Hầu tước thứ ba xứ Dain, Bá tước vùng Blackmoor, Tử tước vùng Launcells, Nam tước vùng Ballister và Launcells, đã mất vợ và bốn người con vì sốt phát ban.
Mặc dù hôn nhân của ngài là do người cha sắp đặt nhưng ngài vẫn dành tình cảm ở một mức độ nhất định cho vợ mình, người đã làm tròn bổn phận khi sinh cho ngài ba cậu con trai xinh xắn và một cô con gái đáng yêu. Ngài đã hết sức yêu thương các con; dù theo chuẩn mực thông thường thì tình cảm này không đáng kể gì cho lắm. Tuy nhiên, bản chất của ngài Dain là không yêu thương ai hết. Ngài đã dâng hiến cả trái tim cho điền thổ của mình, đặc biệt là cho Athcourt, khu điền trang của tổ tiên để lại ở Devon. Gia sản chính là người tình của ngài.
Mặc dù vậy, người tình của ngài khá tốn kém, mà ngài thì không phải là người giàu có gì. Vì thế, tuy đã ở tuổi bốn mươi hai nhưng ngài buộc phải đi bước nữa, và để thỏa mãn nhu cầu của người tình, ngài phải cưới một hũ tiền.
Cuối năm 1793, ngài đã gặp, theo đuổi và kết hôn với cô gái mười bảy tuổi Lucia Usignuolo, con gái của một đức ông giàu có thành Florence.
Người trong vùng sửng sốt. Dòng họ Ballister bắt nguồn từ thời Saxon. Bảy thế kỷ trước, một người trong dòng họ đã kết hôn với một công nương người Norman(1) và nhờ đó đã được vua William Đệ nhất phong làm Hầu tước. Kể từ đó, không một người nào trong dòng họ Ballister lại kết hôn với người ngoại quốc. Mọi người kết luận rằng đau thương đã khiến đầu óc của ngài Hầu tước xứ Dain lú lẫn.
Chỉ vài tháng sau đó, ngay cả đức ngài cũng u sầu nghi hoặc bản thân mình đã bị điều gì đó làm cho lú lẫn thật. Ngài nghĩ rằng mình đã cưới được một thiếu nữ xinh đẹp có mái tóc đen huyền, luôn ngước nhìn ngài đầy ngưỡng mộ, mỉm cười và đồng ý với bất cứ lời nào ngài nói. Nhưng rồi ngài phát hiện ra, người mình cưới hóa ra lại là một hỏa diệm sơn đang say ngủ. Khi nét mực còn chưa kịp ráo trên tờ hôn thú, hỏa diệm sơn ấy đã bùng nổ.
Phu nhân vốn được nuông chiều quá mức, đầy kiêu hãnh, nhiều đam mê và vô cùng nóng nảy. Nàng vung tiền không cần nghĩ, nói quá to quá nhiều và cười nhạo các yêu cầu của ngài. Tệ hơn cả, cách hành xử phóng đãng của nàng trên giường khiến ngài kinh tởm.
Ngài chỉ lên giường với phu nhân vì sợ dòng họ Ballister không có người nối dõi. Mỗi lần như thế, ngài nghiến răng thực hiện cho xong nghĩa vụ. Khi mà rốt cuộc phu nhân cũng có mang thì ngài chấm dứt ngay, và bắt đầu thiết tha cầu nguyện rằng đó sẽ là một bé trai để ngài khỏi phải làm việc đó thêm lần nào nữa.
Tháng Năm năm 1795, Thượng đế đã đáp lại những lời cầu nguyện của ngài.
Nhưng ngay lần đầu tiên nhìn thấy đứa bé, ngài đã ngờ rằng chính quỷ Satan mới là người đáp lại chúng.
Kẻ thừa tự của ngài là một thứ nhăn nheo nâu nâu vàng vàng với cặp mắt ốc nhồi, tứ chi ngắn ngủn cùng một cái mũi quá khổ vĩ đại, luôn miệng gào khóc suốt ngày đêm.
Giá như có thể chối bỏ cái thứ kia không phải là con mình thì ắt hẳn ngài đã chối rồi. Nhưng không thể được vì trên mông trái của nó là một cái bớt bé xíu màu nâu hình cánh cung mà ngài Hầu tước xứ Dain cũng mang trên cơ thể mình. Các thế hệ Ballister đều có dấu hiệu ấy.
Không thể chối bỏ con quái vật ấy là đứa con thừa tự của mình, ngài Hầu tước đành quyết định rằng nó là hệ quả tất yếu của thói dâm đãng và những hoạt động giường chiếu gượng ép. Trong những khoảnh khắc đen tối hơn, ngài tin rằng người vợ trẻ của mình là tôi tớ của quỷ Satan và thằng bé kia là giống nòi của quỷ.
Hầu tước Dain không bao giờ tới gần giường của vợ mình nữa.
Đứa bé được đặt tên Thánh là Sebastian Leslie Guy de Ath Ballister, và theo truyền thống, được nhận tước hiệu cao thứ hai của cha mình, Bá tước xứ Blackmoor. Những kẻ ác ý mỉa mai sau lưng ngài Hầu tước rằng cái tước hiệu ấy thật quá thích hợp với đứa bé thừa hưởng từ họ ngoại màu da ô liu, cặp mắt đen sẫm và mái tóc đen như lông quạ. Nó còn thừa hưởng trọn vẹn chiếc mũi của dòng họ Usignolo, vô số tổ tiên họ ngoại đã cau có nhìn xuống những kẻ tôi tớ qua chiếc mũi khoằm nổi tiếng xứ Florence ấy. Trên thân hình đồ sộ vốn có của người đàn ông trưởng thành dòng họ Usignolo thì chiếc mũi cỡ ấy trở nên vừa vặn. Nhưng trên một đứa bé nhỏ xíu thiếu cân đối một cách kỳ quặc thì chiếc mũi trở thành một thứ khoằm khoằm quái dị.
Thật không may, cậu bé còn thừa hưởng cả sự nhạy cảm sâu sắc của người nhà Usignolo. Vì thế, từ khi lên bảy, cậu bé đã đau khổ nhận ra có điều gì không ổn với mình.
Cậu bé được mẹ mua cho một vài quyển truyện tranh đẹp đẽ. Không có nhân vật nào trong đó trông giống cậu – ngoại trừ tên yêu tinh lưng gù mũi quặp, luôn đậu trên vai Tommy bé bỏng và xui em làm những điều độc ác.
Dù chưa bao giờ thấy con yêu tinh nào đậu trên vai hay thủ thỉ vào tai mình nhưng Sebastian biết ắt hẳn mình là đứa xấu xa, vì cậu luôn bị đòn roi hoặc la mắng. Cậu thích bị gia sư đánh đòn hơn. Những lời mắng nhiếc của cha làm cậu thấy vừa nóng ran vừa ẩm lạnh, còn dạ dày cậu nôn nao như nhốt đầy những con chim đang rào rào vỗ cánh chực bay ra ngoài, và rồi hai chân cậu run lẩy bẩy. Nhưng cậu không dám khóc, vì cậu không còn bé bỏng nữa và khóc lóc chỉ làm cha cậu thêm tức giận mà thôi. Lúc đó, ánh mắt của cha chiếu thẳng vào mặt cậu còn tồi tệ hơn những lời nhiếc móc.
Trong những cuốn truyện tranh, cha mẹ sẽ cười với con cái, ôm ấp và hôn hít chúng. Mẹ của Sebastian đôi khi cũng làm thế, khi nào bà vui, còn cha của cậu thì tuyệt nhiên không. Ông không bao giờ nói chuyện hay chơi đùa với cậu. Ông không bao giờ công kênh cậu trên vai, hay cho cậu ngồi trước ông trên yên ngựa. Sebastian cưỡi chú ngựa con của mình, và người dạy cậu là Phelps, một trong mấy người giữ ngựa.
Sebastian biết cậu không thể hỏi mẹ xem có chuyện gì không ổn với mình và làm thế nào để sửa chữa. Cậu đã học được rằng không nên nói nhiều về chuyện gì cả – cậu chỉ nói cậu yêu mẹ, và bà là người mẹ đẹp nhất trên thế giới – vì hầu như tất cả những điều khác nói ra đều làm cho bà nổi đóa.
Một lần nọ, khi mẹ cậu chuẩn bị đến Dartmouth, bà hỏi cậu có muốn bà đem về cho thứ gì không. Cậu xin một đứa em trai để chơi cùng. Mẹ cậu bật khóc, rồi đâm ra giận dữ và rít lên những câu tiếng Ý tục tĩu. Mặc dù không hiểu hết nghĩa của những lời ấy nhưng Sebastian biết chúng rất xấu, vì khi cha cậu nghe được ông bèn mắng nhiếc bà.
Rồi họ cãi vã. Và điều này còn tồi tệ hơn tiếng khóc của mẹ hay cái nhìn giận dữ nhất của cha.
Sebastian không muốn gây ra bất cứ cuộc cãi vã khủng khiếp nào. Cậu càng không muốn khiến mẹ phải thốt ra những lời xấu xa như thế, vì Chúa có thể sẽ nổi giận, rồi bà sẽ chết và bị đày xuống địa ngục. Lúc đó thì sẽ chẳng còn ai vuốt ve và ôm hôn cậu nữa, không bao giờ nữa.
Bởi vậy, ngoài Đức chúa Cha thiêng liêng, không còn ai để Sebastian có thể hỏi xem có điều gì không ổn và phải làm gì. Nhưng Đức chúa Cha không bao giờ trả lời cậu.
Rồi một ngày kia, khi Sebastian lên tám, mẹ cậu ra đi cùng cô hầu gái và không trở về.
Cha cậu trước đó đã tới thành Luân Đôn, và đám người hầu bảo Sebastian rằng mẹ cậu cũng quyết định đến đó.
Nhưng cha cậu về rất sớm, và mẹ cậu không đi cùng ông.
Sebastian được gọi vào phòng làm việc u ám. Cha cậu, với vẻ mặt cay nghiệt, ngồi tại cái bàn giấy lớn, với cuốn Kinh Thánh mở ra trước mặt. Ông bảo Sebastian ngồi xuống. Cậu run rẩy vâng lời. Cậu làm được có thế thôi. Cậu không mở miệng ra được. Những cánh chim lại đang đập rào rào trong dạ dày cậu, và tất cả những gì cậu có thể làm là ngồi xuống để không nôn thốc ra.
“Mày không được hỏi han người hầu về mẹ mày nữa,” ông nói. “Mày không được nói về mụ ta nữa. Mụ ta là quỷ dữ, là sinh vật độc ác. Tên của mụ là Jezebel(1), và ‘Lũ chó sẽ ăn thịt Jezebel bên bức tường của thành Jezreel.’ ”
Trong đầu Sebastian vang lên một giọng gào thét thật lớn. Lớn đến nỗi cậu không nghe được những gì cha nói. Nhưng dường như cha cậu không nghe được tiếng thét ấy. Ông đang nhìn xuống cuốn Kinh Thánh.
“ ‘Vì đôi môi người đàn bà lạ mặt nhỏ ra mật ngọt, và khuôn miệng mụ ta trơn láng hơn dầu,’ ” ông đọc. “ ‘Nhưng cuối cùng nó vẫn đắng như khổ ngải, bén như gươm hai lưỡi. Đôi chân nó đi vào cõi chết; nó thẳng đường bước tới âm ty.’ ”(2) Ông nhìn lên. “Ta từ bỏ mụ, và vui sướng khi sự thối rữa đã rời bỏ ngôi nhà của tổ tiên ta. Chúng ta sẽ không bao giờ nói về chuyện đó nữa.”
Ông đứng dậy kéo dây chuông, và một người hầu đến dẫn Sebastian đi. Ngay cả khi cánh cửa phòng làm việc đã đóng lại, ngay cả khi người hầu và Sebatian đang lao xuống cầu thang, tiếng thét trong đầu Sebastian vẫn không ngừng lại. Cậu thử bịt chặt hai tai nhưng không ích gì, và cuối cùng, tất cả những gì cậu có thể làm là mở miệng ra để giải phóng một tiếng tru dài kinh khiếp.
Khi người hầu cố làm Sebastian im miệng, cậu đã cắn và đá anh ta rồi bỏ chạy. Một tràng những từ ngữ xấu xa vuột khỏi miệng cậu. Cậu không thể chặn chúng lại. Có một con quái vật đang vùng dậy bên trong cậu và cậu không thể dừng được. Con quái vật ấy giật lấy bình hoa trên bàn ném vào gương. Rồi nó lại vồ lấy cái tượng thạch cao đập xuống sàn vỡ vụn. Nó lao xuống đại sảnh, gào thét, đập phá bất cứ đồ vật nào trong tầm tay.
Tất cả người hầu trong nhà chạy bổ đến nơi có tiếng động nhưng họ co rúm người lại, không dám động vào cậu bé, ai nấy đều đoan chắc cậu đang bị quỷ ám. Bọn họ đứng đó, cứng đờ vì sợ hãi, mắt dõi theo công tử của ngài Hầu tước xứ Dain đang tàn phá đại sảnh. Từ tầng trên, không một âm thanh, không một lời quở trách nào vọng xuống. Cửa phòng Hầu tước vẫn đóng im ỉm – như thể để chống lại cơn thịnh nộ của quỷ dữ dưới nhà.
Cuối cùng, bác đầu bếp to béo ì ạch chạy từ nhà bếp vào đại sảnh, bế cậu bé đang tru tréo lên và ôm cậu vào lòng, hoàn toàn không để ý đến những cú đấm đá của cậu. “Nào nào, bé con,” bà thì thầm.
Chẳng sợ quỷ sứ lẫn ngài Hầu tước, bà đem Sebastian xuống bếp, đuổi hết đám phụ việc ra ngoài, ngồi xuống chiếc ghế vĩ đại trước bếp lửa, đung đưa cậu bé đang khóc lóc cho đến khi cậu kiệt sức không thể khóc thêm được nữa.
Như mọi người khác trong nhà, bà bếp biết rằng phu phân Dain đã bỏ trốn với con trai của một lái thương giàu có. Phu nhân không đến Luân Đôn mà là đến Dartmouth rồi lên thuyền cùng tình nhân tới Tây Ấn Độ.
Những lời kể đầy kích động pha lẫn tiếng nức nở của đứa bé về chuyện lũ chó ăn thịt mẹ nó làm bà bếp chỉ muốn cầm một con dao thái thịt đến nói chuyện với ông chủ. Tiểu Bá tước xứ Blackmoor có thể là đứa bé xấu xí nhất người ta từng thấy ở khắp Devon này – có khi xấu nhất vùng Cornwall và Dorset cũng nên. Thằng bé còn rất u sầu, nóng tính, nói chung là không đáng yêu. Nhưng dù sao đi nữa nó chỉ là đứa trẻ, một đứa trẻ xứng đáng được đối xử tốt hơn những gì số phận đã định ra cho nó, bà bếp nghĩ thế.
Bà nói với Sebastian rằng cha mẹ cậu không hợp nhau và mẹ cậu đã bỏ trốn vì quá u buồn. Thật không may, đối với một phụ nữ đã trưởng thành, việc bỏ trốn là một lỗi lầm cực kỳ tệ hại chứ không như đối với một cậu bé con, bà bếp giải thích. Lỗi lầm đó tệ hại đến nỗi sẽ không bao giờ sửa chữa được, và phu nhân Dain sẽ không bao giờ quay về nữa.
“Thế mẹ có xuống địa ngục không?” Sebastian hỏi. “Bố bảo… bảo…” giọng cậu run run.
“Chúa sẽ tha thứ cho bà ấy,” bà bếp quả quyết. “Ngài rất công bằng và nhân ái, Ngài sẽ tha thứ cho bà ấy.”
Rồi bà bếp đưa cậu bé lên lầu trên, đuổi cô bảo mẫu lạnh lùng đi chỗ khác và đặt cậu vào giường ngủ.
Khi bà bếp đã ra ngoài, Sebastian ngồi dậy, lôi từ chân giường ra một bức ảnh nhỏ của Đức Mẹ đồng trinh và Chúa Hài đồng mà mẹ đã cho cậu. Ôm chặt bức ảnh vào ngực, cậu bắt đầu cầu nguyện.
Cậu đã được dạy tất cả những bài kinh chính thống trong đức tin của cha mình, nhưng tối nay, cậu rì rầm những lời mà có lần cậu nghe thấy mẹ mình cầu nguyện với chuỗi tràng hạt trên tay. Cậu đã nghe những câu kinh ấy nhiều đến mức thuộc nằm lòng, dù vốn từ La tinh của cậu chưa đủ để có thể hiểu hết các chữ. “Ave Maria, gratia plena, Dominus tecum, benedicta tu in mulieribus,”(1) cậu cất tiếng.
Cậu không biết rằng cha mình đang đứng ngoài cửa phòng lắng nghe.
Cậu không biết rằng với ngài Hầu tước, những lời kinh cầu của giáo hội La Mã là giọt nước cuối cùng làm tràn ly.
Hai tuần sau, Sebastian bị tống lên xe ngựa để đưa đến Eton.
Sau một cuộc phỏng vấn ngắn ngủi với ông hiệu trưởng, cậu bị bỏ lại giữa khu ký túc xá bao la và những lời chào mừng thân ái của bạn cùng lớp.
Đứng gần Sebastian nhất là Công tử Wardell, lớn tuổi nhất đám và cũng to con nhất đám. Cậu ta nhìn chằm chặp vào Sebastian hồi lâu rồi phá lên cười. Những đứa còn lại cũng đồng loạt cười theo. Sebastian đứng chết lặng mà lắng nghe những tràng cười như thể hàng ngàn con linh cẩu đang tru.
“Hèn chi mẹ nó bỏ nhà mà đi,” Wardell nói với lũ bạn trong lúc ngưng cười để lấy hơi. “Thế mẹ mày có khóc thét lên khi mới sinh ra mày không, hả thằng mọi đen?” nó hỏi Sebastian.
“Là Blackmoor”(2), Sebastian nói, hai bàn tay siết chặt thành nắm đấm.
“Tao kêu mày tên gì thì mày tên đó, đồ sâu bọ,” Wardell cảnh cáo. “Mà tao nói cho mà biết, mẹ mày bỏ trốn đi cũng vì không chịu nổi cứ phải nhìn thấy mặt mày thêm một phút nào nữa. Vì mày trông y như một con sâu thối tai bé tẹo dơ dáy bẩn thỉu.” Chắp tay sau lưng, Wardell chầm chậm đi quanh cậu bé Sebastian đang hoang mang. “Mày có ý kiến gì không, thằng mọi đen?”
Sebastian trừng mắt nhìn những gương mặt đang cười nhạo mình. Phelps, người giữ ngựa, đã nói rằng tới trường thì cậu sẽ có bạn bè. Trong suốt chuyến đi dài dặc và cô đơn đến Eton, Sebastian đã bám víu vào cái hy vọng ấy vì cậu chưa từng có ai để chơi cùng.
Nhưng giờ đây cậu chẳng thấy bạn bè nào, chỉ toàn những bản mặt đầy chế giễu – và cao lớn hơn cậu. Tất cả những thằng con trai trong Đại Sảnh rộng lớn này đều lớn tuổi hơn và to con hơn cậu.
“Ê sâu thối tai, tao hỏi mày đó,” Wardell lên tiếng. “Khi người lớn hỏi thì tốt nhất là mày nên trả lời đi nha.”
Sebastian trợn mắt nhìn thẳng vào đôi mắt xanh dương của kẻ đang làm khó mình. “Stronzo,”(1) cậu nói.
Wardell bạt nhẹ vào đầu Sebastian. “Đừng có lảm nhảm mấy cái thứ tiếng mì ống tào lao vớ vẩn đó, thằng mọi đen.”
“Stronzo,” Sebastian bướng bỉnh lặp lại. “Thằng phân thối hèn hạ.”
Wardell nhướn cặp chân mày nhợt nhạt nhìn lên đám bạn xung quanh rồi hỏi, “Tụi mày nghe chưa? Thằng này chẳng những xấu xí như quỷ Beelzebub(1), mồm miệng nó còn thối tha dơ bẩn nữa chứ. Làm gì bây giờ tụi mày?”
“Quẳng nó đi,” một đứa nói.
“Tẩn nó,” đứa khác lên tiếng.
“Nó thích phân hả. Cho nó thành phân luôn!” đứa nữa hùa vào.
Ý kiến đó được cả đám nhiệt liệt hưởng ứng.
Chẳng mấy chốc cả bọn đã nhào lên người cậu.
Vài lần, trong khi bị hành hạ đến tả tơi, bọn chúng cho Sebastian một cơ hội để được tha. Chỉ cần Sebastian liếm giày cho Wardell và năn nỉ nó bỏ qua thì sẽ được thả ngay.
Nhưng con quái vật đã chiếm lĩnh đầu óc Sebastian, và cậu đã hiên ngang đáp trả bằng một tràng những từ xấu xa độc địa nhất mà cậu từng nghe thấy, bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Ý.
Tinh thần bất khuất chẳng giúp được gì nhiều trong giờ phút này. Cái hữu ích lại là những quy tắc về hình thể. Sebastian nhỏ thó nhưng thân hình lại phát triển bất cân xứng đến kỳ dị. Chẳng hạn như đôi vai xương xẩu của cậu quá rộng nhét không vừa cái bồn cầu. Tất cả những gì Wardell có thể làm được là nhét đầu Sebastian vào lỗ bồn cầu và giữ rịt ở đó đến chừng nào cậu nôn thốc nôn tháo mới thôi.
Wardell và lũ bạn tức tối vì vụ đó vẫn không dạy được thằng sâu thối tai biết lễ độ hơn. Mặc dù từ đó về sau, bọn chúng đã dành phần lớn thời gian rảnh để dạy dỗ Sebastian nhưng cậu không hề tiếp thu. Bọn chúng cười nhạo ngoại hình và dòng giống lai căng của cậu, chế ra những bài hát tục tĩu về mẹ cậu. Chúng treo ngược chân cậu lên cửa sổ, quẳng cậu qua lại trong chăn và giấu chuột chết vào giường cậu. Vẫn có những giây phút riêng tư hiếm hoi quý giá ở Eton, và những lúc đó, Sebastian âm thầm khóc trong đau khổ, phẫn uất và cô độc. Trước mặt mọi người, cậu văng tục và đánh đấm, cho dù người thua cuộc luôn là cậu.
Sống giữa sự hành hạ liên miên ngoài giờ học lẫn những đòn roi thường ngày trong lớp, thiên hướng đối với tình yêu thương, sự dịu dàng và lòng tin của Sebastian bị xé bỏ chỉ sau chưa đến một năm học ở Eton. Phương pháp sư phạm của trường Eton có thể đã làm cho các cậu bé giỏi giang hơn, nhưng với Sebastian, môi trường ấy chỉ đánh thức những tính cách đen tối nhất của cậu mà thôi.
Năm mười tuổi, thầy hiệu trưởng thông báo riêng với Sebastian rằng mẹ cậu đã mất vì một trận sốt ở Tây Ấn. Sebastian đón nhận với một sự im lặng sắt đá, rồi đi ra ngoài gây chiến với Wardell.
Wardell lớn hơn cậu hai tuổi, to xác gấp đôi và nặng gấp đôi cậu, lại rất nhanh nhẹn. Nhưng lần này, con quái vật trong Sebastian lạnh như băng, chất chứa đầy nỗi cay đắng căm hận; cậu chiến đấu một cách lạnh lùng, im lặng và tàn nhẫn cho đến khi kẻ thù của mình gục ngã với cái mũi be bét máu.
Rồi Sebastian, khắp người cũng bầm dập và chảy máu, quét tia nhìn khinh miệt lên đám đông đang vây quanh.
“Còn đứa nào nữa?” cậu hỏi, dù nói không ra hơi.
Không đứa nào ho he. Sebastian quay lưng bỏ đi, bọn chúng dạt ra nhường đường.
Khi cậu băng qua một nửa sân trường, giọng của Wardell vang lên phá tan bầu không khí im ắng kỳ lạ.
“Mày khá lắm, Blackmoor!” Wardell hét to.
Sebastian dừng bước và nhìn lại đằng sau. “Quỷ tha ma bắt mày đi!” cậu hét lại.
Rồi cái mũ của Wardell bay lên không trung cùng một tiếng chúc tụng. Ngay sau đó, hàng loạt những cái mũ khác cũng được tung lên, và cả đám đang thi nhau hò reo.
“Bọn khốn ngu xuẩn,” Sebastian lẩm bẩm. Cậu giở chiếc mũ tưởng tượng trên đầu – mũ thật của cậu đã bị giẫm đạp nát bươm – và làm động tác cúi chào đáp lễ một cách khôi hài.
Ngay sau đó, đám con trai cười hả hê, vây lấy cậu, rồi cậu được công kênh trên vai Wardell, và cậu càng lớn tiếng rủa xả thì bọn ngu đó càng thích tợn.
Cậu nhanh chóng trở thành bạn thân của Wardell. Và, tất nhiên, chẳng còn hy vọng nào cho cậu nữa.
Trong số những ông trời con lớn lên dưới sự đánh đập và hà hiếp ở Eton thời đó, băng nhóm của Wardell là bọn tồi tệ nhất. Ngoài những trò nghịch ngợm phá phách thông thường của học trò trường Eton đối với những người dân địa phương khốn khổ, nhóm Wardell còn cờ bạc, hút xách và rượu chè đến phát bệnh trước cả khi đến tuổi dậy thì. Ngay khi dậy thì, bọn chúng bắt đầu chơi gái.
Sebastian bắt đầu bước vào những bí ẩn của thế giới tình dục hôm sinh nhật thứ mười ba của mình. Wardell và Mallory – thằng đã nghĩ ra trò nhúng đầu Sebastian vào hố xí – chuốc rượu gin cho Sebastian say khướt, bịt mắt cậu lại, kéo đi loằng ngoằng cả hơn một giờ đồng hồ, và cuối cùng lôi cậu lên nhiều bậc thang, vào một căn phòng bốc mùi ẩm mốc. Chúng bỏ đi, khoá trái cửa lại sau khi đã lột truồng cậu và tháo khăn bịt mắt.
Trong phòng có một chiếc đèn dầu đang bốc khói hôi hám, một chiếc nệm rơm cáu bẩn, và một cô gái múp míp với những lọn tóc xoăn ánh vàng, hai má đỏ lự, cặp mắt to xanh biếc và chiếc mũi bé xíu như hột nút. Cô gái nhìn chòng chọc vào Sebastian như thể cậu là một con chuột cống chết.
“Không làm đâu,” cô ả nói. Miệng ả cong lên ương ngạnh. “Một trăm bảng cũng không làm.”
Sebastian nhận ra trong mình còn sót lại chút cảm xúc. Nếu không thì làm sao cô ả có thể làm tổn thương cậu như thế được. Cổ họng cậu bỏng rát, cậu muốn khóc và cậu căm ghét cô ả vì đã khiến cậu muốn khóc. Ả chỉ là một con lợn nái bé nhỏ ngu xuẩn tầm thường, giá như ả là con trai thì cậu hẳn đã tẩn cho tơi bời rồi.
Nhưng giờ đây, che giấu cảm xúc đã trở thành phản xạ tự nhiên của cậu.
“Thế thì tệ quá,” cậu thản nhiên nói. “Hôm nay là sinh nhật tôi, và tâm trạng tôi đang rất tốt, đến mức tôi đang định trả cô mười silinh.”
Sebastian biết tỏng Wardell đời nào chịu trả hơn sáu silinh cho một ả điếm.
Cô ả hờn dỗi nhìn Sebastian và đưa mắt thẳng xuống cái bộ phận giống đực của cậu. Và dính chặt vào đấy. Chừng đó thôi đã đủ thu hút sự chú ý của cái ấy. Ngay lập tức, nó bắt đầu ngỏng lên.
Cặp môi nũng nịu của cô ả mấp máy.
“Tôi đã bảo rồi, hôm nay tôi đang hứng,” Sebastian lên tiếng trước khi ả kịp cười nhạo cậu. “Mười sáu silinh nhé. Không hơn. Nếu cô không thích cái tôi có thì tôi có thể xài nó ở chỗ khác lúc nào chả được.”
“Tôi hy vọng mình được nhắm mắt,” ả nói.
Sebastian cười khẩy. “Nhắm hay mở tùy cô, với tôi như nhau cả thôi – nhưng tôi hy vọng là sẽ đáng đồng tiền bát gạo mình bỏ ra.”
Cuối cùng cậu cũng đạt được cái mình muốn, và cô ả không những không nhắm mắt mà còn làm với thái độ nhiệt tình mà bất cứ gã nào cũng phải thèm khát.
Sau này nghĩ lại, Sebastian thấy đó thực sự là bài học để đời, và cậu đã sớm nắm bắt được bài học này, cũng như tất cả những bài học khác.
Từ đó về sau, cậu quyết định phải tuân thủ phương châm của Horace(1): “Hãy kiếm tiền, kiếm một cách chân chính nếu có thể, còn không, hãy kiếm bằng mọi cách.”
Từ lúc bước chân vào Eton, sự liên lạc duy nhất mà Sebastian nhận được từ gia đình là những lá thư vỏn vẹn một câu, kèm theo tiền gửi hàng quý. Thư ký của cha cậu là người viết thư.
Khi sắp kết thúc thời gian học ở Eton, Sebastian nhận được một bức thư dài hai đoạn nói qua loa những việc cần làm để cậu theo học tại Cambridge.
Sebastian biết Cambridge là một trường đại học danh tiếng, nhiều người còn cho rằng nó có triển vọng phát triển hơn nhiều so với trường dòng Oxford.
Sebastian cũng hiểu rằng cha mình không chọn Cambridge vì lý do trên. Dòng họ Ballister đã theo học Eton và Oxford ngay từ những ngày đầu hai học viện này được thành lập. Việc gửi con trai đến một học viện khác là hành động cụ thể nhất cho thấy Hầu tước Dain muốn từ bỏ Sebastian. Điều đó tuyên bố cho cả thế giới biết rằng Sebastian là một vết nhơ của 14ad dòng tộc.
Mà quả thật, cậu đúng là một vết nhơ.
Không chỉ cư xử như một quái vật dù trước mặt các thầy cô, cậu chưa bao giờ tệ đến mức để bị đuổi học cả – mà xét về hình thể cậu cũng xứng đáng là một quái vật: cao hơn một mét tám, đen từ đầu đến chân và cộc cằn hung hãn.
Cậu dành phần lớn thời gian ở Eton để đảm bảo thiên hạ sẽ nhớ đến mình như một quái vật. Cậu tự hào khi nghe những con người đứng đắn đoan trang gọi mình là Tai ương và Thảm họa của dòng họ Ballister.
Đến tận lúc này, Hầu tước Dain vẫn không mảy may bộc lộ dấu hiệu nào cho thấy ông quan tâm đếm xỉa gì đến những việc làm của đứa con trai.
Nhưng cái bức thư cộc lốc ấy lại chứng tỏ điều ngược lại. Ngài muốn trừng phạt và lăng mạ con trai mình bằng cách đày nó đến một ngôi trường mà chưa một người nào của dòng họ Ballister từng đặt chân đến.
Sự trừng phạt ấy đến quá muộn. Sebastian đã học được nhiều cách thức hữu hiệu để đối phó với mọi nỗ lực nhằm quản lý, trừng phạt hay lăng nhục mình. Cậu hiểu ra rằng trong nhiều trường hợp, tiền bạc có tác dụng vượt xa sức mạnh cơ bắp.
Thấm nhuần tư tưởng của Horace, Sebastian đã học được cách nhân đôi, nhân ba và nhân bốn số tiền trợ cấp của mình bằng những trò may rủi và cá cược. Một nửa số tiền thắng cược được cậu đổ vào gái gú, nhiều thói hư tật xấu khác và các lớp học tiếng Ý tư – cậu không muốn ai biết mình vẫn còn rất nhiều tình cảm với mẹ.
Cậu dự định dùng nửa số tiền thắng cược còn lại để mua một con ngựa đua.
Cậu viết thư trả lời, ngỏ ý rằng phụ huynh của mình hãy dùng khoản tiền đó để tài trợ cho người nào khác cần đến học ở Cambridge, bởi vì Bá tước xứ Blackmoor sẽ học ở Oxford và tự trang trải chi phí.
Rồi cậu dốc hết chỗ tiền tiết kiệm để mua ngựa vào một trận đấu vật.
Số tiền thắng cược – cộng với sức ảnh hưởng từ ông chú của Wardell – đã đưa Sebastian vào Oxford.
Lần tiếp theo Sebastian nhận tin tức từ nhà là lúc cậu hai mươi bốn tuổi. Bức điện dài một khổ thông báo cha cậu đã mất.
Ngoài tước hiệu, ngài tân Hầu tước xứ Dain còn được thừa hưởng rất nhiều đất đai, một số dinh thự nguy nga – bao gồm Athcourt, cơ đồ tráng lệ của tổ tiên nằm ven Dartmoor – và toàn bộ các khoảng nợ nần, thế chấp liên quan đến khối tài sản ấy.
Tất cả tài sản mà cha cậu để lại đều ở trong tình trạng hết sức tồi tệ, và Sebastian hoàn toàn hiểu tại sao. Vì bất lực trong việc kiểm soát con mình, ông bố quá cố yêu quý đã quyết định hủy hoại cậu.
Nhưng nếu lão già xấu xa sùng đạo ấy đang mỉm cười nơi chín suối, mong chờ ngày ngài Hầu tước thứ tư của xứ Dain bị dẫn độ đến trại giam gần nhất dành cho các con nợ, chắc lão sẽ phát điên vì phải chờ quá lâu.
Giờ đây, Sebastian đã khám phá ra thế giới thương mại và dành toàn bộ trí óc lẫn sự liều lĩnh để thống lĩnh thế giới ấy. Mỗi cắc bạc trong tổng thu nhập khổng lồ hiện nay của cậu đều do cậu tự kiếm được hoặc thắng được. Trong quá trình đó, cậu đã từng biến ít nhất là hai cơ sở kinh doanh đang trên bờ vực phá sản thành một mối đầu tư có lãi. Giải quyết cái mớ hỗn độn tầm thường kia của ông bố chỉ là trò trẻ con với cậu.
Cậu bán tất cả những gì không được thừa kế, trang trải hết các món nợ, tái cơ cấu hệ thống tài chính lạc hậu, sa thải tay thư ký lẫn người quản gia và viên luật sư của gia đình, thuê những người có đầu óc vào làm việc và nói rõ những gì cậu kỳ vọng ở họ. Rồi cậu cưỡi ngựa qua những cánh đồng hoang mà cậu đã không được nhìn thấy từ khi còn bé, sau đó khởi hành đến Paris.