Trên Biển Khơi Dưới Đá Thẳm Chương 13


Chương 13
Thật tiếc là ngay từ đầu bọn mình lại đi nghĩ tới ông

Barney chớp chớp mắt nhìn vào bóng tối. Khi mắt nó đã quen với việc không còn ánh sáng mặt trời thì những vật lờ mờ trong bóng tối mới dần hiện rõ ra. Nó nhận thấy ánh sáng từ lối cửa hang chiếu vào bên trong sâu hơn chúng tưởng; và ít nhất trong vài thước đầu tiên nó có thể nhìn thấy những thân rong biển xanh nhờ nhờ phủ bầy nhầy bên vách và trên nóc hang, cả ánh sáng lấp lánh của một dòng nước nông, tĩnh lặng bên dưới.

Nó thận trọng bước về phía trước, một tay giơ lên chạm vào nóc hang, tay kia dang ra chạm vào một bên vách. Nhè nhẹ và đều đặn, nó có thể cảm thấy Simon đang đi phía sau kéo sợi dây buộc ngang thắt lưng nó. Rõ mồn một trong không gian yên lặng khép kín của cái hang, nó có thể nghe được tiếng chân của hai đứa lội bì bõm và tiếng thở của anh trai.

"Đi cẩn thận nhé," Simon nói từ phía sau. Thằng anh nói rất khẽ, gần như thì thào, vậy mà cái hang vẫn dội lại giọng nó thành một tiếng ì ầm vang dậy khắp cả không gian bao quanh chúng.

"Em đang cẩn thận đây thôi."

"Em có thể bị va u đầu đấy."

"Anh cũng có thể bị va u đầu. Coi chừng cái nhũ đá, nó sa xuống thấp đấy. Đặt tay lên nóc hang, anh sẽ sờ thấy đường."

"Anh biết rồi," Simon nói vẻ sốt ruột. Cổ nó phải chúi xuống rất khó chịu; vì cao hơn Barney nên nó cứ phải khom người suốt để tránh khỏi đập đầu vào đá nhầy nhụa bên trên. Thỉnh thoảng một giọt nước to lạnh lại nhỏ vào bên trong cổ áo sơ mi của nó.

"Lạnh quá nhỉ?"

"Lạnh phát cóng." Chiếc quần soóc dính bết vào đùi Barney nhớp nháp, và nó cảm thấy hơi lạnh luồn qua áo. Mỗi lúc nó lại càng cảm thấy khó nhìn được những thứ xung quanh hơn, và chẳng mấy chốc nó phải lo lắng dừng lại, cảm thấy bóng tối vây tới gần như thể đang bưng lấy hai mắt. Lần mò lên trên, ngón tay nó không còn sờ được đến nóc hang nữa. Bên trên đầu, nóc hang đã vươn cao quá tầm với của nó, và nó chỉ nắm được không khí.

"Chờ một chút, anh Simon." Giọng của nó dội lại từ mọi phía nghe rờn rợn. "Em nghĩ là nóc hang chỗ này cao hơn. Nhưng giờ em không nhìn thấy gì cả. Anh vẫn có diêm đấy chứ?"

Simon lần theo cái dây để tới chỗ Barney đang đứng. Nó chạm được vào vai thằng em, và Barney cảm thấy yên tâm hơn hẳn trước cảm giác tiếp xúc này, thậm chí còn hơn là nó dám tự thừa nhận với chính mình nữa.

"Đừng có động đậy. Anh sẽ buông cái dây ra một lúc đấy."

Simon mò mẫm trong túi tìm diêm, rồi mở bao diêm ra, sờ các cạnh cẩn thận để biết chắc là mình mở đúng chiều.

Hai que diêm đầu chỉ bướng bỉnh kêu kèn kẹt trên vỏ mặc cho nó ra sức quẹt, và chẳng que nào bắt lửa. Que diêm thứ ba cháy nhưng lại bị gẫy luôn, làm bỏng ngón tay Simon đến nỗi nó kêu lên một tiếng và đánh rơi que diêm trước khi chúng kịp chớp chớp mắt cho hết lóa vì ánh lửa bất ngờ. Có tiếng xèo xèo nho nhỏ khi que diêm rơi xuống vũng nước quanh chân chúng.

"Nhanh lên," Barney nói.

"Anh đang nhanh hết cỡ đây... a, được rồi."

Que diêm thứ tư khô, bắt lửa và bập bùng cháy. Simon khum tay che ngọn lửa. "Lạ nhỉ, chắc là ở đâu có gió lùa rồi. Nhưng anh không cảm thấy gì cả."

"Vậy mà que diêm lại cảm thấy. Tốt rồi, như thế có nghĩa là sẽ có lối ra ở đầu đằng kia. Thế thì đây đúng là cái hang cần tìm."

Bàn tay Simon che ngọn lửa nhỏ chói mắt, và Barney vội vã nhìn xung quanh trong ánh sáng chập chờn. Bóng của chúng nhảy nhót trên vách hang, to đùng và nom thật kỳ quái. Barney nhìn lên, và thận trọng bước vài bước lên phía trước. "Giơ cao lên nào... này, ở đây nóc hang cao hơn, anh có thể đứng thẳng được đấy."

Simon thận trọng bước đến chỗ em trai, trong lúc vẫn cong người bên trên que diêm, rồi duỗi thẳng lưng ra và thở phào một hơi nhẹ nhõm. Nhưng rồi que diêm cháy đến ngón tay nó, và nó thả vội xuống. Ngay lập tức bóng tối bao trùm lên hai đứa như một tấm chăn.

"Đứng yên nhé, anh sẽ châm que khác."

"Thôi, chờ một chút, mình không cần phải lãng phí đâu. Em có nhìn thấy một đoạn phía trước lúc lửa chưa tắt, vì thế mình có thể đi hết đoạn đó rồi anh hãy châm que khác."

Barney nhắm mắt lại. Không hiểu sao, mặc dù mở thì cái hang vẫn tối như vậy, nó thấy nhắm mắt lại cho nó cái cảm giác an toàn hơn. Ngón tay vẫn lần theo vách đá trơn tuột, nó bước hai, ba bước lên trước. Simon bước theo, một tay đặt lên vai em trai, mắt nhìn chòng chọc vào bóng tối nhưng chẳng thấy gì, như thể có một tấm màn đen dày đặc che rủ ngay trước mặt.

Chúng cứ tiếp tục vào hang như vậy trong một khoảng thời gian dường như vô tận. Cứ chốc chốc Simon lại đánh một que diêm, và chúng bước tiếp trong lúc cái nguồn sáng mờ mờ còn cháy và vài bước nữa theo trí nhớ sau khi diêm tắt phụt. Một lần chúng thử thắp mẩu nến, nhưng nó chỉ kêu xèo xèo bướng bỉnh, thế nên Simon lại nhét nó vào túi.

Không khí phả vào mặt chúng lành lạnh, nhưng trong lành. Mặc dù xung quanh chúng toàn mùi muối và rong biển, như thể đang ở dưới biển, chúng thấy không khó thở lắm. Sự tĩnh lặng, cũng như bóng tối, dường như đặc quánh, chỉ bị phá vỡ bởi chính tiếng bước chân của chúng, và tiếng vang thánh thót của những giọt nước từ trên nóc hang thỉnh thoảng rơi tõm xuống.

Trong lúc Simon đang đứng im và loay hoay với bao diêm thì Barney cảm thấy sợi dây quanh bụng mình giật mạnh siết vào người; một, hai lần. "Hai lần kéo. Chắc là chị Jane đấy. Mười phút. Trời đất, em cứ tưởng mình đã ở đây đến hàng tiếng đồng hồ rồi."

"Anh sẽ làm hiệu lại," Simon nói. Nó đánh một que diêm và nhìn thấy sợi dây mảnh đang căng lên trong ánh lửa. Nắm chặt sợi dây, nó cũng giật hai cái chậm và đều về phía tín hiệu kia.

"Nghĩ đến chị Jane ở đầu đằng kia cứ là lạ thế nào ấy," Barney nói.

"Không biết còn bao nhiêu nữa?"

"Ôi! - Anh có nghĩ mình sắp bị hết dây không? Dây có dài không?"

"Khá dài đấy," Simon đáp, cố ra vẻ lạc quan hơn là nó cảm thấy trong lòng. "Mình đi chậm quá. Ui!" Que diêm cháy đến ngón tay, và nó vội vàng buông ra.

Không thấy có tiếng xèo xèo khi que diêm rơi xuống. Khi hai đứa mò mẫm đi tiếp Simon chợt nhận ra là nó đang cố lắng nghe âm thanh ấy.

"Dừng lại một lát, Barney." Nó di di chân dưới đất và nhìn xuống. "Nền hang không còn ướt nữa."

"Dép của em vẫn còn kêu lép nhép mà," Barney nói.

"Đấy là nước ở bên trong giày, chứ không phải bên ngoài đâu, đồ ngốc ạ." Giọng Simon vang ầm lên trong hang, và nó lại vội vàng hạ xuống thành khẽ thì thào, gần như sợ rằng âm thanh đó sẽ làm sập cả nóc hang trên đầu chúng.

"Vách hang ở đây cũng không còn lầy nhầy nữa," Barney đột nhiên nói. "Là đá khô. Thực ra đã khô được một đoạn rồi, chỉ tại em không nhận ra thôi."

Một que diêm nữa sáng bùng lên khi Simon châm vào que diêm gần cháy hết trên tay. Nó đưa ngọn lửa lại gần vách đá. Hai đứa nhìn thấy lớp đá granite xám trơ trụi, đôi chỗ nổi lên những vân đá sáng trắng, và không còn chút rong biển nào. Khi Barney cúi người xuống để sờ, nó thấy mặt đất phủ toàn bụi cát.

"Chắc là mình đang đi lên đồi."

"Biển chắc không thể ăn sâu được đến đây đâu."

"Nhưng mình nghe thấy tiếng biển ầm ầm từ trên miệng hố mà, sáng nay ấy. Liệu như thế có nghĩa là mình đã đi qua miệng khe núi rồi không?" Barney ngửa cổ nhìn lên nóc hang.

"Anh không nghĩ thế," Simon nói vẻ không chắc chắn. "Tiếng biển có thể vọng xa cả đoạn đường dài. Này, nhìn phía trước nhanh đi, diêm sắp tắt rồi."

Barney nhìn về phía trước và thấy cái khung cảnh giờ-đã-trở-nên-quen-thuộc mà mãi về sau nó vẫn không thể nào quên: những vách hang hẹp chạy ngoằn ngoèo vào bóng tối với bao nhiêu hình bóng đang nhảy nhót, như kẹp chặt chúng trong gọng kìm tù túng không mấy thân thiện. Và vào đúng giây phút bóng tối lại chực bao phủ lấy chúng, nó mơ hồ cảm thấy màn đen trước mặt gần hơn khi nãy.

Nó ngập ngừng đi lên phía trước, nhưng linh tính mách bảo nó dừng lại. Nó quờ tay ra trước khoảng không im lặng. Bàn tay đập vào đá cứng chỉ cách mặt nó khoảng vài inch. "Simon! Đường cụt rồi."

"Cái gì?" Giọng Simon vang lên vẻ nghi ngờ và thất vọng. Nó đã đánh vật với những que diêm; giờ thì nó sờ thấy đáy hộp, và nhận ra là mình không còn nhiều nữa.

Trong ánh sáng chập chờn, khó có thể phân biệt được những cái bóng với bóng tối dày đặc, nhưng chúng đã kịp nhìn thấy cái hang vẫn chưa đến tận cùng. Thay vì thế, lòng hang thay đổi, ngay trước mặt chúng, thành một lối đi hẹp hơn ở xa xa: nhỏ và cao, với một tảng đá cuội nằm kẹt giữa hai bên vách phía trên nền đất chừng một mét. Trên đầu chúng, cao quá tầm với, khe hang hẹp mở rộng ra cho đến nóc: nhưng chẳng có cách nào để trèo lên đó cả. Tảng đá đã chặn lối lên.

"Chúng mình sẽ chẳng bao giờ qua được chỗ kia," Simon tuyệt vọng nói. "Chắc là đá đã rơi xuống sau khi ông người Cornwall đó đi qua."

Barney nhìn xuống cái khe hở tối om đáng sợ còn lại ở bên dưới khe đá, lởm chởm toàn đá và đầy đe dọa sau bóng lửa bập bùng, và nuốt nước bọt. Nó bắt đầu ước gì hai anh em được quay trở lại chỗ có ánh sáng mặt trời.

Sau đó nó nghĩ về chén Thánh, rồi đến vẻ mặt của gã Hastings. "Em có thể chui qua bên dưới, nếu em bò."

"Không," Simon phản đối ngay lập tức. "Nguy hiểm lắm."

"Nhưng bây giờ mình cũng không thể quay trở lại," Barney lấy lại tự tin khi nó bắt đầu tranh luận. "Mình đã đến tận đây rồi, có thể mình chỉ còn cách chén Thánh có mấy bước thôi. Em sẽ ra ngay nếu lối đi quá chật. Ôi thôi nào, Simon, để em thử đi."

Que diêm phụt tắt.

"Mình không còn nhiều nữa," Simon nói trong bóng tối. "Sắp hết rồi. Mình phải thắp mẩu nến đó lên không thì sẽ bị tắc ở đây. Em đang ở đâu?"

Lần theo sợi dây về phía Barney, Simon cầm lấy tay em trai và đặt bao diêm vào đó. Rồi nó sờ túi tìm mẩu nến, lau cái bấc vào áo hy vọng có thể làm nó khô hơn. "Nào, bật một que diêm lên."

Có một tiếng động đằng sau chúng trong bóng tối, giống như tiếng đá rơi; một tiếng kèn kẹt, lạch cạch, và rồi lại im lặng.

"Cái gì thế nhỉ?"

Hai đứa lo lắng nghe ngóng, nhưng chỉ nghe thấy tiếng tim chúng bỗng dưng đập thình thịch. Barney đánh một que diêm, tay run rẩy. Quanh chúng, cái hang lại tràn ngập ánh sáng, duy chỉ có bóng tối xúm xít ở phía tiếng động như đang chế giễu.

"Chẳng có gì cả đâu," cuối cùng Simon nói. "Chắc là một tảng đá mình đã cọ vào nên long ra. Đây." Nó đưa mẩu nến lên trước ngọn lửa. Que diêm tiếp tục cháy nhưng mẩu nến vẫn chỉ kêu xèo xèo như lần trước. Chúng thử thêm lần nữa, cố nín thở, và lần này thì cái bấc bắt lửa, một ngọn lửa dài màu vàng tỏa đầy khói.

"Cầm lấy," Barney nói vẻ quyết tâm. "Em sẽ đi vào trong đó." Nó đưa cho Simon những que diêm cuối cùng và cầm lấy mẩu nến. "Anh nhìn mà xem," nó nói, lấy tay che ngọn lửa đầy khói khỏi gió. "Thực ra lối này cũng không thấp lắm. Em có thể bò được."

Simon nhìn theo lối đi bé xíu ấy đầy lo lắng. "Ờ... vì Chúa, cẩn thận đấy nhé. Và nhớ kéo sợi dây nếu em bị mắc kẹt, anh sẽ giữ dây đấy."

Barney khuỵu tay và đầu gối bò vào trong cái khe tối om bên dưới tảng đá kẹt, giữ khư khư mẩu nến đang cháy lập lòe chực tắt phía trước mặt. Gió lúc này hình như mạnh hơn. Tứ phía chạm đâu cũng thấy đá, đến nỗi nó phải cúi đầu xuống và thu khuỷu tay vào, và trong một thoáng nó gần như phát hoảng lên vì cái cảm giác bị mắc kẹt.

Nhưng nỗi lo sợ chưa kịp lớn lên, thì những cái bóng đang lù lù ở quanh một điểm sáng bỗng thay đổi hình dạng, và nó ngẩng đầu lên mà không cộc phải đá. Nó bò thêm chút nữa, mặt hang cứng và đầy sạn dưới đầu gối nó; và nó thấy mình không những có thể đứng dậy mà cái hang cũng rộng hơn nhiều. Quầng sáng hắt ra từ ngọn lửa mà nó vẫn gìn giữ cẩn thận thậm chí còn không chiếu đến được hai bên vách hang.

"Em có ổn không?" Cái giọng lo lắng của Simon vọng đến nghèn nghẹt qua khe đá đằng sau nó.

Barney cúi xuống. "Ổn cả, bây giờ hang lại rộng rồi, chắc là một lối vào... em sẽ đi tiếp."

Nó cảm thấy sợi dây ở bụng bị kéo chặt khi Simon giật dây trả lời và nó lại chầm chậm đi tiếp qua hang. Bóng tối mở ra đằng trước nó trong quầng sáng nhỏ từ mẩu nến, đang cháy rụi và nhỏ sáp nóng xuống móng tay nó. Khi nó ngoảnh lại nhìn qua vai thì không còn nhìn thấy lối vừa đi qua nữa.

"Xin chào," Barney nói thử trong bóng tối. Giọng nó thì thầm dội trở lại nghe vừa kỳ quái vừa đáng sợ: không trầm trầm, vang dội khắp chung quanh như ở đoạn hang hẹp tựa đường hầm chúng vừa đi qua, mà thì thào xa xăm và cao vói trong không gian. Barney đi vòng quanh, nhòm vào bóng tối một cách vô ích. Nơi nó đang đứng chắc phải rộng bằng cả cái nhà - thế nhưng nó vẫn ở sâu dưới lòng Mũi Kemare.

Nó đứng lại, phân vân. Ngọn nến đang tàn, mềm nhũn trong tay. Ý nghĩ về gã đàn ông cao lớn mặc đồ đen trong ngôi nhà trống không lạ kỳ của gã bỗng trở lại, và cùng với ý nghĩ ấy là mọi mối đe dọa vây quanh bọn người đang đuổi theo chúng, bọn địch, những kẻ sẵn sàng liều mạng hòng ngăn chúng đến gần chén Thánh.

Barney rùng mình vì hoảng sợ và cái lạnh bất thình lình. Cứ như thể bọn người nọ đang ở xung quanh nó trong bóng tối câm lặng, độc ác và vô hình, buộc nó phải quay lại. Tai nó ù lên, ngay cả trong khoảng không mênh mông của cái hang nó vẫn cảm thấy cái gì đó đang bóp nghẹt nó, một mực đòi đuổi nó đi. Ngươi là ai mà dám xâm phạm nơi đây, giọng nói dường như thì thầm; một thằng nhóc, thò mũi vào chuyện quá ư ngoài tầm hiểu biết, vốn đã ngủ yên không hề bị quấy phá suốt bao nhiêu năm nay? Đi ngay đi, hãy quay lại nơi mà ngươi được bình an, để cho những cổ vật này yên...

Nhưng rồi Barney nghĩ tới Ông Merry, tới cuộc tìm kiếm bí mật của ông mà chúng đang tiếp bước. Nó nghĩ tới tất cả những điều ông đã nói, ngay từ khi mới bắt đầu cuộc tìm kiếm, về trận chiến đấu bất phân thắng bại. Và mặc dù chẳng thấy gì ngoài bóng tối, và tấm màn đen đặc bao quanh quầng sáng vàng vọt bé nhỏ đơn độc, nó chợt thấy hiện ra rõ mồn một hình ảnh hiệp sĩ Bedwin, người đã khởi đầu tất cả khi ông từ phía Đông tháo chạy đến Cornwall. Ông đứng trong tâm trí Barney, trong bộ giáp trụ, bảo vệ niềm hy vọng cuối cùng của vua Arthur, và cũng bị rượt đuổi bởi những thế lực giờ đây đang bám theo chúng.

Và Barney nhớ lại câu chuyện rằng Bedwin được chôn cất trên Mũi Kemare, có thể thẳng ngay phía trên hang chỗ nó đang đứng, và nó không còn sợ nữa. Giờ đây đã có sự an ủi bao quanh nó trong bóng tối, bên cạnh nỗi sợ hãi.

Thế là Barney không quay lại. Nó tiếp tục đi, tay che ngọn lửa nhỏ đang tắt dần, bước vào cái bóng tối cứ trả lại tiếng bước chân của chính nó thành những tiếng vọng xì xào. Và rồi, ngay trên đầu, nó nhận thấy một âm thanh kỳ lạ hơn bất cứ âm thanh nào nó đã từng nghe được.

Âm thanh ấy dường như đến từ cõi hư vô, ngoài khoảng không, một tiếng âm âm kỳ bí, khàn khàn, rất yếu ớt và xa xôi, nhưng vẫn vang khắp lòng hang: lúc trầm, lúc bổng, tựa như tiếng gió xào xạc trên các cành cây và đường dây điện thoại. Khi ý nghĩ ấy thoáng vụt qua tâm trí Barney, nó liền giơ mẩu nến lên và nhìn thấy nóc hang phía trên đầu mình mở ra thành một thứ ống thông khói, cao mãi cao mãi cho đến lút tầm mắt. Trong một thoáng nó nghĩ là mình đã nhìn thấy một điểm sáng chiếu xuống, nhưng vì ánh sáng của ngọn nến lóa ngay trước mắt nên nó cũng chẳng thể nào dám chắc. Rồi nó nhận ra âm thanh mà nó nghe được chính là tiếng gió, mãi tít bên trên, thổi xuống qua miệng hố chỗ tảng đá mà mấy anh em phát hiện ra hồi sáng. Tiếng ù ù ở dưới hang này chính là tiếng gió thổi trên Mũi Kemare.

Gần như tình cờ, khi đang mải ngẩng lên nhìn, nó trông thấy cái gờ đá. Cái gờ đá ấy nhô ra từ một bên vách ống thông khói ở cuối hang; một thứ ụ đá bên dưới một cái hốc, hao hao cái kệ thiên tạo, vừa đúng tầm với của nó. Bên trong đó, nó thấy ánh nến lấp lánh phản chiếu lại một hình thù gì đó không phải là một phần của khối đá.

Không cả dám thở, nó với lên và thấy tay mình chạm vào bề mặt một vật gì đó vừa nhẵn vừa cong. Dưới móng tay nó, vật ấy phát ra tiếng kêu của kim loại. Nó chộp lấy vật đó và đem xuống, chớp chớp mắt vì bụi bốc lên từ bệ đá. Đó là một cái chén, nặng trĩu và hình thù kì lạ; từ dưới chân đế dày phình ra thành hình cái chuông dài, giống hệt như những cái chén có chân nó thấy vẽ trong mấy quyển sách về vua Arthur. Nó băn khoăn tự hỏi làm thế nào mà những họa sĩ kia biết được. Nó hầu như không sao tin được rằng, rốt cuộc, đây lại chính là chén Thánh.

Cái chén kim loại lạnh ngắt trong tay nó, đầy bụi và rất bẩn, nhưng bên dưới lớp bụi vẫn lờ mờ hiện ra ánh vàng lấp lánh. Trên bệ đá không còn cái gì nữa.

Đột nhiên ngọn nến rung rinh. Sáp nến rơi xuống mềm và ấm, Barney sợ hãi đoán rằng ngọn nến sẽ chỉ còn cháy trong vài giây nữa rồi thì nó sẽ chỉ còn lại một mình trong bóng tối. Nó rời bệ đá trở lại hướng mà lúc nãy nó bò vào, và nhận ra rằng nếu không có cái dây quấn quanh bụng thì nó sẽ bị mất phương hướng đến độ nào. Khoảng không rộng lớn của lòng hang trải ra khắp chung quanh nó vào bóng tối dày đặc; chỉ có sợi dây này, thẳng và mảnh, là mách lối cho nó đi.

Nó bước về phía đó; sợi dây chùng xuống đất rồi lại căng ra. Simon chắc là đang kéo. Barney một tay ôm chặt chén Thánh vào người, tay kia nâng ngọn nến giờ đã cháy gần hết lên. Cơn phấn khích xua tan hết nỗi sợ hãi trong lòng. "Anh Simon!" nó gọi to. "Em tìm thấy đây rồi!"

Không có tiếng trả lời ngoài giọng nó, thì thầm dội lại trong cái hang trống trơn. "Thấy đây rồi... thấy đây rồi..." ... hàng chục giọng, giọng nào cũng là của nó, vang lên tứ phía.

Và ngọn nến rung rinh, rồi tắt lịm.

Sợi dây căng ra khi Barney nắm vào và chầm chậm bước theo. "Anh Simon đấy à?" nó lo ngại hỏi. Vẫn không có tiếng trả lời. Trong chốc lát, trong đầu nó hiện ra một hình ảnh ghê rợn rằng Simon đang bị khống chế và bất lực. Còn ở bên kia lối đi hẹp kẹt trong đá là dáng người cao cao đầy nhạo báng của gã Hasting, đang cầm sợi dây như thể vờn một con cá đã mắc câu, và chờ đợi...

Cổ họng Barney bỗng dưng khô khốc. Trong bóng tối, nó ôm cái chén Thánh chặt hơn, trống ngực đập thình thịch. Rồi nó nghe thấy giọng Simon, khe khẽ trong bóng tối phía trước mặt, và hơi nghèn nghẹt.

"Barney!... Barney đấy à?"

Barney đưa tay ra và sờ thấy tảng đá nơi phần nóc tự dưng sa xuống thành khúc hẹp của lòng hang. "Em đây... Simon, em tìm thấy rồi, em đã lấy được chén Thánh rồi!"

Nhưng nó chỉ nghe thấy tiếng giục nghèn nghẹt từ phía bên kia, "Ra ngoài, nhanh lên."

Barney bò bằng tay và đầu gối, lại nhăn mặt mỗi khi đập vào cạnh đá sắc. Nó cẩn thận bò vào đúng cái khe chia hai ngả của hang, đôi lúc lại va đầu vào trần đá thấp lởm chởm trong bóng tối.

Nó giữ cho cái chén Thánh thẳng đứng ngay trước mặt, nhưng cái chén chạm vào vách đá và, trước vẻ kinh ngạc của nó, phát ra một thanh âm ngân dài trong trẻo và du dương như một tiếng chuông.

Nó nhìn thấy một quầng sáng lờ mờ hiện ra ở đầu kia của khe đá và rồi một que diêm sáng rực tựa ngôi sao, và Simon đang vừa khom người thật thấp vừa kéo dây bằng bên tay còn rỗi. Bóng tối làm mắt thằng anh to ra, tối sẫm và có vẻ hết sức hốt hoảng. Nó nhìn không chớp lúc Barney bò ra, quên hết thảy tất cả khi thấy chiếc chén cao cao.

Simon từ bấy đến giờ đâm mỗi lúc một thêm lo lắng, và duy nhất có cái cảm giác Barney vẫn đang di chuyển ở đầu bên kia là còn ngăn được nó tự mình chui qua cái ngách bé xíu ấy. Nó đã đứng một mình trong bóng tối, căng tai ra nghe từng tiếng động, mong được thấy ánh sáng nhưng vẫn tự bắt mình phải để dành sáu que diêm lại cho chuyến trở ra. Thời gian chờ đợi ấy mới lâu làm sao.

Nó cầm lấy cái chén từ tay Barney. "Chẳng hiểu sao, anh lại tưởng nó phải có hình thù khác cơ... Cái gì ở bên trong thế này?"

"Ở đâu?"

"Nhìn này..." Simon sờ soạng bên trong cái chén và lôi ra một thứ thoạt nhìn trông giống một cái que ngắn, để lâu năm nên đã đen sạm lại gần bằng cái chén Thánh. Người ta đã nhét nó vào giữa hai lớp thành chén và lúc nãy Barney vội quá nên không nhìn thấy.

"Nó rất nặng. Anh nghĩ nó được làm bằng chì."

"Cái gì thế?"

"Hao hao cái ống. Giống cái vỏ ống nhòm, nhưng nhỏ hơn nhiều. Mà hình như không vặn ra được. Có thể chỉ khớp vào với nhau thế thôi." Simon kéo thử cái ống và chợt thấy một đầu bung ra như cái nắp: và cuộn tròn ở bên trong là một thứ hết sức quen thuộc.

"Là một bản viết cổ nữa!"

"Thì ra đó chính là điều ông ta định ám chỉ khi nói..." Simon đột nhiên ngừng lại. Nó đã cầm một đầu của cuộn giấy định kéo ra khỏi cái ống, nhưng mép giấy lập tức vỡ vụn ra dưới tay nó chạm vào. Vội vàng thận trọng nó rụt tay lại, và cũng đúng lúc đó chợt nhớ ra vì sao nó lại lo lắng gọi Barney ra ngoài như thế.

"Bọn mình không được chạm vào nó, nó quá cũ rồi. Barney này, bọn mình phải ra khỏi đây càng nhanh càng tốt. Jane đã giật dây ba cái trước lúc em quay ra đấy. Chắc là thủy triều đang lên rồi. Nếu bọn mình không thoát ra nhanh thì sẽ bị chặn đường mất."

* * *

Khi Simon và Barney biến vào trong miệng hang, Jane liền ngồi dựa vào một cột đá lẻ loi trên mũi đất, giữa những thảm rong biển ẩm ướt và một dải bờ đá granite phẳng lì màu xanh xám lượn vòng quanh vách đá. Em kẹp cái hộp kính viễn vọng thật cẩn thận dưới cánh tay. Mặc dù em luôn đi cùng với Simon khi anh trai mang cái hộp, nhưng cứ nghĩ đến bản viết cổ bên trong em lại thấy một cảm giác bồn chồn kỳ lạ rằng mình đang gánh vác một trách nhiệm nặng nề.

Em thả dần sợi dây câu mảnh từ cuộn dây quấn chặt trong tay ra. Lực kéo không đều, có vẻ như bên trong hang đá hai anh em cứ chốc chốc đi lên vài bước rồi lại dừng lại. Em phải rất tập trung để giữ cho sợi dây không quá căng hay quá chùng đến mức rơi xuống đất.

Trời rất nóng. Mặt trời chiếu như đổ lửa xuống những vách đá xám cao vút và em cảm thấy cái nóng râm ran như kiến đốt trên da. Thậm chí cả tảng đá em dựa lưng vào cũng bị nung nóng dưới ánh mặt trời, và em có thể cảm thấy hơi ấm của nó qua lưng áo. Đằng sau em, nước biển rì rầm vỗ vào mép những tảng đá bị lộ ra. Không còn một âm thanh nào khác ở bất kỳ đâu, dưới chân mũi đất hiu quạnh này với mặt biển lan tỏa ra mọi hướng, và nếu không có sợi dây đang rung rinh trong tay thì Jane hẳn đã tưởng rằng mình là người duy nhất trên thế giới. Đất liền, và Ngôi nhà Xám, dường như ở rất xa.

Em nghĩ miên man không biết bố mẹ đã từ Penzance trở về chưa và họ sẽ nghĩ gì khi thấy ngôi nhà trống không, chẳng có lấy một dấu hiệu cho thấy người nào đã đi đâu.

Em nghĩ về ba bóng người mà mấy anh em đã nhìn thấy sải bước trên Mũi Kemare, dẫn đầu là gã Hastings đáng sợ, đen sì một màu và chân cẳng dài ngoằng như một con bọ hung khổng lồ. Theo bản năng, em nhìn lên vách đá. Nhưng không một âm thanh, không một chuyển động, chỉ có dải bờ đá xám ngả bóng lên em như hăm dọa, và chóp cỏ xanh ở trên mũi đất, bên trên chỗ em ngồi chừng sáu chục mét.

Rồi Ông Merry lại theo những ý nghĩ ấy len vào tâm trí em. Ông đang ở đâu nhỉ? Lần này không biết ông đi đâu? Gần cuối cuộc tìm kiếm rồi mà chuyện gì lại có thể quan trọng tới mức khiến ông phải đi? Không lúc nào Jane nghĩ là ông có thể bị hại, hay bị kẻ địch bắt đi cả. Em nhớ rất rõ vẻ tự tin tuyệt đối khi Ông Merry nhấc bổng em lên trong vòng tay vào cái đêm hôm trước trên mũi đất. "Chúng không dám đuổi theo nếu ông ở đây..."

"Cháu ước gì giờ này ông ở đây," Jane nói, hơi to, có run run một chút, bất chấp hơi nóng hầm hập. Em không thấy yên tâm khi nghĩ đến Simon và Barney trong bóng tối, nơi bất cứ thứ gì cũng có thể đang rình rập, hai đứa có thể bị lạc đường và không bao giờ ra được, nóc hang có thể sập xuống...

Ông Merry đáng nhẽ đã có thể đảm bảo rằng sẽ không xảy ra chuyện gì như vậy.

Jane nhìn đồng hồ. Bây giờ đã là năm giờ mười hai phút rồi, mà cái dây trong tay em vẫn đang thả ra chậm rề rề và giật cục vào trong hang. Em giật hai cái thật mạnh. Sau một lúc chờ, em thấy cái dây giật hai lần thay cho câu trả lời; nhưng rất khẽ. Sợi dây đã tở ra được hai phần ba; em ước gì mình đã đo sợi dây trong lúc thả nó ra. Thời gian trôi qua thật lê thê; sợi dây vẫn cứ chạy tuột khỏi tay em, di chuyển vào hang tối với tốc độ còn chậm hơn lúc nãy. Mặt trời chói chang bất động trên bầu trời xanh không một gợn mây, và một cơn gió nhẹ từ đâu thổi đến làm tung đuôi tóc dài buông xõa của Jane.

Em vẫn dựa lưng vào đá và để cho các giác quan của mình lang thang; cảm nhận cái nóng của mặt trời trên da, ngửi mùi biển trên đá ướt và rong biển, lắng nghe tiếng sóng biển ì oạp êm ái. Rồi trong lúc đang lơ mơ như ngái ngủ ấy, chỉ còn ngón tay là hoạt động, em chợt sửng sốt nhận ra rằng tiếng nhịp sóng biển đã đổi.

Em bật dậy và chạy vòng trở lại. Em kinh hoàng nhìn thấy những đám rong gần biển nhất giờ đây đang dập dềnh theo con sóng lúc trước còn chưa thấy ở đó. Sóng biển đang vỗ vào chỗ lúc trước vẫn là triền đá; tới gần chỗ mình ngồi hơn lúc trước, em tự nhủ. Thủy triều đang lên.

Jane bắt đầu thấy hoảng trong lòng. Vài vòng dây cuối cùng bây giờ đã lỏng ra trong tay em: hai anh em hẳn đã chui vào hang được một đoạn quá xa rồi. Em nắm sợi dây thật chắc, cuộn phần dây chùng vào tay và đi ra ngay phía trước cửa hang tối om, rồi giật thật mạnh một, hai, ba cái.

Không thấy gì cả. Em chờ đợi, lắng nghe tiếng ì oàm đều đều của những con sóng đang trườn lên. Đúng lúc những giọt nước mắt hoảng sợ bắt đầu dâng lên cay sè trong mắt thì em thấy tín hiệu trả lời; ba cái giật nhẹ của sợi dây trong tay. Gần như ngay tức thì sức căng của sợi dây giảm đi, và sợi dây lại bắt đầu chùng hẳn xuống. Jane thở phào nhẹ nhõm. Sợi dây di chuyển về phía em khi em kéo; ban đầu thì chậm, sau đó dễ dàng hơn, nhanh hơn lúc em thả dây ra. Rồi cuối cùng, Simon và Barney, mắt chớp lia lịa đằng sau hai bàn tay giơ lên che ánh mặt trời, loạng choạng bước ra khỏi miệng hang hẹp.

"Chào," Simon ngơ ngẩn nói, nghe có vẻ còn choáng váng. Diêm đã hết từ năm phút trước khi chúng ra được khỏi hang, và đoạn cuối của đường ra là cả một hành trình ác mộng trong bóng tối đen như hắc ín, dò dẫm bước đi và chỉ tin tưởng bám theo sợi dây để biết đoạn đường phía trước không có gì trở ngại. Nó đã bắt Barney để nó đi trước. Suốt dọc đường nó luôn có cảm giác rằng chỉ một bước nữa thôi là nó có thể đâm vào đá, hay phải mặt đối mặt với Thứ Gì Đó không tên trong bóng tối, và nó sẽ chẳng ngạc nhiên nếu khi chúng chui ra thì tóc nó đã thành bạc trắng.

Jane nhìn Simon, hơi nhoẻn miệng cười gượng gạo và lặp lại y hệt, "Chào."

"Nhìn này!" Barney nói và giơ cái chén Thánh lên.

Jane cảm thấy nụ cười của mình rộng hẳn ra vì sung sướng. "Thế là bọn mình đã thắng chúng rồi! Bọn mình đã có nó rồi! Trời, giá mà Ông Gumerry ở đây nhỉ."

"Em nghĩ nó làm bằng vàng đấy." Barney cọ cọ vào lớp kim loại. Ở ngoài nắng, chén Thánh kém vẻ thần diệu hơn hẳn so với khi ở trong bóng tối bí ẩn của cái hang; nhưng một ánh vàng lấp lánh vẫn ẩn hiện đâu đó sau lớp bụi. "Ở trên bề mặt cũng có họa tiết gì đó nữa," nó nói. "Nhưng mình không thể nhìn rõ nếu không lau sạch."

"Nó cổ quá nhỉ."

"Nhưng nó có ý nghĩa gì chứ? Ý em nói là mọi người đi tìm kiếm nó như điên, bởi vì nó có thể cho biết điều gì đó, nhưng khi nhìn thấy nó rồi thì có vẻ như nó chẳng nói lên được điều gì cho ai hết cả. Trừ phi cái họa tiết trên này là một loại mật mã gì đó."

"Bản viết cổ," Simon nhắc.

"Ôi trời ơi, phải rồi." Barney rút cái ống bằng chì nhỏ và nặng ra khỏi chén Thánh và đưa Jane xem cái bản viết cổ ở bên trong. "Nó được lèn vào trong chén. Chắc là nó viết tiếp cái phần bản viết cổ của bọn mình còn bỏ dở. Em dám cá là nó rất quan trọng. Em dám cá là nó giải thích mọi thứ. Nhưng mà chưa kịp nhìn qua thì nó đã bục ra rồi." Nó cẩn thận đóng nắp cái ống lại.

"Chúng ta phải mang nó về nhà an toàn," Simon nói. "Anh đang nghĩ liệu có chỗ nào không... chờ một chút." Nó cầm lấy cái hộp kính viễn vọng ở dưới cánh tay Jane và xoáy mở ra. Bản viết cổ quen thuộc của chúng nằm vừa như in ở nửa dưới của cái hộp.

Simon cầm lấy cái ống bằng chì màu đen và cẩn thận thả nó vào giữa bản viết cổ ở bên trong hộp kính viễn vọng. "Rồi. Có khăn mùi soa đấy không, Jane?"

Jane lấy chiếc khăn mùi soa từ túi áo ra. "Để làm gì?"

"Thế này này," Simon nói, vừa nhét chiếc khăn tay thành một cuộn chặt sâu bên trong đầu trên của bản viết cổ. "Nó sẽ giữ cho cái ống mới khỏi bị xóc. Mình sẽ phải chạy nếu muốn ra khỏi chỗ này trước khi thủy triều đuổi kịp, mà như thế cái ống sẽ bị quăng quật rất nhiều."

Lập tức Jane và Barney cùng quay nhìn ra biển. Và gần như cùng một lúc cả hai đứa đều há hốc miệng vì kinh ngạc, kèm theo là một tiếng hức của nỗi kinh hoàng bị bóp nghẹt. Simon đang mải cúi đầu để vặn hai nửa của cái hộp kính viễn vọng vào với nhau, bèn vội vã ngẩng đầu lên. Những con sóng cuốn rong biển đi giờ chỉ còn cách chỗ chúng đứng chưa đầy hai mét. Nhưng đó vẫn chưa phải là vấn đề. Jane và Barney, đứng sững như trời trồng, đang nhìn ra xa phía ngoài khơi.

Trong một thoáng, một mỏm đá nhô ra che khuất tầm mắt của Simon. Nhưng rồi nó cũng nhìn thấy hình nét cao cao đường bệ của du thuyền Phu Nhân Mary, buồm căng hết cỡ, đang vòng qua đuôi mũi đất tiến về phía chúng. Rồi nó cũng thấy cả dáng người mặc đồ đen cao lớn đang đứng trước mũi tàu, một tay giơ lên, chỉ chỏ.

"Nhanh lên, nào!" Simon túm lấy Barney và Jane trong khi hai đứa hãy còn đứng ngây người ra vì kinh hoàng, rồi đẩy hai đứa đi lên trước.

Chúng nhảy lên và trượt qua những tảng đá phủ đầy rêu, xa khỏi cái hang và con thuyền buồm đang rượt đuổi. Barney vừa chạy vừa nắm chặt chén Thánh trong tay, hai cánh tay dang ra để giữ thăng bằng, còn Simon thì dứt khoát ôm chặt cái hộp bên trong đựng hai bản viết cổ vào ngực. Nó ngoái nhìn qua vai lại đằng sau và thấy cánh buồm lớn màu trắng trên chiếc du thuyền đang hạ xuống boong, và một chiếc xuồng nhỏ được thả xuống mạn.

Barney trượt và ngã, suýt nữa thì kéo cả hai đứa kia cùng ngã nhào theo. Mặc dù ngã, cái chén Thánh vẫn không rời tay nó, nhưng lại đập vào một tảng đá kèm theo tiếng ngân thánh thót như chuông hệt lúc trước. Tiếng ngân át cả tiếng chân bọn trẻ lội bì bõm vội vã.

Nó cố gắng đứng dậy, bặm chặt môi vì nước biển mặn ngấm vào chỗ đầu gối bị xước xót quá, rồi cả ba lại vội chạy. Bây giờ thì chúng phải lội bì bõm qua nước suốt cả quãng đường. Sóng đã lớn hơn, và đánh tràn qua cả những tảng đá theo mỗi nhịp thủy triều dâng. Nước giấu kín những vũng và hố bằng từng mảng rong biển nâu trôi nổi dập dềnh, che lấp những tảng đá trần trụi bằng cuộn nước xoáy chẳng mấy chốc sẽ trở thành một dòng chảy đủ mạnh để cuốn phăng những đôi chân đang cuống cuồng đến tuyệt vọng kia.

Barney lại bị trượt và ngã xuống nước đánh oạch.

"Để chị cầm cho."

"Không!"

Barney loay hoay tìm chỗ đặt chân, trong khi Jane nắm cánh tay còn rỗi của nó kéo dậy, và cơn ác mộng điên cuồng vì bị rượt đuổi đẩy chúng chạy nhanh hơn, ngoằn ngoèo những bước nhảy rối loạn cụt đường qua các tảng đá đang bị sóng đánh tới tấp. Simon lại ngoái nhìn. Hai người trên chiếc xuồng nhỏ đang chèo rất nhanh rời chiếc du thuyền hướng về phía chúng. Nó nghe thấy tiếng động cơ du thuyền khởi động.

"Nhanh lên, nào!" nó thở hổn hển. "Mình vẫn còn kịp!" Chúng mau chân hơn, suýt nữa thì ngã, chỉ còn đứng vững được nhờ tốc độ của chính chúng. Vẫn chưa thấy bóng dáng bãi biển xung quanh mũi đất, mà chỉ thấy một bên là biển còn bên kia là vách đá dựng đứng như một bức tường thành. Và trước mắt chúng, đang chìm dần vào thủy triều, là con đường dài tít tắp toàn đá và rêu.

"Đứng lại!" một giọng trầm vang lên đằng sau chúng. "Quay lại! Lũ trẻ ranh ngu ngốc kia, lại đây!"

"Chúng sẽ không bắt kịp bọn mình đâu," Simon vừa thở vừa nói, tay đỡ Barney khi nó suýt ngã lần thứ ba và dựng phắt nó đứng thẳng dậy. Jane ở bên cạnh cũng đang cố lấy hơi từng bước, nhưng vẫn vừa chạy vừa vấp một cách cuống cuồng tuyệt vọng tương tự. Rồi quanh mũi đất trước mặt lũ trẻ hiện ra một thứ khiến mọi hy vọng của chúng tiêu tan chẳng khác nào đá rơi xuống lòng biển.

Đó là một chiếc xuồng khác, khá dềnh dàng, đang rẽ sóng tiến về phía chúng như một chiếc xà lan. Thằng Bill ngồi cạnh cỗ động cơ gắn bên ngoài đang nổ bình bịch ở phía đuôi, còn trước mặt nó gã Withers đang hăm hở nhao về phía trước, mái tóc đen dài của gã bay trong gió. Gã nhìn thấy ba đứa và hét lên đắc thắng, và chúng thấy một nụ cười không mấy dễ chịu nở trên khuôn mặt lầm lì của thằng Bill khi nó hướng mũi xuồng về phía những tảng đá trên đường chạy của bọn trẻ.

Ba đứa khựng lại, kinh hãi.

"Đường nào bây giờ?"

"Bọn chúng sẽ chặn đường mình!"

"Nhưng mình không thể quay lại được. Nhìn xem! Bọn kia sắp cập bờ rồi."

Thấy mớm nước đã ngấp nghé sượt quanh chân, bọn trẻ cuống cuồng nhìn trước ngó sau. Trước mặt chúng chưa đầy mười thước, chiếc xuồng có gã Withers đứng cười độc ác đang tiến tới chặn đường, còn đằng sau chúng, chiếc xuồng nhỏ kia thì đang bập bềnh ngay gần rìa đá. Chúng đã bị sập bẫy một cách gọn gàng.

"Lại đây nào!" cái giọng trầm lại vang lên gọi chúng. "Bọn mi không chạy thoát được đâu. Lại đây!"

Gã Hastings đang đứng trên chiếc thuyền nhỏ, dáng người cao lớn đen sì, một tay vung vẩy chỉ về phía chúng. Với hai chân giạng ra để giữ thăng bằng, người lắc lư theo nhịp trồi thụt của chiếc xuồng trên sóng, gã nom như thể đang cưỡi sóng biển vậy.

"Barnabas!" Tiếng gọi trầm hẳn xuống, thành một giọng đều đều thôi miên. "Barnabas, lại đây!"

Jane nắm chặt lấy tay Barney. "Đừng có lại gần!"

"Không sợ đâu." Barney sợ, nhưng không bị mê hoặc mụ mị đến nỗi nghe theo lời gã như lần trước. "Anh Simon, mình làm gì bây giờ?"

Simon nhìn trừng trừng lên vách đá, băn khoăn nghĩ ngợi trong một khoảng khắc hốt hoảng xem liệu chúng có thể leo lên đấy trốn thoát được không. Nhưng mặt đá granite dựng đứng vươn thẳng lên cao, rất cao bên trên đầu chúng, không thể nào trèo lên nổi. Chúng sẽ chẳng thể tìm được một chỗ đặt chân ở đó dù chỉ là để trèo lên cao khỏi tầm với thôi, và chúng sẽ ngã xuống từ đời nảo đời nào trước khi trèo lên tới đỉnh.

"Barnabas," cái giọng đó lại cất lên, nhẹ nhàng nhưng xảo quyệt. "Chúng ta biết cái gì ở trong tay cháu. Và cả trong tay cháu nữa, Simon ạ. Đúng rồi, Simon, đặc biệt là cháu."

Simon và Barney theo bản năng đều khép chặt bàn tay trên bản viết cổ và chén Thánh.

"Chúng không phải của các cháu." Lại giọng nói đó cất lên, nhưng nghe dữ dằn hơn. "Các cháu không có quyền gì với chúng. Chúng cần quay trở về đúng chỗ của chúng."

Gã Hastings đang chăm chú dõi theo chúng, đứng sẵn sàng trên xuồng đợi đúng lúc sóng dâng lên thì nhảy sang chỗ mấy tảng đá. Duy có mấy đám rong biển dập dềnh cứ che lấp gờ đá là còn khiến gã chần chừ. Bên bánh lái, ả Polly Withers đang gắng sức điều khiển chiếc xuồng nhỏ trong sóng biển liên tục dâng cao.

Barney đột nhiên hét to: "Ông không thể có chúng được. Chúng cũng chẳng phải của ông. Tại sao ông lại muốn chúng cơ chứ? Ông làm gì có viện bảo tàng nào, tôi không tin tất cả những gì ông đã nói."

Gã Hastings bật cười khẽ. Âm thanh vang vọng nghe thật kì quái và lạnh xương sống, át cả tiếng biển ì ầm.

"Các ông sẽ không bao giờ thắng hoàn toàn đâu," Simon nói giọng thách thức. "Không bao giờ."

"Lần này chúng ta sẽ thắng," một giọng nhẹ hơn vang lên đằng sau. Mấy đứa trẻ quay lại. Đó là gã Withers. Cỗ động cơ gắn bên ngoài đã tắt hẳn, và thằng Bill đang dùng mái chèo dò dẫm giữa những tảng đá đưa chiếc xuồng kia tiến lại gần chúng hơn.

Ba đứa đứng xích lại gần nhau, lưng quay về phía vách đá, cố hết sức lùi thật xa, nhưng từ hai phía hai chiếc xuồng ngày càng trườn lại gần chúng hơn. Phu Nhân Mary đang chạy chầm chầm dọc theo mũi đất. Chúng loáng thoáng nghe thấy tiếng động cơ chạy rền, mặc dù không thấy ai trên thuyền.

"Giá mà bọn mình có một chiếc thuyền," Jane nói trong cơn tuyệt vọng.

"Mình không bơi được hay sao?"

"Bơi đi đâu nào?"

"Mình phải làm được cái gì đó chứ!" Giọng Barney vống lên cuống quít.

"Các cháu sẽ chẳng làm được gì đâu." Cái giọng hờn hợt và nhạo báng của gã Withers vọng qua mấy tảng đá đến tai chúng. Gã đang đứng trên mũi con xuồng lắc lư, chỉ còn cách chúng chưa đầy năm thước. "Đưa bản viết cổ cho chúng ta. Đưa nó cho chúng ta và chúng ta sẽ đưa các cháu về an toàn. Thủy triều đang dâng lên nhanh lắm. Các cháu phải đưa nó cho chúng ta."

"Nếu chúng tôi không đưa thì sao?" Simon bướng bỉnh hét to.

"Nhìn biển mà xem, Simon. Bây giờ các cháu không thể quay trở lại bằng đường cũ được nữa. Nhìn thủy triều mà xem. Các cháu hết đường rồi. Các cháu không thể thoát ra được trừ phi đến chỗ chúng ta."

"Gã nói đúng đấy," Jane thì thầm. "Nhìn kìa!" Em đưa tay lên chỉ. Xa xa phía ghềnh đá nước biển đã dâng đến chân vách đá.

"Thuyền của cháu đâu, Simon?" cái giọng giễu cợt lại cất lên.

"Mình sẽ phải đầu hàng mất thôi," Simon nói, giọng hạ xuống đầy tức tối.

"Cứ từ từ Simon. Chúng tao có thể đợi. Chúng tao còn vô khối thời gian."

Chúng nghe thấy tiếng thằng Bill cười hềnh hệch ở trên xuồng.

"Bọn chúng tóm được mình rồi."

"Ôi nghĩ đi - nghĩ đi - mình không thể đầu hàng bây giờ được."

"Nghĩ tới Ông Merry ấy."

"Thật tiếc là ngay từ đầu bọn mình lại đi nghĩ tới ông," Simon chua chát nói. "Chẳng ích gì đâu, anh sẽ tuyên bố là bọn mình đầu hàng."

"Không!" Barney vội nói, và trước khi mọi người kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra thì nó đã chộp lấy cái hộp đựng bản viết cổ từ tay Simon và bì bõm lội qua những tảng đá ướt để ra sát mép nước. Một bên tay nó giơ cao cái hộp, bên kia là chén Thánh, và giận dữ nhìn gã Hastings. "Nếu ông không đưa chúng tôi lên thuyền và để chúng tôi cầm những thứ này về nhà thì tôi sẽ ném chúng xuống biển."

"Barney!" Jane kêu lên. Nhưng Simon giữ em lại, chăm chú lắng nghe.

Gã Hastings vẫn không động đậy. Gã đứng nhìn cái dáng bé nhỏ giận dữ của Barney với vẻ kiêu ngạo cực kì bình tĩnh, và khi gã lên tiếng thì cái giọng trầm của gã trở nên lạnh lẽo hơn bất kì giọng nói nào chúng đã từng nghe. "Nếu cháu làm thế, Barnabas, ta sẽ để mặc cho cháu và anh chị cháu chết đuối."

Chúng không hề nghi ngờ chút nào là gã đang nói thật. Nhưng Barney đã bị một nỗi căm phẫn vô bờ xâm chiếm, và nó kiên quyết sẽ không đời nào tin bất cứ điều gì gã Hastings nói nữa. Chỉ cần tin một lần thôi, nó biết mình sẽ lại bị bỏ bùa mê ngay.

"Tôi sẽ ném, tôi sẽ ném đấy! Nếu ông không hứa, tôi sẽ ném!" Barney giơ chén Thánh trong tay phải lên cao hơn và gập tay định ném xuống. Simon và Jane há hốc mồm.

Cả thế gian dường như ngưng lại, tập trung xung quanh gã đàn ông cao lớn bận đồ đen và chú bé nhỏ con: ý chí kẻ nọ đối chọi kẻ kia, mà Barney chỉ thoát được cái nhìn chòng chọc như thôi miên đang chĩa thẳng vào mắt nó nhờ cơn cuồng nộ trong lòng. Thế rồi mặt gã Hastings méo xệch đi, và gã hét lên một tiếng nghèn nghẹt. "Withers!"

Kể từ lúc đó, đối với bọn trẻ, cả thế gian dường như đảo lộn, và mọi chuyện xảy ra chẳng còn hiểu là nguyên do gì nữa.

Từ hai phía, Norman Withers và gã Hastings xông vào Barney. Simon hét lên "Barney, đừng!" và lao về phía em trai để giữ chặt lấy cánh tay đang giơ lên của nó. Gã Withers, ở gần hơn, nhảy một bước thật lực từ xuồng lên mỏm đá, làm cái xuồng chao đảo như điên và thằng Bill phải hoảng hồn ghì lấy bánh lái. Nhưng khi cái chân nhảy của gã hạ xuống chỗ đáng nhẽ phải là mỏm đá thì chúng thấy vẻ độc ác trên mặt gã bỗng biến thành sợ hãi, gã vung tay loạn xạ và chìm nghỉm dưới nước.

Gã đã nhảy xuống trúng cái vũng khuất giữa những tảng đá; cái hố mà biển rút đi để lại khoảng nước sâu, và bây giờ thủy triều lên càng khiến cho ngập sâu thêm. Jane co ro dựa vào vách đá, lạnh cả người kinh hoàng khi nhận ra rằng chúng cầm chắc đã lao đầu vào cái hố đó nếu chỉ chạy tiếp khoảng một thước nữa thôi.

Withers đã nổi lên mặt nước, ho sặc sụa và phun phì phì, Barney thì chần chừ, tay vẫn giơ cao chén Thánh trên đầu. Gã Hastings cũng vừa nhảy sang mỏm đá mà không bị trượt, giờ đang tiến những bước dài về phía Barney, đôi lông mày rậm thành một đường dữ tợn vắt ngang mặt và cặp môi nhếch lên trong bộ điệu nhe răng mà không cười đến là khủng khiếp. Simon tuyệt vọng nhao tới, bị đường lia của cánh tay dài gạt mạnh sang bên; nhưng trong lúc ngã xuống nó kịp nắm được cẳng chân của gã đàn ông và làm gã đổ huỵch cả người xuống mặt đá ướt trơn tuột.

Mặc dù cao lớn, gã Hastings vẫn di chuyển hệt như một con lươn. Thoáng một cái gã đã đứng dậy được, một bàn tay to tướng nắm lấy cánh tay Simon, và bằng một động vừa tác nhanh vừa hiểm độc, bẻ quặt cánh tay ấy ra sau rồi giật mạnh lên đến nỗi nó phải kêu lên vì đau đớn. Ả Withers ở trên xuồng cười nhạt. Từ đầu ả ta vẫn chưa động đậy. Jane nghe thấy tiếng cười và cảm thấy ghét cô ả làm sao, nhưng vẫn đứng chết trân trước ánh nhìn độc ác hoay hoáy như quỷ dữ trên khuôn mặt đang nhìn xuống em. Cứ như thể một thứ gì đó kì quái đang ẩn sau cặp mắt của gã Hastings, thứ gì đó không có tính người; làm tràn ngập trong em một cảm giác sợ hãi kinh khủng hơn bất cứ cảm giác gì trước nay em từng có.

"Đặt nó xuống, Barnabas," gã Hastings vừa nói vừa thở hổn hển. "Đặt bản viết cổ xuống, nếu không tao sẽ bẻ gãy tay anh mày." Simon ngọ quậy trong tay gã và đá đá ra sau, nhưng rồi phải thở hắt ra và buông người mềm nhũn khi cánh tay bị giật cao hơn và cơn đau nhói xuyên qua người như thể nước đang sôi sùng sục trong huyết quản nó vậy. Nhưng Barney, mặt méo đi vì lo sợ, chưa kịp hành động gì thì một tiếng kêu thất thanh đã vang lên từ phía chiếc du thuyền. Một giọng khàn khàn hét lên, hốt hoảng cảnh báo, "Ông chủ!"

Đúng lúc đó chúng nghe thấy một tiếng động khác, to hơn tiếng máy nổ đều đều của chiếc du thuyền đang đứng đợi: tiếng ro ro mỗi lúc một to và gần hơn. Đột nhiên ở khúc quành của mũi đất, chúng nhìn thấy những bọt nước trắng xóa tung lên trước mũi một chiếc thuyền cao tốc đang chạy từ Trewissick đến. Nó lướt nhanh khủng khiếp, vòng qua mé ngoài của chiếc du thuyền, và tiến đến chỗ chúng đang đứng. Và thoáng nhìn qua đám bọt, chúng thấy dáng một người duy nhất mà chúng biết cũng cao như gã Hastings, bên trên là mái tóc bạc phơ bù xù quen thuộc đang bay trong gió.

Jane kêu lên mừng rỡ. "Ông Gumerry đấy!"

Gã Hastings gầm gừ rồi đột ngột thả tay Simon ra, tuyệt vọng nhao về phía Barney lúc bấy giờ vẫn đang đứng phân vân bên mép nước. Barney nhìn thấy gã và kịp thời ngả người chui thụp qua dưới bàn tay gã.

Thằng Bill, đang ở trên xuồng, liền lao tới chỗ động cơ và nổ máy rồ lên; rồi nhảy xuống, bị trượt trên đá nhưng vẫn đứng vững được. To mập và đầy de dọa bên cạnh cái dáng cao lừng lững của gã Hastings, nó đối mặt với chúng, hơi thu mình lấy đà. Như các vũ công trong điệu minuet, cả hai tiến về phía trước, dò dẫm từng bước giữa các tảng đá hiểm trở để tìm chỗ đặt chân, và ba đứa trẻ lùi lại sát vách đá.

Chiếc thuyền cao tốc gầm lên giữa đám bọt tung trắng xóa. Trong giây lát nó đã đến bên mũi đất. Tiếng động cơ chuyển sang nhịp trầm rầm rập và con thuyền chậm rãi tiến vào gần hơn. Sợ hãi nhìn qua vai thằng Bill đang tiến lại gần, Jane thấy Ông Merry đứng hiên ngang, bên cạnh là dáng áo len xanh của ông Penhallow đang khom mình bên bánh lái.

Quên hết thảy vì quá mừng rỡ, em lao về phía gờ đá, làm thằng Bill giật mình đến nỗi vồ hụt và mất thăng bằng xô vào gã Hastings. Gã giận dữ gầm gừ với thằng nhóc và cố với tay lần cuối về phía Barney lúc này đang đứng ép sát vào vách đá, nhìn trừng trừng một cách bất lực, hai tay buông thõng xuống rã rời.

Nhưng Simon, cố thu hết sức lực còn lại, chộp lấy chén Thánh và cái hộp kính viễn vọng dài dài từ tay em trai, và, vuột ra khỏi tầm với, vòng tránh gã ra mãi ngoài bờ sóng.

Nó hét lên giục giã, "Ông Gumerry!" Khi ông quay người lại, nó giơ tay lên và lấy hết sức ném cái chén về phía chiếc thuyền cao tốc, rồi lo sợ theo dõi xem liệu nó có bay được qua khoảng trống hay không. Ở chỗ bánh lái, ông Penhallow cố giữ cho con thuyền khỏi tròng trành. Chiếc chén kỳ lạ hình chuông quay tít trong không trung, lóe ánh vàng dưới nắng, Ông Merry bèn thò một tay ra bên sườn như một cầu thủ bắt bóng cricket và tóm được nó đúng lúc nó đang bay vòng xuống mặt nước.

"Cẩn thận!" Barney hét. Gã Hastings xoay về phía Simon đúng lúc nó thu tay lại dợm ném bản viết cổ theo cái chén Thánh, vừa nhanh như cắt vọt sang bên thoát khỏi tầm với của gã. Nó ném: nhưng cái hộp vừa bay khỏi tay thì gã Withers người ướt sũng đứng dậy trên chiếc xuồng, bất thình lình vung mái chèo lên trong nỗ lực vụng về hòng chặn cái hộp lại.

Jane thét lên.

Mái chèo đập vào cái hộp đang bay giữa chừng. Gã Withers kêu lên một tiếng đắc thắng. Nhưng tiếng kêu nghẹn lại trong họng gã thành nỗi kinh hoàng, khi cái hộp dài kềnh càng ấy xoay tròn đập vào mái chèo theo lực ném của Simon và bung ra trong không trung. Hai nửa cái hộp văng ra cách xa con thuyền, lả tả những bản viết cổ quen thuộc mà chúng đã săm soi không biết bao nhiêu lần: chúng thấy cái ống nhỏ bằng chì lấy ở trong hang rơi ra ngoài đánh tõm một cái như một hòn đá vào lòng biển; và gần như cùng lúc hai nửa của cái hộp kính viễn vọng, cùng với mảnh giấy da rách tơi tả, rơi xuống nước và mất hút. Những mẩu vụn của mảnh giấy da không nổi, mà chìm ngay, cứ như thể chúng đã tan rữa ra. Chẳng còn lại gì nữa trừ chiếc khăn tay của Jane, đang lẻ loi trôi bồng bềnh trên mặt nước.

Và rồi mấy đứa trẻ máu như ngừng chảy, đông cứng lại trong người, khi một âm thanh hoang dại như tiếng hú c 1288 ủa một con vật vang vọng khắp mặt biển. Đó là lần hú dài thứ hai mà chúng nghe thấy trong ngày hôm đó, nhưng lần này không giống với lần trước. Gã Hastings ngửa đầu ra sau như một con chó và bật lên tiếng rống rất to vì đau đớn, sợ hãi và giận dữ. Từ chỗ rìa đá, gã nhảy hai bước dài rồi lao ùm xuống làn nước gợn sóng, nơi cái hộp vừa chìm xuống.

Bọn trẻ nhìn chằm chằm ánh nắng đang nhảy múa trên mặt nước vừa khép lại bên trên đầu gã, nhưng ngoài tiếng động cơ đều đều và tiếng biển ì ầm thì không còn âm thanh gì nữa cả. Rồi chúng chợt thấy chiếc du thuyền chuyển động và ả Withers được kéo lên boong, để lại cái xuồng bập bềnh bên dưới.

Thằng Bill cũng đứng im như bọn trẻ, há hốc mồm nhìn mặt biển lúc này đang chuyển sang màu vàng óng dưới ánh nắng cuối ngày. Rồi gã Withers quát nó, vừa loạng choạng lao đến chỗ động cơ gắn bên ngoài trên chiếc xuồng còn lại, và khi chiếc xuồng bắt đầu phóng đi thì thằng bé nhảy vội lên boong.

Bọn trẻ vẫn đứng nhìn. Không ai động đậy kể cả trên boong chiếc thuyền cao tốc, lúc nó dạt về phía bờ đá theo con nước dềnh lên. Chiếc xuồng kia chạy ra ngoài khơi, kêu vo vo như một con ong đang giận dữ, rồi bên cạnh đó chúng thấy một cái đầu đen nhô lên khỏi mặt nước, và nghe thấy tiếng thở phì phò cố lấy lại hơi. Chiếc xuồng chạy chậm lại, sau đó gã đàn ông và thằng bé kéo tấm thân đen sì cao nghêu kia lên boong. Trong tay gã không có gì cả.

Gã Hastings nằm ở cuối xuồng, ngạt thở và hổn hển cố lấy lại hơi, nhưng khi chúng nhìn theo thì gã ngẩng đầu lên, mái tóc đen ướt mèm vắt qua trán như tấm mặt nạ. Gã giơ tay ra cho Withers kéo dậy. Mặt méo đi vì giận dữ và căm thù, gã nhìn lại Ông Merry.

Ông Merry đứng trên chiếc thuyền cao tốc, một tay đặt lên kính chắn gió còn tay kia cầm chén Thánh, mặt trời đằng sau ông sáng rực trên mái tóc bạc trắng. Ông vươn người lên cao lớn và thẳng đứng oai phong đến nỗi mà trong một giây phút kỳ lạ, nom ông y như một sinh vật vĩ đại của biển và đá. Và ông nói qua mặt nước, bằng giọng sang sảng dội lại từ vách đá, những câu từ bằng ngôn ngữ gì đó mà bọn trẻ không hiểu nổi, nhưng với một âm điệu khiến cho chúng chợt thấy run rẩy.

Thân hình tối sẫm trên chiếc xuồng kia dường như chùn lại khi nghe thấy những âm thanh đó, vẻ nạt nộ và đầy quyền uy của gã ngay lập tức biến đi đâu hết. Đột nhiên trông gã thật lố bịch với bộ đồ đen ướt dính sát người, và có vẻ bé nhỏ hơn hẳn trước đây. Cả ba tên trên xuồng đều co rúm người lại, không động đậy hay nói năng gì cả, trong lúc chiếc xuồng tiến về phía chiếc du thuyền.

Bọn trẻ bây giờ mới cử động lại được. "Trời ạ!" Barney thì thầm. "Ông ấy nói gì vậy?"

"Anh không biết."

"May là mình không hiểu đấy," Jane chậm rãi nói.

Chúng nhìn theo bóng ba tên trèo lên chiếc du thuyền, và gần như ngay lập tức tiếng động cơ nổ to hơn và cái thân dài trắng lóa của Phu Nhân Mary lướt đi. Chiếc xuồng máy động cơ gắn ngoài bị kéo lê theo sau nom trơ trọi, còn chiếc kia bị bỏ lại, vẫn trôi dập dềnh trống không trên sóng.

Chiếc du thuyền hướng ra phía vịnh, qua cảng Trewissick và xuôi theo đường bờ biển, cho đến khi chỉ còn là một chấm trắng nhỏ trên mặt biển dát nắng vàng. Đến khi bọn trẻ trèo lên trên chiếc thuyền cao tốc và nhìn trở lại, thì nó đã khuất hẳn. 

Hết chương 13. Mời các bạn đón đọc chương 14!

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/35420


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận