túm mũ ném xuống, hừ lạnh một tiếng, một người trẻ tuổi luôn đứng trong lều lúc này mới nói:
- A mã, bên ngoài đã phá phách đủ rồi, vừa rồi các tướng đều đi thu binh mã về, đêm nay giới nghiêm, ngày mai toàn quân xuất phát.
**A mã: cách gọi cha của người Mãn.
nguồn truyện t u n g h o a n h . c o m
Người này là con trai thứ tư của A Ba Thái tên Nhạc Nhạc, người cao lớn, da ngăm đen, mặt có mấy vết sẹo, luôn đi theo A Ba Thái đánh đông dẹp bắc, là người trầm ổn dũng mãnh thiện chiến, nổi danh trong Bát Kỳ, Hoàng Thái Cực sở dĩ trọng dụng A Ba Thái là vì hắn có đứa con này.
Nghe thấy Nhạc Nhạc nói A Ba Thái hài lòng gật đầu:
- Nhìn cái bộ dạng vừa rồi của Đồ Lí Sâm đi, đó là tác phong của con cháu Mãn Mông chúng ta hay công tử người Hán? Nhạc Nhạc nghe rõ đây, cái thứ đó chúng ta không thể học, đao trong tay ngựa dưới thân mới là vốn liếng lập thân của chúng ta, còn nhìn những kẻ ở Thịnh Kinh đó, mặc trường bào, ngày ngày chơi bời ăn uống, những thứ của tổ tông đều ném hết vào rừng mất rồi.
- A mã giáo huấn rất phải, con nhớ rồi.
Nhạc Nhạc tuân lời, hiện giờ trong mấy thành lớn của Mãn Thanh, quý tộc và quan lại đều bắt chước cuộc sống xa hoa của người Hán, những tướng quân thế hệ trước thì rất không tán đồng, nhiều lần mỉa mai, trong đó ba huynh đệ Đa Nhĩ Cổn điển hình của sở thích này, Đa Đạc càng như thế.
Đồ Lí Sâm mặc dù là đại quý tộc trên thảo nguyên, nhưng trong một năm thời gian ở Thịnh Kinh nhiều hơn trên thảo nguyên, đã dính không ít thói quen của Thịnh kinh, A Ba Thái nhân vật phái bảo thủ tất nhiên là chướng mắt.
A Ba Thái hạ thấp giọng nói:
- Phía Lưỡng Bạch Kỳ phải chiếu cố chu đáo, những thứ đoạt được hôm nay, chia cho bọn họ nhiều hơn một chút.
Nhạc Nhạc hiển nhiên là không hiểu lắm. A Ba Thái tức giận mở miệng trách:
- Sức khoẻ của hoàng đế như vậy, tương lai không biết sẽ thế nào, chúng ta phải chuẩn bị, tránh tiếp theo bị gạt qua một bên.
A Ba Thái mặc dù nhận ân huệ của Hoàng Thái Cực, được suất quân nam hạ kiếm công đầu, cùng phú quý, lại có khả năng nắm Chính Lam kỳ, nhưng sức khoẻ Hoàng Thái Cực càng suy yếu, thế lực Lưỡng Bạch Kỳ càng mở rộng, cần phải nghĩ cho tương lai.
- Lần sau phá thành, để cho người Lưỡng Bạch Kỳ đi tiên phong kiếm nhiều hơn một chút, những người đó lần trước theo Duệ thân vương, đánh trận quen rồi không lo có sơ xuất gì.
Nhạc Nhạc gật đầu đi an bài.
-o0o-
Cướp bóc trong thành Kế Châu đã hoàn tất, cho dù nhân khẩu trong thành không ít, nhưng không thể đem hết theo được, cho nên chỉ cướp đoạt nữ tử xinh đẹp, trai tráng làm dân phu, còn lại đồ sát hết sạch.
Mấy vạn bách tính Đại Minh trong thành bị đồ sát sạch sẽ, hoàng đế và các đại thần chẳng cho đó là tổn thất gì đáng nói hiện giờ an toàn của kinh sư mới là quan trọng nhất, tin tức đại quân Mãn Than nhập quan dùng tính mạng của toàn thành Kế Châu có được.
Nếu như lúc bình thường, Sùng Trinh có lẽ sẽ nhỏ vài giọt nước mắt, nhưng lần này quân Mãn Thanh chỉ cách kinh sư có hai ngày đường, chẳng còn để ý tới cái khác nữa, tín sứ triệu tập binh mã từ kinh sư ào ào chạy tới các nơi.
Hai tổng đốc, sáu tuần phủ, tám tổng binh của Bắc Trực Đãi đều bị cưỡng chế xuất quân cứu viện, nếu như không phải binh mã Sơn Đông nam hạ bình loạn, sợ rằng cũng bị triệu tập.
Còn về địa phương không có quân đội bảo vệ, liệu có bị Thát Đát tàn hại không thì không nằm trong suy tính của Sùng Trinh và đại thần trong triều.
Đốc sư Hầu Tuân đóng ở bắc Hoàng Hà cũng bị thúc giục cứu viện, nhưng Hầu Tuân và tổng binh Sơn Tây là Hứa Định Quốc đều ở biên cảnh triệu tập binh mã không thể đến được.Binh mã Bắc Trực Đãi hội tụ ở kinh sư, quân tướng các nơi lần này hành động cực nhanh, vì mọi người đều biết ở kinh sư công sự toàn vẹn, binh mã tụ tập đông, hệ số an toàn cao hơn.
Nhưng kinh sư vào 10 tháng 11 mới nhận được tin xác thực, đại quân Thát Đát hạ Kế Châu xong không tới kinh sư mà lại nam hạ.
Mãn Thanh công phá Bào Trì đánh hạ Hương Hà cuối cùng tới bên Đại Vận Hà, đề đốc Lưu Nguyên Bân ở Thông Châu run rẩy không dám xuất quân.
Mãn Thanh dọc theo đường thuỷ tiến lên, dù nước Đại Vận Hà đóng băng, nhưng vận chuyển đường thuỷ tiện hơn rất nhiều, hơn nữa hai bên bờ có rất nhiều kho hàng lớn của Đại Minh, thuận tiện cho viện bổ xung quân nhu, bắt đầu từ lúc đó tốc độ của mấy vạn đại quân Mãn Thanh bắt đầu nhanh hơn.
Giữa đại quân Thát Đát và Sơn Đông căn bản là bình nguyên không có địa hình nào ngăn cản đại quân Thát Đát tiến lên.
Dù bên Mãn Thanh không coi sức chiến đấu của quân Minh vào trong mắt, nhưng vẫn theo quy củ tiến hành che dấu hành tung, khi tiến quân, khinh kỵ Mãn Mãn chia ra bốn phía phong tỏa tin tức.
Hành vi này của đại quân Mãn Thanh tạo thành phiền toái cho thám tử Sơn Đông, ở Bắc Trực Đãi và kinh sư thương hội Linh Sơn đều có phân hiệu, nói trắng ra là điểm thu thập tình báo, để mau chóng đem tin tức về Sơn Đông.Nhưng đại quân Mãn Thanh che dấu hành tung, làm những thám tử này không bị giết thì cũng đi đường vòng tiến lên.
Tất nhiên hiệu suất truyền tin kém đi rất nhiều.
Cho dù Giao Châu doanh thu hồi thuyền chiến mà Trịnh Gia quản lý thay, nhưng chuyện không trở nên tệ như Trịnh gia nghĩ, Trịnh gia vẫn có thể mua số lượng lớn muối ở Sơn Đông, làm ăn như bình thường.
Hơn nữa bởi vì khách hàng cảng Linh Sơn tăng lên, rất nhiều hàng hóa từ Nam Dương và Giang Nam vận chuyển tới làm Trịnh gia kiếm lời so với trước tăng lên không ít.
Điều lo lắng duy nhất là thương thuyền từ Châu Mỹ và Thiên Trúc cùng Tây Dương dần dần biết tới cảng Linh Sơn bắt đầu tới đây mua bán.
Trình Tam từng bị diêm bang Sơn Đông bắt, vẫn là đầu mục của Trịnh gia, danh tiếng trong đội thuyền Trịnh gia lại càng cao, vào ngày 12 tháng 11, thuyền của hắn từ phía bắc trở về.
Theo thói quen gần đây của hắn là phải tới một quân cơm ở trấn Phùng Mãnh, sau đó ở chơi thêm vài ngày.
- Thời gian trước, trừ thuyền của Trịnh gia chúng tôi, những thuyền khác không tới nữa, nghe binh mã Thát Đát đóng giữ ở đó nói đại quân Thát Đát đã tới Đại Minh rồi.
Trịnh Tam nói nhỏ với chưởng quầy chào đón hắn, chưởng quầy kia sắc mặt không có gì thay đổi, quay trở về sau quầy hàng.
Lúc này ở Sơn Đông không ai biết đại quân Thát Đát tới, một canh giờ sau khi biết được tin từ Trịnh Tam, một thớt khoái mã từ Giao Châu phi như bay về Tế Nam.
Đây là một chỗ sơ hở của tình báo Sơn Đông, cho dù Lý Mạnh nam hạ, nhưng đầu cuối hệ thống tình báo vẫn là Tế Nam, sau đó mới chuyển cho đại quân, làm trễ mất rất nhiều thời gian.
Sau khi tin tức tới được thành Tế Nam, tham tử Giao Châu doanh cuối cùng cũng vòng qua được sự phong tỏa của đại quân Thát Đát đưa tin tới Tế Nam.
Lúc này ở Tế Nam chỉ có quân Đăng Châu do Triệu Năng suất lĩnh, cùng năm nghìn người giữ lại trú ở Lai Châu, Thanh Châu.
Binh mã ở Tế Nam chỉ có hai vạn, còn quân Duyệt Châu thì bố trí ở biên cảnh gần Hà Nam Và Nam Trực Đãi.
Ngày 15 tháng 11, đại quân Lý Mạnh rời khỏi Từ Châu hai ngày, tới được Túc Thiên.
Sau khi vào Nam Trực Đãi, quan viên nơi đó thực sự không biết phải đối đãi thế nào, chỉ đành tận lực hỗ trợ quân nhu, nhưng không dám tới bái kiến, nhưng tri châu Từ Châu và mấy tri huyện đều gửi thư riêng cho Lý Mạnh, coi như bày tỏ thái độ trước.
Nhưng cao môn vọng tộc Từ Châu thì rất nhiệt tình, lũ lượt kéo dân tráng gia đinh tới quy thuận, nói muốn theo đại soái nam hạ giết giặc.
Từ Châu xưa nay dân cư dũng mãnh, các hào tộc đại hộ tụ tập lại với nhau, khi thái bình tự bảo vệ, khi loạn lạc thì đi cướp bóc, những thế lực lớn nhỏ này rất muốn đi theo một thế lực lớn có tiền đồ.
Bất kể là Lý Sấm, Trương Hiến Trung và Cách Tả ngũ doanh đều thuỷ chung không tới được nơi này, cho dù muốn quy thuận cũng chẳng được, hơn nữa nguy hiểm quá lớn.
Lần này Lý Mạnh suất quân tới, chính là lựa chọn tốt nhất từ trên trời rơi xuống, xưa nay lúc thay triều đổi đại là thời cơ tốt kiếm địa vị cầu phú quý, dẫn gia binh gia tướng xen lẫn vào, không chừng có thể kiếm được phú quý lớn, tội gì không làm, cho dù không được, thì cũng là trợ giúp triều đình dẹp giặc chỉ có công không có tội.
Điều này làm Lý Mạnh đúng là làm Lý Mạnh trở tay không kịp, đám hào môn đại tộc Sơn Đông rụt rụt rè rè, mà Từ Châu lại có cục diện này.
Đương nhiên những họ tộc lớn ở Sơn Đông bị cấm vũ trang, tất nhiên chẳng có ai dám chủ động tới nạp mạng, còn ở Từ Châu nuôi tư binh thành truyền thống, Giao Châu doanh xuất hiện đúng thời cơ, tất nhiên là được hoan nghênh.
Đối với sự nhiệt tình của hào tộc Từ Châu. Lý Mạnh tất nhiên không cự tuyệt, nhưng lại phái người đem những gia tộc đó đăng ký vào hồ sơ, tư binh của đại tộc đúng là nguồn binh lực tốt, nếu như Giao Châu doanh mở rộng quân tiếp theo, thì đây là lựa chọn tốt nhất.
Tới Túc Thiên, đại quân nghỉ ngơi chỉnh đốn.
Mười ngày trước đó, Mã Cương suất lĩnh quân Thanh Châu dọc theo sông Hoài hướng về phía tây, trống reo cờ mở tiến về Phụng Dương. Mã Sĩ Anh trừ cảnh giới ra thì không dám có hành động khác.
Quân Thanh Châu qua Phụng Dương, trực tiếp tới Tân Thành cách Thọ Châu năm mươi dặm hạ trại ngang nhiên cắt đứt đường lui của Lô Cửu Đức.
Hiện giờ Lô Cửu Đức suất lĩnh binh mã thủ trong Thọ Châu và vài tòa thành xung quanh, phía tây là quân Hoài Dương của Trần Lục, phía đông là quân Thanh Châu của Mã Cương, hơn nữa trận tuyến đan cài với Cách Tả ngũ doanh, đúng là có lắp cánh cũng khó bay thoát.
- Lý Trấn Đông sẽ không tiếp tục tới Thọ Châu nữa, nếu bản đốc phán đoán không sai, hắn sẽ trú quân ở Hoài An, đợi thế cục Thọ Châu biến động, binh mã Lô Cửu Đức bị diệt, hắn sẽ suất lĩnh đại quân theo sông xuôi nam, tới thẳng nam kinh, không chế vùng đất màu mỡ nhất thiên hạ này.
Mã Sĩ Anh phán đoán khá chuẩn xác hành động tiếp theo của Lý Mạnh, dù Lý Mạnh tuyên bố với triều đình là đi cứu viện Thọ Xuân, người trong thiên hạ cũng nghĩ như vậy, nhưng cục thế này, Lý Mạnh hạnh động như vậy mới giành được lợi ích lớn nhất.
- Tổng binh Lý Mạnh tuy có dã tâm, nhưng vẫn phải đợi đại sự Thọ Châu đã thành mới hành động, nói rõ người này vẫn muốn cái hư danh đại nghĩa, hiện giờ thành Nam Kinh và bản đốc hợp binh cũng chỉ chưa tới hai vạn, hi vọng duy nhất dựa vào miệng người trong thiên hạ và tiếng nói các chí sĩ thôi.
Mã Sĩ Anh là người hiện thực hiếm hoi ở thời này, có bản lĩnh không nói suông, đương nhiên không tin kiêu hùng như Lý Mạnh lại còn sợ những lời thị phi lương tâm khiển trách.
Sở dĩ nói như vậy, nhưng vì Lý Mạnh nam hạ mỗi bước đều muốn có danh phận hợp pháp mà không tuỳ tiện hành động, hiển nhiên là cũng muốn đoạt được chủ động về dư luận.
Nhắm vào cách làm này của Lý Mạnh có lẽ thông qua một số biện pháp trì hoàn hành động của hắn, dù sao Đại Minh trong mắt mọi người vẫn là chỗ chính thống.
Mã Sĩ Anh hi vọng có thể làm chậm tiến trình của Lý Mạnh, để các thế lực khác có thể đưa ra phản ứng, hợp sức ngăn cản.
Nói cách khác Mã Sĩ Anh làm thế là để tranh thủ thời gian, hi vọng tình thế có thể thay đổi đây là hành động bất lực, tất cả hi vọng chỉ gửi gắm vào ý trời mà thôi.
Từ lúc bắt đầu hành động, đại quân Lý Mạnh có thể nói là thuận buồm xuôi gió, quan viên địa phương đều lũ lượt kéo tới ủng hộ.
Nhưng khi binh mã Sơn Đông tới Túc Thiên, cuối cùng cũng có tiếng nói khác vang lên.
Vốn sau khi Lý Mạnh nam hạ, chí sĩ Giang Nam im tiếng, tiếng nói dân gian chỉ có văn đàn Sơn Đông cổ động, nói Lý Mạnh hành động trung nghĩa.
Mà những nhân vật xưa nay chỉ trích triều chính, chỉ trỏ thiên hạ là đảng Đông Lâm và Giang Nam thì nín thinh, chẳng nói một lời, chẳng viết lấy một câu.
Những văn nhân này ở thời thái bình, vì cái gọi là không giết sĩ phu, nên kẻ nào kẻ nấy ngông cuồng phát ngôn bừa bãi công kích lẫn nhau, các đảng tranh chấp không ngớt, dù đảng mình gian nịnh ngu đần thế nào cũng là danh sĩ thanh liêm, không phải đảng của mình thì dù cần mẫn giỏi giang thế nào cũng là gian thần hại nước hại dân.
Trương Phổ được xưng là lãnh tụ Đông Lâm, dựa vào sức dư luận đưa Chu Duyên Nho vào nội các, nhân vật như vậy, lúc tại thế, sĩ tử Giang Nam đăng môn bái kiến coi là vinh dự, thậm chí chỉ gặp mặt xong cũng tự xưng là đã vượt cửa rồng.
Nhưng sau khi Trương Phổ chết, ai cũng biết có liên quan tới Chu Duyên Nho, nhưng nhân sĩ Đông Lâm xưa nay không sợ quyền quý, dám công kích cả triều đình đều câm như thóc, không kẻ nào dám nói gì, ngay cả tang lễ cũng phải do Mã Sĩ Anh không thuộc về Đông Lâm chủ trì.
Nguyên nhân không gì ngoài tiền trình sĩ đồ nằm trong tay Chu Duyên Nho, chẳng ai dám đi rước lấy phiền phức cho tiền trình của mình, dù là văn nhân cũng thế.
Lý Mạnh nam hạ là võ phu không nói lý, trong tay cầm đao kiếm, nếu như như lên tiếng trung nghĩa lương tâm gì đó, tới khi thế cục có biến hóa, đám võ phu này có thể trực tiếp giết người.
Cho nên nhân sĩ thiên hạ mới im lặng.
Nhưng cục diện này có chút quái lạ, đại quân nam hạ chậm trễ không có ai nói, không ngờ tới gần Nam Trực Đãi lại có tiếng phản đối, thực làm người ta nghĩ mãi không hiểu nổi.
Nhưng hiện tượng kỳ quái này Nhan Kế Tổ đã nói với Lý Mạnh tối hôm đó rồi, cũng có phương pháp ứng phó. Nhan Kế Tổ không đi theo đại quân, mà dưới sự tháp tùng của người trong diêm bang Sơn Đông cùng thương hội Linh Sơn mang theo một món tiền lớn tới thẳng Nam Kinh.
Ngày 16 tháng 11, trong dịch trạm Giao Châu doanh bố trí ở huyện Ngư Đài phủ Duyệt Châu, có ba trăm tín sứ quất ngựa phóng nước đại tới cửa, ngựa sùi bọn mép, hiển nhiên chạy tới kiệt sức, một viên tín sứ hô lên khản cả giọng:
- Mau thay ngựa, khẩn cấp, khẩn cấp...
-o0o-
Nguyễn Đại Thành là là người đảng Đông Lâm và chống đảng Đông Lâm nổi danh thời Minh mạt, nói như vậy không phải là nói đùa, năm xưa là đại tướng Đông Lâm, cũng là nhân vật oai trong cả trong lẫn ngoài triều.
Về sau Đông Lâm nội bộ chia chác, vốn hắn được thành cấp sự trong lại bộ, nhưng lại đổi sang một người khác trong đảng, còn hắn được một công việc trong công bộ, đó là sự khác biệt giữa trời và đất. Nguyễn Đại Thành thẹn quá hóa giận, dùng tiền đoạt lại vị trí kia.
Khi đó làm việc theo cảm tính, làm hơn một tháng, hành động không tuân phục phân phối khiến hắn thành công địch của đảng Đông Lâm, vì nghe đồn Nguyễn Đại Thành đi cửa sau của cháu Ngụy Trung Hiền.
Hắn đúng là siêu thoát, sau một tháng bỏ luôn làm quan về quê An Khánh làm phú hào, bỏ ra một món tiền lớn, dù không thuộc đảng Đông Lâm nhưng giao du rộng, thanh danh hiển hách, tạm coi là nhân vật lãnh tụ nhân sĩ giang nam.
Nguyễn Đại Thành trên lịch sử nghệ thuật có chút địa vị, vì hắn có nghiên cứu khá sâu ca từ, ở An Khánh và Nam Kinh đều nuôi gánh hát, thời đó gánh hát chắc chắn chẳng tách rời việc gió trăng, nhân sĩ giang nam đa phần ham thứ này, có gánh hát tất nhiên sẽ lung lạc được một đám người.
Đừng thấy thấy bọn họ bọn nói gì kẻ trong kẻ đục, ngôn ngữ văn chương thề không đội trời chung, nhưng khi uống rượu chơi gái, nhân sĩ Giang Nam không phân chia đảng phái.
Tiêu tiền của người ta, uống rượu của người ta, lại cùng nhau chơi đùa, tất nhiên là không mạnh miệng nổi, Nguyễn Đại Thanh lên đài vung tay hô một tiếng, ở dưới cũng có không ít kẻ hùa theo.
Đó là căn nguyên tại sao đột nhiên có tiếng nói phản đối Lý Mạnh, công kích binh mã Sơn Đông thừa lúc quốc gia nguy nan kiếm lợi, công kích Lý Mạnh lòng dạ khó lường. Đương nhiên cũng có người lấy chuyện năm xưa cướp Tần Hoài lưỡng mỹ, nói Lý Mạnh trong mắt không có phép nước.
Mã Sĩ Anh, Nguyễn Đại Thành là dị loại, một kẻ làm việc không theo quy củ, một kẻ thì không nghe hiệu lệnh Đông Lâm, xưa nay rất gần gũi, lần này Mã Sĩ Anh đích thân viết thư tay cho Nguyễn Đại Thành, cổ động sĩ lâm Giang Nam, phát động thế công dư luận, trì hoãn hành động của Lý Mạnh.
Được Hạ Nhất Long quy phục, binh lực Mã Sĩ Anh cũng âm thầm mở rộng, mặc dù không thể đánh bại được quân Hoài Dương và quân Thanh Châu, nhưng cùng Lô Cửu Đức hợp binh, bảo toàn đại bộ phận thực lực thong dong rút lui vẫn có thể làm được.
Nhan Kế Tổ và Lý Mạnh đàm luận chính là việc này, Nhan Kế Tổ có thể làm tới lại bộ cấp sự, được coi là trọng thần triều đình, Nguyễn Đại Thành năm xưa tranh bể đầu vị trí đó, tất nhiên cũng là nhân vật nòng cốt của Đông Lâm, tất nhiên hiểu rõ nội tình bên trong, có điều suy đoán của Nhan Kế Tổ có hơi khác một chút.
Đại quân Sơn Đông dọc theo sông nam hạ, cảm thấy được đại biến trước tiên chính là nhân sĩ Giang Nam, loại đại tướng Lý Mạnh làm việc tất nhiên khác với lưu tặc, ít nhất Đại Minh phải ưu đãi, hắn cũng không thể khắc bạc, đám nhân sĩ không phải lo lắng vì tiền đồ.
Được gọi là nhân sĩ vì những kẻ này khác với lê dân bách tính, bọn chúng là tầng trên quốc gia, trong chính quyền phân phối thu được phần lợi lớn.
Hiện giờ thấy sắp có biến đổi, chúng quan tâm là làm sao có thể kiếm được lợi ích lớn nhất trong đó, đám ca ngợi công đức đã làm tốt lắm rồi, mình tiếp tục học theo thì không có giá trị lớn, làm sao để được Lý Mạnh chú ý tới đồng thời đưa ra nhượng bộ.
Cách làm của Lý Mạnh thì mọi người nhìn thấy rồi, tuy có năng lực cướp ngôi nhưng lại chú ý dư luận, trong mắt người dân không phải là Lý Mạnh muốn làm gì, mà là mệnh lệnh của triều đình, tình thế ép buộc phải làm.
Nếu như ngươi muốn tất cả đều thuận buồm xuôi gió, vậy thì bọn ta cho ngươi một chút phiền toái. Đại Minh là thiên hạ hoàng đế và sĩ phu cùng cai trị, bọn ta là nhân sĩ tinh anh, xưa nay muốn nói gì thì nói cái đó, lúc này khẳng khái lên tiếng là đương nhiên, còn thể hiện được thái độ trung nghĩa.
Đương nhiên Lý đại soái bố trí lâu như thế, hành động này chẳng phải vì duy trì bình yên nhân gian sao, không thể không cho bọn ta lên tiếng được, Bạc phải cấp một chút, đương nhiên đừng tưởng có bạc là xong, sau đại biến quan tước địa vị cũng phải ưu đãi.
Ngòi bút vào thời điểm thích hợp chính là công cụ uy hiếp bắt chẹt, kiếm lấy tài phú vinh hoa cho bản thân.
Cho dù Lý Mạnh không phản biến thành công, thì nhân sĩ Giang Nam được danh trung nghĩa lên tiếng chửi nghịch tặc.
Tính đi tính lại một chuyện chỉ lãi không lỗ, dại gì mà không làm? Nhan Kế Tổ biết rõ thói xấu của nhân sĩ Giang Nam, nên chuẩn bị lập công đầu để quy phục Lý Mạnh, văn nhân tất nhiên phải xử lý luyện văn nhân.
Với Lý Mạnh mà nói, Nhan Kế Tổ có làm được việc hay không chẳng quân trọng, chỉ cần ông ta đưa thái độ quy phục, là Lý Mạnh vui vẻ đón nhận.
Dù sao Nhan Kế Tổ là đầu não hành chính của cả Sơn Đông, có kinh nghiệm hành chính cực kỳ phong phú, đó là tài phú quý giá, đối với Giao Châu doanh đang trọng võ khinh văn mà nói, thực sự rất cần thiết.
Tới Giang Nam, càng thấy rõ tầm nhìn xa trông rộng của Nhan Kế Tổ, có điều nguyên nhân sự việc hơi khác một chút, chuyện này Nguyễn Đại Thành chỉ đưa ra một số tin tức ở Nam Kinh, vừa vặn nhắc nhở đám thư sinh, lúc này chửi bới không có hại gì, mà còn có lợi.
Lũ thư sinh văn nhân đớn hèn tỉnh ngộ, sau đó ùn ùn xông lên, nói mấy câu hung hăng, rồi ngồi đợi Lý Mạnh tới mua chuộc.
Nhan Kế Tổ phán đoán là tự phát, nhưng thực tế là có kẻ giật giây phía sau, chỉ là khác biệt nhỏ, nhưng kết quả hoàn toàn khác nhau.
Nhân sĩ văn sĩ Giang Nam vì chủ nghĩa tư bản manh nha và truyền thống thương nghiệp sinh ra tập tục tự do, cho nên dám nói thẳng, dám phát biểu ý kiến về việc thiên hạ, nhưng toàn bộ dư luận vẫn nắm trong sự khống chế của mấy đại lão, vì mục đích riêng nào đó, mà dùng thủ đoạn này để ảnh hưởng.
Ví như nói làn sóng phản đối hiện nay chỉ là thủ đoạn nhỏ của Nguyễn Đại Thành.
Tuần phủ Nhan Kế Tổ nhìn ra thì tất nhiên có cách ứng phó, ông ta nói cũng rất đơn giản, tất nhiên là vũ lực uy hiếp và vàng bạc mua chuộc.
Cái sau thì không cần để ý tới bọn sĩ tốt, chỉ cần mua được mấy kẻ đứng đằng sau là mọi chuyện được giải quyết hết. Năm xưa Nhan Kế Tổ là cao sĩ Đông Lâm nổi danh thiên hạ, nên có tự tin hoàn thành sứ mạng, cùng lắm thì làm trung gian đàm phán với Nguyễn Đại Thành xem xem hắn có điều kiện gì.
Sau khi Nhan Kế Tổ xuất phát, Lý Mạnh có chút bực mình, ở Nam Kinh hắn cũng có các mối quan hệ, nhưng lại chẳng được tác dụng gì.
Trước kia Giao Châu doanh hoạt động ở Nam Kinh đều thông qua binh bộ thị lang Ngô Gia Vệ thao tác, nhưng đằng sau Ngô Gia Vệ lại là Trịnh gia Phúc Kiến, sau khi Giao Châu doanh thu lại thuyền binh, rồi lại xây dựng thành lũy ở hải cảng ven biển cho dù hai bên làm ăn vẫn rất thuận lợi, nhưng phía sau đã không còn trạng thái hữu hảo như trước, mà đề phòng lẫn nhau.
Ngô Gia Vệ lên tiếng tất nhiên không phải là công bằng, để Lý Mạnh khống chế Nam Trực Đãi tiếp đó là không chế Giang Nam, như vậy phạm vi thế lực và khu vực buôn bán của Trịnh gia đại bộ phận nằm dưới sự uy hiếp của Giao Châu Doanh, tức là gần như mọi mạch máu của Trịnh gia đều nắm trong Giao Châu doanh rồi.
Vốn hai bên đều cùng cấp bậc tham tướng, là thế lực đứng đầu địa phương, nhưng hiện nay Lý Mạnh đã có thể chấn động thiên hạ, Trịnh gia vẫn là một tham tướng chiêu an ở biển, Trịnh Chi Long sao có thể vui được.
Lần này văn nhân thiên hạ lên tiếng, kẻ nhảy ra đầu tiên là Ngô Gia Vệ, lúc đó Nguyễn Đại Thành còn chưa xúi bẩy đằng sau.
Ngô Gia Vệ, biểu hiện như thế đánh tan hoài nghi của rất nhiều người.
Nhưng biểu hiện như thế xem ra Ngô Gia Vệ đúng là kẻ lỗ mãng, nói chuyện thẳng thắn đâu được như Nguyễn Đại Thành làm việc, tạo thành làn sóng ngôn luận.
Có điều trong đó có phải có mưu đồ dùng ngôn ngữ uy hiếp kiếm lấy vinh hoa phú quý hay không thì người ngoài không biết được.
Nhan Kế Tổ vừa mang tiền đi, Lý Mạnh liền gọi thống lĩnh phân đà diêm bang Sơn Đông tới, ra một mệnh lệnh rất đơn giản, nếu như Nhan Kế Tổ hoạt động bất lợi thì thẳng tay giết người, thành Nam Kinh từ ngoài đánh vào thì rất khó nhưng hô mưa gọi gió bên trong thì đơn giản.
Đại sự càng tới gần, Lý Mạnh càng cảm thấy nóng nổi vô cớ, có kẻ châu chấu đá xe, làm Lý Mạnh càng phẫn nộ.
Trên tri thức lịch sử thô thiển mà Lý Mạnh biết, không biết lúc Minh Thanh giao thời thì đám thư sinh quyên mình vì nghĩa, cái công phu mồm mép tới lúc quan trọng chẳng được tác dụng gì, nếu như không biết tốt xấu thì cho bọn chúng nếm mùi lợi hại.
An bài xong những chuyện này, đại quân cũng có điều chỉnh, lần này dốc toàn lực phải thành công, trừ Lý Mạnh xuất lĩnh đại quân ở Tế Nam ra, quân Thanh Châu và quân Hoài Dương cũng toàn bộ tới tụ tập với đại quân, lực lượng càng lớn, khả năng sai sót càng nhỏ.
Dù sao lần này quyết định vinh hoa phú quý của Giao Châu doanh trong tương lai và tính mạng người nhà, không thể có chút sơ xuất nào.
Ngày 18 tháng 11 năm Sùng Trinh thứ 15, vào chập tối đội thuyên khổng lồ và quân lính bắt đầu di động, gần như mọi việc đã hoàn thành công tác chuẩn bị, sắp nhìn thấy kết quả rồi.
Đáng ra đây chỉ là một việc nhàm chán ngồi đợi kết quả, nhưng Lý Mạnh lúc này chẳng thấy chút nhàm chán nào, ngược lại nóng ruột vô cùng, không thể tĩnh tâm lại được.
Đi thuyền còn tạm, nhưng quân lính thì không chịu nổi cho nên tiến được hai mươi dặm, quân lính cắm trại còn đội thuyền tiếp tục hướng về phía trước.
Lý Mạnh không dám để những bất an của mình lộ ra cho thân tín và vệ sĩ bên cạnh biết, hắn là xương sống của mười mấy vạn quân, không thể mất bình tĩnh trước trận đại chiến, trước khi tất thắng còn thế thì sau này thống lĩnh đại quân trấn áp thiên hạ sao được.
Nhất cử nhất động của hắn đều là hình tượng công chúng, lúc nào cũng phải chú ý, lộ ra chân tình dù là trong nhà đôi khi cũng không thể, điều này đương nhiên có chút đè nén, nhưng đó là một trong cái giá của người cầm quyền.
Cho dù khí trời và hoàn cảnh đều rất thích hợp an giấc, nhưng Lý Mạnh không làm sao có thể ngủ được, nên mang luôn một cái ghế tới mũi thuyền ngồi.