Vườn Tình Chương 6


Chương 6
Em không ở nhà.

Em không ở nhà, em không lả người ngày đêm bên điện thoại để chờ tôi. Tôi không hy vọng thế. Tôi không để lại lời nhắn vào máy tự động trả lời. Tôi quyết định đến chờ em tại cổng trường cấp hai. Tôi đến đó trước 15 giờ một chút. Khoảng chừng thế. Tôi không hề biết gì về thời gian biểu của em. Nói thật, thậm chí tôi không chắc là em còn dạy trường này. Tôi không thể nhớ lần cuối cùng tôi gặp em. Nếu em đã rời thành phố thì ai là người báo cho tôi? Nếu em đã từ bỏ cõi đời này thì sao? Tôi ngồi trong xe chờ. Cổng trường trong tầm ngắm. Tan học lúc 15 giờ 30. Rồi 16 giờ 30. Cứ mỗi lần như thế tôi chăm chăm nhìn vào đám đông, sợ bỏ qua em. Và sợ thấy em xuất hiện. Vì thế, tôi phải bấu víu vào cái cớ của mình. Tôi có lý do chính đáng để có mặt tại đây: xin chỉ dẫn một điều, xin trả lời một câu hỏi rất cụ thể - "Tại sao lại để tiêu đề này?" - Nếu cần, tôi vẫn luôn có thể viện cớ mình đến xin chuyên gia tư vấn. Điều này có thể làm cho em cười cũng nên.

Nhưng em không có mặt trong đám đông. Tôi thấy học sinh ùa ra rồi, khi đã qua cổng, chúng tản ra mỗi người một hướng. Những cụm học sinh, con trai và con gái, đi bộ và đi xe đạp; một số đứa chờ xe buýt xa hơn một tí, những đứa khác chui vào xe ôtô của bố mẹ đang đậu thành hai hàng. Nhìn chúng, tôi cảm thấy xót xa vô cùng. Tôi kìm nén được một lúc, rồi tất cả bỗng nhiên vỡ òa. Tôi không thể không nghĩ đến chúng. Tôi biết quá ít về việc ấy: công việc đưa con tới trường vào buổi sáng và đón con vào buổi chiều. Niềm vui chung không nói thành lời ấy. Tôi tự nhủ là phần lớn những ông bố bà mẹ không biết trân trọng sự may mắn của họ. Bình thường thôi. Tôi như thấy hình ảnh hai thiên thần của tôi trong số những đứa học sinh cấp hai này. Cùng tuổi, cùng nét mặt, cùng bộ dạng lố lăng. Tôi nhầm. Khốn nỗi, tôi nhẩm tính và kết quả đã làm tôi đau đớn cùng cực: thằng lớn năm đó nhẽ ra đã hai mươi tư tuổi, còn thằng bé hai mươi hai.

Mẹ kiếp! Con tôi giờ nhẽ ra đã thành người lớn, còn tôi đúng là không thể tưởng tượng nổi gương mặt chúng như thế nào!

"Đến đi, Maria", tôi nghĩ bụng. "Đến đi, anh xin em. Bây giờ là lúc anh cần em nhất. Em là chỗ dựa cuối cùng còn sống của anh".

17 giờ 30, đám học sinh cuối cùng từ trong trường ào ra. Sàng lọc cẩn thận nhưng vô ích. Không thấy Marie. Cổng trường đã đóng lại. Đêm xuống. Tôi nán lại một lúc trước cổng trường hoang vắng. Thật là tốt cho bộ dạng của tôi. Trở về thực tại với những hoạt động tầm thường của nó. Tôi còn phải học lại rất nhiều.

Tôi bật công tắc rồi quay xe ở đầu ngõ cụt. Khi tôi đi qua cổng trường, bóng một người phụ nữ đang đi qua. Về muộn. Dưới ánh đèn đường, tôi thấy người phụ nữ đó xuất hiện gần như cô đơn, giống như tôi. Tôi thắng gấp. Tiếng két của phanh xe đã làm chị giật mình. Chị quay lại và mắt chúng tôi gặp nhau. Đúng lúc đó tôi mới thực sự nhận ra sự vắng bóng của tôi mênh mông đến thế nào. Tôi đã ở tận hoang đảo xa xôi lâu đến mức nào. Tôi đã không thấy gì lướt qua trước mắt mình. Quả bom nổ chậm đó đã lặng lẽ nổ ngay ở bụng tôi và lực của nó tiếp tục lan tỏa khắp lục phủ ngũ tạng trong khi mà hai chúng tôi ở đó, bất động, chăm chăm nhìn nhau qua kính chắn gió. Sự kinh ngạc của em hẳn thuộc loại khác.

Thật lạ là khi tôi nghĩ đến Marie, những hình ảnh thoáng qua đầu tôi là những hình ảnh khi em mười tám tuổi. Những chân dung khác, những điệu bộ khác. Người phụ nữ trẻ đang chơi đàn viôlôngxen: Em đang ngồi trước ngựa đàn, nhạc cụ đặt giữa hai chân, một tay cầm vĩ, tay kia cầm đàn, mắt hé mở, vẻ rất tập trung, rất chuyên tâm và say đắm. Hoặc thiếu nữ trên bãi biển: Ngồi trên tảng đá, mặc một chiếc váy in những bông hoa lớn mà em không chịu thay, váy bó chặt quanh hai đầu gối, gió thổi tung những lọn tóc dài, một nụ cười sầu muộn thoảng trên môi khi thấy chúng tôi từ dưới biển đi lên, người đầm đìa nước và lưng tưng như những con chó con... Những thứ đại loại như thế. Câu chuyện của chúng tôi bắt đầu như thế. Tôi chỉ còn nhớ những khoảnh khắc đó. Mặc dầu vậy, tôi thường ôn lại chuyện của chúng tôi những năm sau đó. Em vẫn ở rất gần chúng tôi. Thành viên thứ năm trong gia đình. Bánh xe thứ năm của chiếc xe ngựa bốn bánh.

Chính Marie là người đã cho tôi biết tin. Vào thời đó, Marie là người duy nhất còn có thể kéo tôi ra khỏi hang. Một buổi sáng tháng Mười, vào lúc năm giờ ba mươi phút, trời vẫn nhá nhem tối. Khi trên tay tôi vẫn còn đôi tám chết tiệt thì người ta chuyển cuộc gọi của em cho tôi. Tôi không nhận ra giọng của em bên kia đầu dây: "Alex... Có một tai nạn..."

Kể từ lúc đó, không có gì và cũng không ai còn có uy lực với tôi nữa. Ngoài Édouard Dayms ra.

 

Những tháng đầu tiên, Étienne, như nhiều đứa bé khác, thỉnh thoảng khóc ré lên vào ban đêm vì không ngủ được. Tôi dậy. Tôi lại giường gỗ bồng nó lên. Rồi tôi nằm ngửa xuống nền gạch, cho nó nằm trên ngực tôi. Nó nằm lọt thỏm trên ngực tôi. Người nó nhẹ tênh. Tôi thì thầm trong bóng đêm một lời ru tự sáng tác, mỗi lần ru mỗi khác, ru nó và ru cả tôi. Ngôn từ không có nghĩa gì cả, chỉ có giai điệu êm dịu, chầm chậm và bay bổng là quan trọng thôi.

Cuối cùng nó cũng bình tĩnh lại. Nó không còn khóc và cũng không còn giãy giụa nữa, rồi sau đó, tôi cảm thấy hơi thở ngắn và đều đều của nó trong giấc ngủ. Phía trên của bờ trán đầy lông tơ của nó kê dưới cằm tôi. Nếu như trước khi thiu ngủ, tay nó theo phản xạ bấu lấy cổ tôi thì tôi xem đó là một phần thưởng vô giá.

Nó không nằm trên người tôi, nó nằm trong lòng tôi. Tôi biết không kẻ nào có thể cướp con của tôi.

Nó ngủ đã lâu mà tôi vẫn còn lầm rầm hát ru. Thậm chí nhiều khi tôi thấy ánh sáng ban ngày xuyên qua cửa sổ phòng nó; và trong ánh sáng lờ mờ đầu tiên này hiện ra cành nhánh của cái động tử treo trên trần, dường như nó đang từ từ hồi sinh.

Những đêm đẹp nhất kết thúc như thế.

 Thời đó qua quá nhanh và tất nhiên nó sẽ không bao giờ trở lại. Đúng là thỉnh thoảng tôi thấy tiếc là Mattéo, thằng con thứ hai, đã chìm vào giấc ngủ say.

Tôi yêu tiếng bước chân của chúng khi chúng đi giày nhảy lưng tưng trong căn hộ. Tôi yêu khoảnh khắc chúng sợ, một nỗi sợ vô căn cứ những mụ phù thủy đến thăm chúng trong bóng tối. Tôi yêu và đố kỵ với sự tự do, rảnh rỗi của chúng. Điều này để chắc chắn rằng chúng ta đang nói về những chuyện như nhau, thưa ông Astrid.

 

Thế là một thời kỳ huy hoàng tráng lệ mở ra.

Cartereau không xuất hiện ở trường nữa. Tôi không tin hắn đã tiết lộ cho ai đó những lý do vắng mặt thật sự của hắn. Một số người nói hắn đã bị tai nạn giao thông, một số người khác lại nói là hắn mắc bệnh lao phổi, một số người khác nữa lại bảo hắn đã tòng quân trước hạn. Ai muốn nói gì thì nói. Ngoài những thằng ăn bám trung thành nhất của hắn, không ai khóc thương hắn cả, và bóng của hắn đã không trùm lên các hành lang và các lớp học trong một thời gian khá lâu.

Ariel không khoe khoang. Hắn không tìm kiếm vinh quang. Còn tôi, tôi quá sung sướng vì mình là người duy nhất biết bí mật, và quá đố kỵ nên không thể chia sẻ đặc quyền này cho bất cứ ai khác.

Tình bạn được hòa tan vào trong máu của một con rồng bị quật ngã. Ta hãy uống đi.

 Tôi sẽ có thể lấy gì làm chỗ dựa cho những tuần, những tháng sau đó? Bằng chứng, ngoại trừ trước mắt tôi, thì hẳn không có gì ghê gớm cả. Và ngôn từ thường bất lực khi cần đi sâu vào tình cảm. Ngôn từ vốn thường chuyển hướng và phản bội. Tất cả những gì thoát ra từ miệng chúng ta, tất cả những gì nằm trên giấy chỉ là thịt thối.

Tôi không còn đơn độc nữa.

Tôi và Ariel luôn ngầm ý giữ khoảng cách trên lớp, ai cũng thấy thế cả. Tất cả chỉ diễn ra ở phía ngoài. Qua khuôn viên trường học, nếu có điều kiện là chúng tôi tìm đến nhau. Gặp nhau. Đi dạo. Lang thang đây đó. Dần dà, Ariel bắt đầu mở lòng tâm sự và qua đó thậm chí còn khai tâm cho tôi. Tôi sẽ không nhắc lại những lời hắn nói, những lời nói đó chỉ liên quan đến chúng tôi và dường như không có trọng lượng nào ở nơi khác, có chăng thì cũng chỉ đè nặng lên lương tâm tôi. Người ta phải hiểu rằng, không chỉ Ariel ngày này qua ngày khác đào một hố sâu trong lòng tôi, mà hắn còn từ từ lấp đầy hố


sâu đó.

Tôi đã đến phòng hắn chơi. Phòng của Ariel nằm trong một ngôi nhà rộng lớn bên một vách đá. Hay tôi phải nói đó là "xà lim" của hắn? Căn phòng nằm ở phía trên cùng, ngay dưới mái nhà, phía đầu là một hành lang, khi đi qua hành lang này người ta không thể không cúi cổ xuống bởi trần quá thấp. Ariel ở đó.

Tôi còn nhớ mình đã xúc động như thế nào khi lần đầu tiên xuất hiện trước cánh cửa nhỏ sơn trắng đó. Như đứng trước ngưỡng cửa một lối đi bí mật, một lối đi dẫn tôi đến trung tâm của bí ẩn. Và sự ngạc nhiên của tôi khi Ariel mở cửa ra.

Chỉ nhìn một cái tôi đã bao quát hết. Căn phòng có kích thước bằng một buồng tắm. Nó trần trụi, trống rỗng vô cùng. Chỗ nằm của Ariel là một tấm nệm được đặt dưới nền nhà. Một cái bàn học sinh cao cao thay cho bàn làm việc, muốn viết cái gì thì phải đứng. Cuối cùng, đồ vật cuối cùng trong phòng: một cái giá sách đóng trên tường. Ariel chồng sách vở lên đó. Trên đó cũng có một chiếc hộp gỗ (đó là một loại hộp gỗ để giữ nhiệt cho thuốc xì gà) và một con lắc tí hon đang vận động liên tục, thời ấy con lắc này thịnh hành lắm. Bằng một động tác chính xác và tuyệt đối thăng bằng, hai viên bi kim loại va chạm nhau ở đầu que, viên này tạo đà cho viên kia và ngược lại, và cứ thế liên tục. Đúng điểm này là điểm mà Ariel định tâm kiểm tra lại: rằng sự vĩnh cửu tồn tại trên cõi đời này.

Ariel đã khởi xướng sự vận động ngay khi mới ở phòng này. Điều này muốn nói rằng từ nhiều tuần, nhiều tháng nay, những hòn bi đó lúc lắc liên tục, lách cách phân đoạn ngày và đêm như những chiếc kim của cái đồng hồ báo thức quái gở.

Nếu chưa có ai nghĩ đến chuyện cho nó ngừng lại, có thể giờ âm thanh đó vẫn đang còn, trong sự tĩnh mịch của ngôi nhà trống rỗng, bị bỏ rơi. Cú đớp của con quạ lên áo giáp của những kẻ đã chết.

Chỉ sau này tôi mới biết hộp đựng xì gà đó có chứa cái gì.

Toàn cảnh chỉ có thế. Không có ghế, không có tủ, không có đĩa nhạc cũng như không có sách, dĩ nhiên trên tường cũng không có áp phích, không có tranh ảnh của gái đẹp hay ngôi sao, không có đồ gì vương vãi dưới nền nhà, cho dù nó sạch hay bẩn, thậm chí bụi bặm cũng không nốt. Tôi đang nói về gian phòng của một thanh niên chưa đến mười
bảy tuổi!

Tôi thường tưởng tượng Ariel nằm dài trong cái hang bé nhỏ và khắc khổ khi đêm buông xuống. Chỉ hình ảnh tưởng tượng đó cũng đủ đè nặng lên lòng tôi. Tạ ơn Chúa, từ trên đó người ta có thể thấy sóng biển thấp thoáng xa xa qua những ô cửa sổ, có chút ít ánh sáng xuyên qua cửa sổ đó. Có thể thấy đỉnh đồi. Xa hơn nữa có thể thấy mỏm đá lớn màu xám nâu mà người ta gọi là Mũi Sừng. Có thể thấy biển khơi và chân trời. Nhưng hẳn Ariel không cần nhiều không gian để chinh phục đến nhường ấy.

Hắn sống một mình với bố. Cả hai là những kẻ tha phương cầu thực. Họ từ Thụy Sĩ tới. Họ đã mua biệt thự này và dọn đến vài tháng trước đó. Gần như quá nhanh. Tại sao lại ở đây? Tại sao lại là vùng này? Những kỷ niệm tuổi thơ của Walter Weiss. Những kỳ nghỉ trong những vùng lân cận cùng bố mẹ. Hắn đã gợi lại không khí êm dịu của cuộc sống cũng như không gian tràn trề sinh lực của biển khơi...

Một cuộc sống êm dịu!

Thật ra họ đã chạy trốn. Cố chạy trốn. Có những bóng ma đuổi theo, những cơn ám ảnh mà ông Weiss, cha của hắn, hẳn đã hy vọng có thể tan biến dưới ánh nắng mặt trời của miền Nam, cũng như những con ma cà rồng vốn sợ ánh sáng ban ngày.

Tôi rùng mình khi nghĩ đến sự căng thẳng ngự trị giữa người cha và người con. Không có cuộc trao đổi nào tỏ ra vô hại cả. Trong từng sự im lặng của họ cũng như trong từng lời nói hiếm hoi mà họ trao đổi với nhau, luôn vang lên trong thẳm sâu những âm thanh thấp trầm và réo rít của sự hận thù. Từ những ánh mắt nhìn nhau của họ toát ra một sự oán hận nếu không phải là sự sâu cay của mối căm thù. Cho dù khi tôi có mặt, họ cố gắng đến mấy (và họ chẳng mấy khi cố gắng) để giấu giếm, để làm giảm bớt đi thì tôi vẫn cảm thấy điều đó. Trong quan hệ của họ cái gì cũng chất chứa sự đắng cay và bạo lực rất khó kiềm chế, đôi khi bị thổi bùng lên.

Hai con rắn. Hai con thú dữ trong một cái chuồng. Cùng đi quanh một xác chết.

Tôi không nghĩ mình đã có lần thấy Walter Weiss nhịn rượu. Ý tôi muốn nói là: không có giọt rượu nào trong máu. Cũng không bao giờ say đến nỗi lăn dưới gầm bàn. Ông ta thuộc loại công tử bột say sưa nhưng vẫn biết giữ mình ngay cả thời điểm suy sụp. Ông Weiss có bờ trán cao, thân mình rắn chắc, từ lòng trắng trong mắt ông ánh lên những mạch máu hồng. Ông uống rượu thường xuyên nhưng uống ít, uống dàn trải suốt cả ngày và cả về đêm. Đến nỗi mà tình trạng say rượu của ông như đã trở thành một bản chất thứ hai.

Những ngày trời nắng và không khí tràn trề sinh lực, ông ngồi hàng giờ trong một chiếc ghế bành bằng da thuộc to tướng trong phòng đọc sách, nói phòng đọc sách nhưng thực ra không hề có sách, mắt ông nhìn về phía lò sưởi không có lửa. Rồi khi ông đâm ra chán, có trời mới biết vì lý do nào, ông đứng dậy và bắt đầu bước từng bước khắp phòng, đi dọc rồi lại đi ngang, đi lên rồi lại đi xuống, và đi chân đất (một đặc tính khác), ít khi ông bước chân ra khỏi giới hạn đó, ít khi ra thềm hoặc ra vườn.

Walter Weiss đã từng là một bác sĩ phẫu thuật rất giỏi. Có tiếng. Ông đã từng là một bác sĩ đầu ngành. Giờ ông không còn được như thế nữa. Người ta không bao giờ cố ý giao phó mạng sống của mình cho những bàn tay run, cho đôi mắt tối sầm hơi rượu. Rượu đã kết liễu nghề nghiệp của ông: rượu là nguyên nhân chứ không phải là hậu quả. Cũng như về cái chết của bà Ludmilla Weiss, mẹ của Ariel. Theo Ariel thì chính người cha nghiện ngập của hắn đã giết chết mẹ hắn. Giết dần giết mòn. Giết từng chút một. Người đàn bà khốn khổ đó đã chịu đựng quá nhiều, đã đau khổ quá nhiều, rốt cuộc bà đã chết vì điều đó.

Và chính Ariel là người đã phát hiện bà nằm sóng soài trên giường. Tím tái như ngủ mê giữa những chai lọ không. Sự giải thoát ở Valium. Đó không phải là sự oán thán, dù là nhỏ nhất, của hắn đối với cha mình.

Ludmilla Hortense Bérard, vợ Weiss.

Mẹ.

Sau khi bà chết, họ đã quyết định chuyển nhà.

 

Trong thời gian này, tôi cũng đã có vinh dự được đi theo Ariel đến nơi bờ đá hoang vắng chật hẹp, chỗ mà hắn thích ẩn dật. Được đến thánh địa của hắn, ở đó, hắn đã dạy cho tôi cách nghe, nghe ra trò, lắng nghe tiếng hát của biển khơi và những gì có trong tiếng hát đó, ký ức, lịch sử loài người, những đau khổ và hy vọng, những tai họa và vinh quang trong quá khứ của họ. Thật đẹp. Tôi đã tin. Tôi nhận ra cho đến lúc đó mình chỉ mới tiếp cận thế giới một cách hời hợt. Thịt da, trí óc tôi trơn tru và trong trắng, không dấu vết và không có sẹo. Hắn đã giúp tôi mở mắt và mở tấm lòng. Tôi đã thấy màu sắc xuất hiện chỗ mà mới đó màu xám đang ngự trị. Ở chốn đồng bằng buồn tẻ, tôi đã thấy hiện lên những ụ đất mới lạ. Tôi đã nắm bắt. Tôi đã nuốt chửng, đã hấp thu, đã tái tạo tất cả cho riêng mình.

Khó mà hình dung nổi những gì tôi đã đền đáp công ơn của hắn.

Phần lớn thời gian chúng tôi ở bên nhau diễn ra như thế này: hắn nói còn tôi ngồi nghe. Nguy nhất là cái nuôi sống các bạn cũng có thể nuốt sống các bạn, giày vò các bạn. Tôi đã gặp mối nguy đó.

Thế là tôi đã học cách hiểu Ariel. Tôi đã học cách "sống chung" - thêm một cách nói mà người ta thường dùng tầm bậy tầm bạ - và tôi thường tự hỏi làm thế nào mà đến lúc này tôi đã có thể "sống riêng".

Tôi biết ông sẽ hiểu như thế, thưa ông Astrid khả kính.

Liều thuốc độc nhỏ sẽ thành chén thuốc độc lớn.

Chúng tôi đến tuổi mười bảy, rồi mười tám. Học cấp ba xong. Sắp mở ra một kỷ nguyên mới. Câu lạc bộ của chúng tôi sẽ sớm được mở rộng, sẽ được bổ sung. Một nhân tố thứ ba sẽ nhập cuộc và khi đó, chúng tôi sẽ biết chắc chắn hơn nên xoay xở như
thế nào.

Nhưng hiện tại chúng tôi không nghĩ đến điều đó. Chúng tôi cứ để mặc thế. Mùa hè trước khi chúng tôi vào đại học đã trôi qua không có biến động gì rõ ràng. Đó đúng là một kỳ nghỉ thực sự. Và để kết luận chương này, tôi sẽ giữ lại hình ảnh này của chúng tôi, hình ảnh hai chúng tôi ngồi bên nhau trên một chiếc ghế đu trong vườn, chúng tôi thường ngồi như thế vào cuối buổi tối. Không khí ấm áp, dìu dịu. Một cây keo uy nghi bao bọc chúng tôi bằng những cành lá của nó. Chúng tôi thì thầm ru nhau, thì thầm nói. Đúng là không phải để tái tạo thế giới cũng như không phải để phá hoại nó.

Và khi đó, đêm xuống làm chúng tôi hòa lẫn với nhau mà chẳng ai hay.

 

Rốt cuộc tôi đã rời tay khỏi vô lăng để mở cửa xe. Marie vẫn đứng trước cổng trường. Mình khoác một chiếc áo choàng rộng, cổ quàng khăn, vai mang một chiếc túi xách nhỏ, tay xách một chiếc cặp da. Những thứ thích hợp với đôi vai của em. Tôi từ từ tiến lại gần và em cứ để tôi đến. Tôi đứng trước mặt em. Tôi mở mắt ra và thấy trước mắt mình là một người đàn bà năm mươi tuổi. Một người phụ nữ tuyệt vời. Tôi sợ em cũng thấy tôi như tôi thấy em. Em tiếp tục im lặng nhìn tôi soi mói. Em hoàn toàn có quyền quay lưng lại với tôi rồi bỏ đi không nói một lời. Em đã không làm thế. Em cười một nụ cười đượm buồn tuyệt diệu rồi nói:

- Thú thật em không còn tin nữa...

Tôi những muốn trả lời thế nào đó nhưng tôi không thể. Tôi không lường trước được sự thể lại làm lòng tôi xao động đến thế. Tôi dang tay ra ôm lấy em. Ôm chặt. Úp mặt vào tóc em, tôi đã nhận ra và hít hà mùi hương của em. Tất cả những gì mà tôi có thể thì thầm bên tai em, đó là: "Maria..." Sự tiếp xúc này đã làm tôi tan nát cõi lòng. Một trận gió lớn giữa mùa đông. Sự trinh nguyên của em đã bắt đầu phần nào xâm chiếm lấy tôi. Tôi ôm em rất lâu vào lòng. Từ trên kia nhìn xuống, có lẽ người ta tưởng chúng tôi là hai học sinh cấp hai đang cô độc trên cõi đời, đang tràn trề nhựa sống và đầy ắp ảo tưởng. Chúng tôi đã từng như thế.

Marie không có bằng lái. Em nhận lời để tôi đưa em về. Em ngồi bên cạnh tôi sau khi tôi vứt ra sau chếc bánh kẹp ăn dở và chiếc túi nhựa đựng cuốn sổ tay được buộc lại bằng một sợ dây chun. Trong suốt chuyến đi, chúng tôi thầm lặng trao nhau những
cái nhìn trộm rụt rè. Em có vẻ thích như thế. Em chỉ nói:

- Thất vọng à?

Tôi ra hiệu không.

- Anh đã có mắt như mù trong một thời gian dài, thế thôi.

Má em phơn phớt đỏ; em quay mặt nhìn đường. Tôi để ý thấy một vài nếp nhăn đây đó trên mặt em, nếp môi trông rõ hơn, gân nổi nhiều hơn trên mu bàn tay. Ánh mắt của em chưa hề mất đi sự sáng trong hay chiều sâu của nó - trông như cánh cửa sổ mở ra một bầu trời sáng sủa. Một cách khái quát không thể xứng đáng hơn cho em. Tôi tránh bóng mình trong gương chiếu hậu.

Em vẫn ở tòa nhà cổ dành cho giới quý tộc, ngay tại trung tâm thành phố. Một căn hộ thừa kế của bố mẹ. Tôi đậu xe, lấy túi đựng cuốn sổ tay rồi theo em bước lên cầu thang. Một luồng cảm xúc mới xâm chiếm lấy tôi khi vào trong căn hộ này. Marie đã cải tạo lại căn hộ theo ý mình từ lâu. Phía trong rất dịu mắt, tinh tế và ấm cúng. Một hộp đựng tư trang gần như hoàn hảo, có điều nó hơi rộng lớn so với một viên kim cương đơn độc.

Cây đàn piano đã biến mất. Trong một lọ hoa màu vàng cao cao có một bó hoa tươi. Marie cất đồ rồi ném áo khoác lên một chiếc ghế bành.

- Anh ngồi đi, em nói. Anh thích gì? Cà phê? Trà? Hay gì khác?...

Không ít dấu chấm lửng sau "gì khác" này, nhưng tôi không thể trách em. Em không biết cụ thể tôi đã ở đâu.

- Em cho anh cà phê. Có lẽ hôm nay đây là ly thứ mười bốn của anh.

Mắt em ánh lên vẻ đồng tình. Tôi nghe em lục cục dưới bếp khoảng năm phút. Em quay lại cùng hai ly cà phê trên một cái khay nhỏ. Tôi vẫn đứng như thế, đung đưa chiếc túi trong tay. Tôi chờ em ngồi xuống rồi làm theo em. Em uống một ngụm rồi đặt ly xuống. Em nhìn tôi. Tôi chưa chuẩn bị được câu nào. Cuối cùng, em nói:

- Suốt ngày, em thấy bọn trẻ bị các thầy cô bắt lỗi: mặt anh giờ cũng như mặt chúng!

- Lạ thật, tôi nói. Khi anh lại quay lại đây. Anh vẫn thường tự hỏi từ khi nào...

- Lâu rồi, em ngắt lời tôi. Quá lâu rồi. Nhưng dẫu sao nét mặt anh có vẻ tươi tỉnh hơn lần trước.

Tôi không nhớ nổi nhưng tôi mường tượng khá rõ thảm họa. Vẻ mặt hối hận của tôi có lẽ đã bộc lộ rõ hơn tất cả. Em cúi người về phía trước rồi nói thêm:

- Em rất vui khi được gặp anh, Alex ạ. Thật sự đấy.

Tôi biết em chân thành. Tôi đã xua đi một loạt ăn năn hối hận, trói buộc chúng lại trước khi chúng trở nên nặng nề.

- Anh không chắc là em sẽ nói như lúc nãy, sau khi đã thấy cái mà anh mang đến cho em.

- Hừm, thêm một điều bất ngờ nữa chăng?

- Có thể nói như thế, tôi nói.

Tôi nắm lấy cái túi và trong khoảng mười lăm giây, tay tôi luống cuống ở chỗ buộc mà không mở ra được. Cuối cùng tôi xé cái bọc ra. Tôi cầm tập giấy đặt lên đùi. Hơi hướng cuối cùng của dã tâm. Kéo Marie vào đó không khác gì ném bùn xuống một dòng sông trong vắt. Không hãnh diện lắm, nhưng vẫn còn ích kỷ. Tôi thở dài:

- Anh cần em, Maria ạ.

- Thế thì tốt quá!

Tôi ngước mắt lên. Mắt em long lanh. Rồi em bỗng nhiên ngửa cổ cười thầm còn tôi nhảy lùi lại ba mươi năm.

- "Maria"! Em kêu lên. Không ai còn gọi em như vậy từ đời xửa đời xưa rồi!

Sau đó, mặt em sững ra, như thể niềm vui chóng vánh đó đã làm cho em ngạc nhiên. Môi em mím lại thành một nụ cười thoảng qua.

- Để em xem nào, em nói.

Tôi chuyền cuốn sổ tay cho em qua mấy cái ly. Em gỡ dây chun ra rồi từ từ lướt tay trên trang đầu tiên, như để kiểm tra chất lượng giấy hoặc để phủi đi những vết bụi nhỏ. Em tranh thủ đọc tiêu đề một trăm lần.

- Anh viết à? Em hỏi.

- Không. Anh thấy trong thùng thư, sáng qua.

- Cái gì thế?

- Anh muốn em đọc trước rồi chúng ta sẽ nói chuyện.

Em cầm một tờ giấy lên, rồi một tờ khác một cách vô tình, đọc lướt qua vài dòng cùng một lúc. Mắt nheo lại.

- Đừng miễn cưỡng, Marie ạ, tôi nói. Em có thể để anh đi ra ngoài dạo chơi, anh sẽ không giận em đâu. Cái thứ này có khả năng... làm em đau khổ đấy.

Em lắc đầu.

- Đồng ý. Anh cho em biết trước nhé.

Tôi lại thở dài. Chỉ như thế tôi mới cảm thấy thoải mái. Marie cúi xuống 10000 cái túi của tôi và nhặt lên cái hộp đựng kính; rồi em nhổm dậy, với cuốn sổ tay trên tay.

- Anh cho em... ờ... ba tiếng nhé?

Tôi sửng sốt.

- Cái gì? Tôi nói. Em bắt đầu luôn bây giờ ư?

- Tại sao không? Tối nay em có dự định gì đặc biệt đâu. Còn anh?

- Ờ... không.

- Tốt quá. Thế anh ngồi xuống đi. Đĩa nhạc đấy, sách đấy. Em đã pha cà phê ở dưới bếp. Nếu anh đói thì mở tủ lạnh ra thích gì ăn nấy. Được chứ?

Tôi vẫn chưa cởi áo bludông ra.

- Thế là quá đủ, tôi nói.

Em đi về phòng. Lúc em đang bước qua ngưỡng cửa thì tôi gọi giật lại.

- Marie!

Em quay người lại.

- Anh cũng vậy, tôi nói. Anh rất vui khi được gặp em.

Em vào phòng, đóng cửa mà không nói thêm gì.

Khi chỉ còn lại một mình, tôi ngồi một lúc trên tràng kỷ, đầu óc bồng bềnh. Rồi tôi đứng dậy xem trên giá sách có gì. Những chồng đĩa nhạc. Tôi biết sở thích của Marie, xem ra những sở thích đó không thay đổi. Có một số đĩa nhạc cổ điển không thể thiếu, nhưng phần lớn bộ đĩa hát của em là tuyển tập ca khúc Pháp từ những năm sáu mươi đến nay, từ những ca sĩ bất hủ như Brel, Brassens, Ferré... đến những ca sĩ tầm thường hơn. Marie đã làm cho tôi ngạc nhiên khi rất chuộng những ca sĩ mà tôi chỉ xem là những ca sĩ quèn... Marie hát rất hay những ca khúc của Haydn và của Dvorák, đồng thời có thể nhỏ lệ khi nghe Salvatore Adamo ngâm nga bài Tuyết rơi...

Tôi tự nhủ nếu mình cố thử thì thể nào em cũng mủi lòng. Tôi cho đĩa nhạc của Aznavour vào đầu đĩa rồi ngồi xuống tràng kỷ. Nghe đến bài thứ ba thì tôi thiếp ngủ, với lý do cáo lỗi duy nhất là cần ngủ bù cho hai nghìn năm ngủ muộn.

 

"Người đàn ông đó rất yêu mẹ. Ai cũng cảm thấy thế, ai cũng trông thấy thế. Đã qua năm mươi lăm tuổi rồi, ông vẫn sống chung với mẹ trong một căn hộ và trong một cuộc sống, không chịu nghe tiếng gọi câu thúc của nhà an dưỡng, cho dù mẹ mắc đủ thứ bệnh, cho dù mẹ bị tàn phế, cho dù bao nhiêu phức tạp mà bệnh tật kéo theo. Ân cần biết bao nhiêu, hy sinh biết bao nhiêu. Sáng chủ nhật, khi thời gian cho phép, người ta thấy hai mẹ con đi dọc theo những lối đi trong công viên thành phố. Người đàn ông có tuổi và bà già dìu nhau ngồi trên ghế bành, thường cúi xuống mái đầu bạc phơ của nhau để nói cho nhau nghe về cảm tưởng nào đó của mình, đưa ra lời bình luận nào đó về sự khoan dung của trời đất hay vẻ lộng lẫy của một cây mimosa đương hoa. Hay là về việc chọn những món tráng miệng ngọt ngào cho ngày chủ nhật. Bánh Minfơi, bánh chồng, bánh kem mứt ngọt lịm của hiệu Fourques. Mẹ thèm ăn gì nhất, mẹ yêu?

Người mẹ khốn khổ đã mất gần hết giác quan, nhưng vẫn còn một bộ răng rắn chắc. Và tình yêu thương bất di bất dịch của con trai mình.

Jean-Baptiste Cyrillus. Tiến sĩ văn chương. Giáo sư đại học đáng kính. Người mà sinh viên thường mệnh danh là "Elmer", chủ yếu vì âm giọng của ông, giọng của ông không phải là không gợi nhớ tới giọng của kẻ bị Bugs Bunny và bạn bè của ông bắt nạt. Đúng là không hơn gì nét mặt của ông. Có thể tưởng tượng ra cảnh ông Elmer trung hậu này chăm sóc người mẹ bại liệt cho đến khi bà qua đời.

Complet màu sẫm vải sọc, cà vạt: cùng kiểu ăn mặc trong tuần trên giảng đường cũng như trong công viên vào ngày nghỉ cuối tuần. Một người kín đáo và uyên bác, hơi gàn; ngoài mẹ ra, đối tượng tận tâm và sùng kính khác của ông là các nhà thơ thời Phục hưng - thế nên ông có thể ngâm những khổ xtăngxơ của Ronsard, và thơ của Du Bellay, ông cũng có khả năng phủ nhận toàn bộ dược điển của bệnh viêm đa khớp. Và tất cả những thứ đó luôn được thể hiện bằng giọng mũi của gã Elmer nhỏ con.

Chân dung phác họa. Phải chăng đó là chân dung mà người ta sẽ đặt trên lăng mộ ông sau này? Có thể như vậy lắm. Tuy nhiên, cần chỉnh sửa đôi chỗ: Đúng, người đàn ông đó rất mực yêu thương người mẹ già của mình, say mê thơ thế kỷ 16 và cũng thích người ta nhét chai Perrier vào đít mình.

Và tại sao không? Chị tự nhủ.

Trước hết đó là vấn đề thực tế. Tối đầu tiên mà ông xuất hiện, chị bị bất ngờ. Chị còn chưa biết sở thích của ông là gì. Như thế để nói rằng việc mở một loạt đồ uống là việc dở ẹc đáng nhớ. Ông thầy vẫn mặt lạnh như tiền. Không bao giờ uống rượu. Chỉ thích mỗi nước uống có ga. Hơn nữa, không phải ông ở đó để đùa. Ông đang rất vội: Người mẹ tội nghiệp của ông đang ở một mình trong căn hộ và ông không muốn thế.

Tuy nhiên, ông vẫn ở lại. Ông liếc mắt nhìn gian phòng rồi có vẻ hài lòng. Ngăn nắp, sạch sẽ, một chỗ hợp lý cho bà. Bà vẫn luôn săn sóc kỹ càng mọi ngóc ngách. Và săn sóc những người bệnh. Ông thầy ra chỉ dẫn một cách chính xác, cụ thể, với cái giọng y như đang giảng bài. Chị hiểu và ghi nhớ. Chỉ có điều, như ta đã nói, đồ đạc còn thiếu. Chẳng hạn như tối hôm đó, ông hẳn sẽ bằng lòng với một chai Schweppes, còn chị cảm thấy ông hơi phật ý nhưng thực ra hoàn toàn không phải thế. Chị cố gắng và quan tâm rất nhiều để bù đắp. Trước khi ông ra về, chính tay chị đã thắt lại cà vạt cho ông. Tuyệt! Hẳn đó là điều duy nhất khiến ông quyết định cho chị một cơ hội thứ hai.

Lần sau, chị chuẩn bị đầy đủ tất cả mọi thứ. Công việc tiếp phẩm đã xong. Một két sáu chai để dưới đất bên cạnh tủ lạnh. Perrier, 33 cl. Biết những chai nước đó dành để làm gì. Chị không thể uống loại nước uống đó. Chị đổ hết vào bồn rửa bát. Để thấy chuyện gì xảy ra. Chị cũng đã bỏ tiền mua một chiếc áo blu trắng và một hộp dụng cụ y tế đầy đủ. Cuối cùng, ông thầy không cần phải gợi ý, chị đã học thuộc lòng một bài thơ sonnê của Étienne Jodelle (1532-1573), chị tính nếu đọc đúng lúc, vài câu thơ này chỉ có thể làm cho quả ngon thêm vị ngọt mà thôi. Ranh ma phết.

Ông giáo trở lại, đúng như đã thông báo, vào ngày thứ sáu tuần sau đó, lúc 21 giờ. Đúng răm rắp. Cô thư ký mời ông vào ngồi trong phòng đợi. Ông ngoan ngoãn chờ đợi, tay lần giở một cuốn tạp chí trong khi chị thay đồ ở phòng bên cạnh. Khi mở cửa ra, chị mặc chiếc áo b lu trắng và không hề ra vẻ đang đùa. "Thưa thầy, đến lượt thầy đấy", chị nói. Qua cách ông liếc nhìn sau đôi tròng kính, chị biết mình nắm chắc phần thắng. Ông đặt tạp chí xuống, đứng dậy, hắng giọng. "Chào bác sĩ", ông vừa nói vừa tiến về phía chị và chìa tay ra.

Một phong cách rất cổ điển. Nhưng lạy Chúa, con đường dẫn tới sự mê hoặc đôi khi rất dài và vòng vo.

Tiếp theo đó, sự việc diễn ra theo như dự kiến. Chị đưa ông thầy vào phòng khám rồi đóng cửa lại. "Thầy bị làm sao thế ?" Ông tả mình đau thế nào, triệu chứng ra sao. Chị vừa lắng nghe vừa lắc đầu. Sau đó chị nói: "Tốt, tốt." Rồi chị nói: "Thầy cởi quần áo ra, em sẽ xem thử xem sao." Ông làm ngay, chỉ mặc mỗi chiếc quần sịp và đi một đôi tất vải sợi Êcốt. Đôi chân cứng đờ, phẳng lì, khuỷu chân như khuỷu chân gà. Chị bới lục trong số những dụng cụ của mình rồi lấy ra một cái đè lưỡi và một cái đèn pin nhỏ xíu. Chị lại gần ông, lúc ấy đang đứng giữa phòng, hai tay đu đưa. Ông có phần nhỏ người hơn chị. "Há ra", chị nói. Chị thọc dụng cụ vào tận trong cổ họng ông. Chị khám rất kỹ, và bỗng nhiên, trong một khoảnh khắc bất ngờ, chị nhận ra mình có thể ngã khuỵu, có thể bị nuốt chửng, cả người chị có thể chui vào trong cái lỗ đen ngòm, ẩm ướt đó, như chui vào đáy sâu của một cái hầm giam trong một lâu đài ma ám, nơi đó chị có gào, gào, gào mấy cũng thế thôi, chẳng có ai đến cứu giúp chị. Qua rồi. Chị banh mi mắt của ông lên rồi chĩa đèn vào con ngươi, một con côn trùng đen hốt hoảng. Mi mắt này rồi mi mắt kia. Sau đó, chị đeo ống nghe vào, đặt lên làn da xám, lên cơ thể gầy gò, cằn cỗi với cái bụng bắt đầu phình ra (Ôi! Bánh kem thông nổi tiếng ở nhà hàng Fourques!). Ở vùng tim, chị nghe tiếng đập dồn dập. Ở chỗ khác, chị nhận ra những âm thanh khác không rõ nguồn gốc. "Ho đi", chị bảo. Ông ho. Ông thầy này là một bệnh nhân ngoan ngoãn. Trong suốt thời gian nghe bệnh, chị chú ý để cho ánh mắt mình ra vẻ nghiêm trang và bàn tay mình ra vẻ lạnh lùng. Ánh mắt và cử chỉ của một thầy thuốc lão luyện. Giữ khoảng cách. Đấy không phải là việc khó nhất. Sáp lại gần quá, mùi tuổi già của người đàn ông xông lên mũi. Mùi của mẹ. Mùi thoảng qua thôi nhưng không phải không nhận ra, một mùi hôi của lọ hoa bốc lên từ những cánh hoa úa tàn trong nước ứ đọng hôi thối. Rồi một ngày nào đó, phải chăng chính mình cũng bộc lộ một tính chất như thế? Làn da của chị đang mát mẻ, gợi cảm như thế kia. Nàng hỡi, ta đi ngắm hoa hồng...

Chị tiếp tục khám, thỉnh thoảng lại thì thầm "Tốt, tốt, tốt", giọng chị như tiên đoán một điều ngược lại thì đúng hơn. Ông thầy cứ để mặc thế. Trong khi mà chị bận rộn khám lưng, ông cảm thấy hơi thở của chị phả vào gáy mình và không thể không rùng mình. Sự căng thẳng của ông tăng lên dần dần.

Cuối cùng, chị để các dụng cụ xuống. Chị thở dài. Chị cắn môi, nhíu mày. Một lúc sau, ông không thể chịu được nữa và hỏi: "Có nghiêm trọng không, thưa bác sĩ?". Và giọng của ông thành thực, ánh mắt của ông lo âu đến nỗi thậm chí chị không cảm thấy buồn cười nữa. Không, chị nghĩ, tất nhiên là không rồi. Không nghiêm trọng. Không có gì nghiêm trọng khi người ta nghĩ là như vậy. Nhất là đối với nhóc Elmer. Ai cũng biết là nhóc Elmer không chết. Ai cũng biết là nhóc Elmer lại trở về từng lúc. Một cú mắc lừa vĩnh cửu.

Chị không trả lời như thế. Chị lại thở dài và buột miệng: "Để em đo thân nhiệt xem, thưa thầy Cyrillus. Thầy nằm sấp đi."

Giọng điệu hoàn hảo. Những gì nghiêm trọng bắt đầu. Ông thầy phải trả giá bằng việc bị đo nhiệt độ ở trán. Mắt ông lảng tránh. Dương vật của ông căng lên. Ồ, không có gì là hoành tráng cả nhưng thế đó, và điều này không thoát khỏi đôi mắt tinh tường của nữ bác sĩ. Túi trước hơi nhô lên một tí. Nó không dựng hẳn lên, có thể nói như vậy. Gương mặt thản nhiên. Chị chỉ tấm thảm trải dưới đất. "Mời thầy", chị nói. Quả là bàn khám bệnh hơi thấp, nhưng một vài sự nhượng bộ không phải là hi sinh. Vả lại, từ khoảnh khắc này, nữ diễn viên kịch câm sắm vai thầy thuốc đã rã rời thân xác. Nghi thức bị phá hủy. Hay đang thoát ra, cũng có thể. Bệnh nhân nằm sấp, có nguy cơ đè bẹp sự cương cứng khiêm tốn của mình. Chị ở bên cạnh, bên tấm đệm. Chị tuột sịp của ông thầy xuống, thấy hai mông xanh xao tội nghiệp hơi trễ ra sau, gần như không có lông. "Giạng ra", chị bảo. Ông giạng ra. Độ đàn hồi của chiếc quần sịp cho phép giạng bao nhiêu thì ông giạng bấy nhiêu.

Đúng lúc này thì chị mới dùng đến chai nước tạo bọt quen thuộc. Cần cho mọi chủ ý. Ca phẫu thuật rất khó, nhưng chị đã thành công. Ông thầy úp mặt vào gối càu nhàu. Vì đau ư? Vì sướng ư? Thân nhiệt tăng, tất nhiên rồi. Đó là cả một kỹ thuật. Cả một nghệ thuật. Một tay phải giữ cổ chai, tay kia vỗ vỗ vào đít chai. "Và một chai Perrier loại nhỏ, một!", chị không thể không nghĩ như thế. Thật đê tiện! Thậm chí không xứng một lang băm tầm thường đểu giả. Chị tự trách mình. Chị định thần lại. Chị vỗ, vỗ. Ông thầy bắt đầu rên rỉ. Vì đau ư? Vì sướng ư? Và như thế, khi chị quyết định bất ngờ tấn công. Vẻ như không. Chị lên giọng:

Cuối cùng cho chúng thấy sợ hãi là gì

Với cánh tay đỏ lên vì sấm sét và giận dữ

Tàn phá, đả thương, lòng đầy hãnh diện

Với con quỷ này cả thế giới đều sai...

Chị có biết cách nói chuyện với các bệnh nhân không, nữ bác sĩ tử tế này? Chị có biết cách chọn lựa ngôn từ, phong thái? Làm ơn theo bản năng! Hiệu quả gần như ngay tức thì. Qua một thời gian ngạc nhiên rất ngắn ngủi, vừa hết khổ thơ, ông thầy đã bật lên một tiếng rú rất dài. Đúng như thế. Ông cảm thấy thích thú, vẻ am hiểu. Ông ưỡn lưng. Căng người. Cởi mở. Lần này không phải tự chất vấn làm gì nữa: Đau hay thích thì có quan trọng gì, quan trọng là ông muốn tiếp tục như thế. Và nhiều hơn thế. Ông thầy đòi hỏi. Chị vâng theo.

Những kẻ thù của sự nghỉ ngơi,

của Chúa trời và của các hoàng tử

Những kẻ thù của nhân dân

và của các tỉnh lẻ

Những kẻ thù bất tử của danh dự lăng mộ...

Cả hai là những đứa trẻ. Cách đây chưa lâu lắm đâu, chị còn chơi trong vườn với một con chó lớn bằng chị. Một con chó bụ bẫm. Một tấm lông nhung sống động. Chị bá lấy cổ ông thầy. Mùa hè, chị chỉ mặc mỗi một chiếc quần ngắn bằng vải cotton trắng. Chị là Mowgli ở chốn rừng sâu, ông thầy là Bagheera kết hợp với Baloo. Chị những muốn ngủ với ông. Và rồi con chó đã chết. Vì sao ư? Đến giờ người ta vẫn chưa trả lời chị.

Chị vỗ, vỗ lên đít chai. Giờ thì ông thầy hí như ngựa. Đúng như thế đấy. Cách đây khá lâu - nhưng là gì so với sự vĩnh cửu - ông còn nắm tay mẹ, đi bên cạnh mẹ trên đường phố lát đá, cuối phố ông biết có một quán trà rất nổi tiếng. Hôm đó là chiều chủ nhật. Ông dạy buổi sáng. Thời đó mẹ ông chưa bị tàn phế. Bà bận đồ đen. Quán trà ở trên tầng. Cả hai mẹ con ngồi vào một cái bàn đặt ở đầu phòng. Ông là đứa trẻ duy nhất trong quán. Ngồi thẳng đơ trên chiếc ghế bành Louis XV. Ông được ăn sôcôla nóng và hai cái bánh ngọt. Cả hai lặng lẽ ăn uống. Đèn trần chiếu sáng ngay giữa ban ngày. Một tỉ bóng đèn. Qua những ô cửa sổ cao cao, ông thấy những cành cây tiêu huyền đung đưa. Khi đó là mùa đông. Vẫn luôn là mùa đông và gió lạnh. Tôi hình dung thế.

Chị vỗ, vỗ, vỗ mạnh hơn, nhanh hơn. Chị đóng đinh. Trái với những gì người ta tưởng, không nên lẩn trốn vào những lúc đó. Không nên tìm cách thoát thân. Phải luôn hiện diện và ý thức được mọi chuyện. Ở hẳn bên trong. Lội bì bõm. Lấy ra và tích trữ. Phải nuôi dưỡng, phải nặn được thành viên ở trong. Phải nhét vũ khí vào tận trong mồm.

Trên cả những tiếng rên, tiếng rú, tiếng hí, giọng của chị ngân lên:

Và cũng không lăng mộ,

những xác người thối tha

Bồng bềnh trên nước, trôi nổi lang thang

Chỉ làm mồi cho cá và thức ăn cho quạ.

Ông thầy kêu lên. Ông bị co giật một cách lạ lùng, chân huơ lung tung may mà chị tránh kịp. Rồi ông thầy nằm bẹp xuống đệm, miệng há hốc, bọt mép sùi ra, vẻ kinh hãi, hoảng hốt. Chị vừa rút cái chai ra vừa thông báo: "Đã hạ sốt rồi. Thầy có thể mặc quần áo vào." Chị không cần phải thắt cà vạt cho ông. Lần này không, lần khác cũng không. Ông bị kẹt rồi. Nút đã được thắt. Từ trên cao cửa sổ nhìn xuống, chị nhìn ông đi vào bóng đêm. Bóng ông ốm yếu, thoảng qua, đi sát những bờ tường. Bóng đè lên bóng.

Ông mà đòi yêu tôi à, chị nghĩ bụng, ông mà đòi làm cho tôi thỏa mãn à?".

 

Vài đoạn mà tôi cho ông đọc đó, rồi ông sẽ hiểu, là được rút ra từ các cuốn sổ ghi chép của Flo. Những đoạn khác được trích ra từ những cuốn sổ của Ariel. Tôi phân thân. Sở dĩ tôi đã chọn những đoạn này, đã trích lọc một cách trung thành, các bạn hãy tin như thế, là vì tôi thấy những đoạn đó có thể soi rọi phần nào những ngõ ngách tối tăm nhất. Cũng là vì một số nhân vật chính có trong đó không còn xa lạ gì nữa đối với ông.

Ý tôi muốn nói là, thưa ông Astrid, ông đã rất cận kề với sự thật. Nếu như có một sự thật. Và một sự thật duy nhất.

Về những ghi chép của Florence, hẳn ông sẽ để ý thấy cách mà chị nói về mình rất lạ, chị sử dụng ngôi thứ ba. Như thể đó là câu chuyện về một người con gái khác, một người đàn bà khác. Sự chia lìa giữa thể xác và tinh thần ư? Sự tách rời chính mình một cách tuyệt đối ư? Có cần thiết như vậy không, có phải đó là điều phải làm không? Quả là tôi đã thắc mắc phải chăng tất cả chúng ta, tùy theo hoàn cảnh mà phải viện đến hạ sách này để cho cuộc sống tiếp tục có thể chịu đựng được. Những hành vi của chúng ta có vẻ như đôi khi tách rời tâm hồn của chúng ta. Và ngược lại. Có đúng như thế không hay đó chỉ là một cái mẹo thôi?

Ở trường hợp này, điều đó muốn nói là bộ mặt giấu kín thực sự gớm ghiếc, và khi mặt nạ rơi xuống, không còn hy vọng nào nữa. Mỗi người sẽ tự nhận ra mình; những tấm gương sẽ tan ra thành nghìn mảnh, nghìn mảnh gương kinh hãi và đáng xấu hổ. Tôi hiểu là người ta có thể nói ở ngôi thứ hai hay ngôi thứ ba. Tôi hiểu người ta thường thích đổ lỗi cho người khác, trút gánh nặng lên người khác. Và chính mình thì hài lòng với việc chịu tang.

Những thứ đó phức tạp lắm.

Tôi đã chứng kiến, cách đây vài tháng, một cảnh tượng gây ấn tượng mạnh. Lúc đó là buổi sáng sớm, gần nhà ga. Tôi đang từ chỗ đậu xe đi bộ ra thì thấy trước mắt mình, trên vỉa hè, hai con chim: một con chim mòng biển và một con cu gáy. Chim cu gáy đã chết. Nó nằm trên vỉa hè rải nhựa, bị mổ bụng, phanh thây. Con chim mòng biển đang ăn nó. Hơn thế nữa, nó bám riết lấy con mồi, xé nát thịt da nó ra. Nhìn cảnh nó như đang nhảy múa xung quanh xác chết, nhìn cách quần con mồi, cách bất thình lình dang cánh ra rồi kêu lên giận dữ, sự rồ dại trong đôi mắt tròn xoe của nó, nhìn những cú mổ mạnh bạo của nó, tôi không có cảm tưởng mình chỉ đang chứng kiến bữa ăn trời phú của con kền kền. Điều đó làm cho ta nghĩ đến sự thỏa mãn mối hận thù đã gặm nhấm từ lâu. Như thể con cu gáy là kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù không đội trời chung mà nó vừa đánh bại. Bản năng sơ đẳng trỗi dậy. Sau bao thế kỷ bị gò bó, mối căm thù, sự tàn bạo thắng thế và tha hồ thả cửa. Cho dù điều này diễn ra giữa những kẻ đồng loại.

Tôi gọi nó là chim cu gáy nhưng nó giờ chỉ còn là một tấm rẻ rách thảm hại không lời nào có thể tả nổi. Cái mỏ của con chim mòng biển nhuốm máu, lông trắng ở cổ nó cũng lốm đốm máu tươi.

Để hoàn chỉnh bức tranh này, trên vỉa hè đối diện có ba kẻ ăn xin đang nằm ườn dưới những tấm cáctông. Họ nằm trong hốc kê giường bằng bêtông, dọc theo mặt trước khu nhà phụ của nhà ga. Tôi không nhìn rõ mặt họ. Đàn ông hay đàn bà, trẻ hay già, sống hay chết. Dù sao đó cũng là những kẻ đồng loại với tôi. Và hình như họ thờ ơ với số phận của những con chim.

Tôi thấy toàn bộ cảnh tượng đó. Có rút ra được bài học nào không? Ngay lập tức, tôi tự nhủ đơn giản: Điều đó tồn tại, không chỉ trong đầu tôi.

Tôi nghĩ bụng: Đây có thể là một cách nhìn, một hình ảnh biểu trưng của thế giới.

Nhưng hẳn tôi đang đi hơi quá xa câu chuyện mình đang kể. Về câu chuyện của chúng ta. Chúng ta quay lại câu chuyện này đi. Việc học tiếp đại học đối với tôi không phải là một sự lựa chọn khó khăn: tôi sẽ theo Ariel. Cho dù hắn đi đâu đi nữa, tôi cũng sẽ đi theo, theo bất kỳ ngành học nào, đi bất cứ
nơi đâu.

Tôi không nghĩ hắn đã từng mơ tưởng đến việc làm nghề gì đó sau này - nghề chủ doanh nghiệp hay giám đốc công ty vi tính lại càng không. Với hắn, công việc không phải là mục đích cuối cùng, cũng không phải là cách để phát triển, và kiếm sống đối với hắn không phải là một việc cần thiết. Chỉ riêng gia sản hiện tại cũng giúp hắn sống ung dung cho đến hết đời. Hơn nữa, trong tính cách của hắn không có gì đại loại như sự tham lam. Tất cả những gì hắn đã có thể làm thì hắn đã làm, không phải làm miễn phí nhưng không hề vì mục đích vụ lợi. Rõ ràng là như thế.

Trường đại học gần nhất cách đó tám mươi cây số. Không thể ngày nào cũng đi đi về về được, Ariel đề nghị tôi ở chung căn hộ với hắn: Một lời mời mà, dĩ nhiên, tôi hồ hởi chấp nhận. Trong mắt tôi, bất cứ xó xỉnh nào cũng xong, miễn là chúng tôi ở chung là được. Thế là cuối tháng Chín năm ngoái, lần đầu tiên tôi tạm biệt bố mẹ và thành phố nhỏ Saintes-sur-Mer nơi tôi đang sống. Còn mười lăm ngày trước khi nhập học, Ariel và tôi dành để khám phá một vùng đất mới. Tôi vẫn còn nhớ như in những ngày ngập tràn niềm vui đó.

Tôi còn nhớ trời rất đẹp. Mùa hè Ấn Độ kéo dài mãi không thôi. Chúng tôi chạy xe hàng giờ trên chiếc Saab (giờ Ariel đã đủ tuổi lái xe), chúng tôi đi theo những đường phố lớn như bị cuốn theo một luồng gió uể oải. Chỉ riêng những cái tên đường mà tôi đọc được trên những tấm biển cũng đã chứa đựng cái gì đó ngoại lai và hứa hẹn những chuyến phiêu lưu thú vị. Tôi thấy cái gì cũng đẹp, cũng đầy phấn khởi, tuyệt diệu. Tôi tưởng như mình đang ở trong một xứ sở thần tiên. Có thể mắt tôi đang vẽ hào quang lên tất cả những vật, những người mà chúng tôi bắt gặp. Có thể ngay sau khi chúng tôi đi qua, những thứ đó, những con người đó sẽ lại trở về với vẻ ngoài tẻ nhạt thường nhật. Tôi không quay lại. Tôi mỉm cười khoan khoái. Bàn tay Chúa đặt lên vai tôi...

Một lần nữa, phải nhận thấy khuynh hướng tai hại của tôi, đó là khuynh hướng miêu tả những ngày hạnh phúc. Tôi sợ điều đó làm cho câu chuyện của tôi lệch lạc. Tôi phô diễn niềm vui, sự kinh ngạc, sự khoan khoái dịu dàng, tôi nói về trời xanh và những tình cảm cao thượng, nhưng phải chăng tôi không biết những gì đang ẩn giấu ở đằng sau? Về điểm này, phải chăng tôi ngây thơ khờ dại, đến nỗi không hề linh cảm thấy những gì đang được thêu dệt: sự ghê tởm dưới vỏ bọc của sự sảng khoái, thanh thản?

Như tôi đã nói, tôi không tin vào sự tình cờ thuần túy. Vả lại, tôi cũng không tin vào số phận được định sẵn một cách nghiệt ngã, như một định mệnh. Cuộc sống là sự kết hợp tinh tế giữa hai điều ấy thì hơn. Đường đời lắm nẻo, chúng ta tha hồ mà dấn thân vào đường này hay nẻo khác. Quả là phần lớn thời gian không thấy phần cuối con đường. Cái đích sự lựa chọn của chúng ta hiện giờ đang lẩn tránh chúng ta (và đôi khi mãi mãi), nhưng sự lựa chọn này là có thật. Tôi muốn tin như thế. Bởi vì nếu như chỉ có sự tình cờ thống trị, hay chỉ có số phận khắc nghiệt, thì sẽ không có công lý ở đời. Sẽ không ai chịu trách nhiệm và cũng không ai có tội. Và không chịu trách nhiệm hay không có tội thì cũng không phải nhờ tài cán gì. Trong việc này chỉ có nạn nhân mà thôi.

Quá dễ. Tôi không muốn giấu giếm, tôi không muốn lúc nào cũng lẩn tránh. Phô diễn trần trụi sự xấu xí của mình: điều này quả là khó. Sự chân thành luôn có cái giá của nó.

Thế là, lùi lại một tí, tôi có thể khẳng định là tôi đã từng đánh hơi thấy mùi máu trước khi nó chảy. Và tôi tự nhủ chính vì lí do này mà, sau khi đã suy nghĩ kỹ xong, tôi theo con đường này. Đường này chứ không phải đường kia.

Tôi không cần phải xin lỗi.

Thế nên, nếu chỉ để nêu thí dụ về ông thầy đó, ông Cyrillus, tôi không cần phải mất nhiều thời gian để thấy được kết cục của câu chuyện. Như ông biết đấy, một buổi sáng, người ta đã phát hiện ra một xác chết ở bụi cây trong công viên thành phố mà ông ta biết rất rõ. Cơ thể ông ta trần truồng và biến dạng. Một tội ác man rợ đã làm cả khu phố chấn động, đặc biệt là trường đại học nơi ông ta đã dạy. Ai có thể mong chờ một sự ghê tởm như thế, cho dù đã từ lâu, người ta đồn nhiều về những thói quen kỳ quặc của ông thầy, về những mối quan hệ mà không phải lúc nào cũng đáng noi theo.

Elmer nhỏ con tội nghiệp. Người ta không còn nghe giọng mũi của ông khắp các giảng đường nữa. Trên ghế đá, mỗi người bình luận một kiểu theo quan điểm riêng của mình. Tôi thu lượm đây đó một số chi tiết, một số mẩu chuyện khả dĩ có thể làm tôi mỉm cười nếu như tôi còn lòng dạ để cười. Tôi thì tôi im lặng. Tôi không cần phải khai báo gì hết. Chỉ có duy nhất một câu hỏi mà tôi đã có thể tự đặt cho mình vào thời điểm đó: Tôi có quyền làm cho câu chuyện xoay sang chiều hướng khác hay không?

Nhưng đề cập quá sớm đấy. Tất cả câu chuyện này chỉ diễn ra khi chúng tôi học đại học năm thứ hai. Trước đó, có một sự kiện trọng đại liên quan trực tiếp đến chúng tôi. Trước đó, có một cuộc gặp gỡ.

Ariel và Florence đã nhận ra nhau ngay. Florence không phải kiểu con gái mà nếu ở bên cạnh người ta không cảm thấy bối rối tí nào. Bây giờ cũng thế, cho dù ở nhiều khía cạnh, em đã thay đổi rất nhiều. Có một số người mà chỉ riêng sự hiện diện cũng đủ làm cho bạn xao động, kể các các giác quan và tâm hồn. Tôi không hiểu tại sao. Tôi không hiểu bản chất của cái mùi hương không tên mà những người đó tỏa ra, câu thần chú câm lặng về số phận mà họ truyền đến. Tôi chỉ biết là những thứ đó làm rung động. Như thế đó. Florence là con người như thế. Cũng như Ariel. Chính vì thế mà tôi nói về "sự nhận ra" giữa họ với nhau, chứ không nói về mối tình sét đánh hay tia chớp khác. Họ đã có thể ruồng rẫy nhau, như hai cực của những hòn nam châm giống nhau. Sau khi đã khinh bỉ nhìn nhau, thách thức nhau, căm thù nhau, đánh nhau, với cùng những vũ khí như nhau và vì một sự tự tôn.

Thoạt nhìn, họ rất hợp với nhau.

Hôm đó, bầu trời thấp lè tè, ánh sáng xám xịt. Các giờ học đã bắt đầu được ba tuần rồi. Vào giờ nghỉ  trưa, tôi và Ariel có thói quen nhâm nhi một mẩu bánh mua ở quán Xnachba trong trường. Có vài bàn đặt ở bên ngoài quán, phía trong sân. Do thời tiết thay đổi bất thường nên quán gần như vắng bóng người, một vài tờ giấy bay vật vờ, lẫn vào lá vàng rơi. Lúc đó là mùa thu. Và em ở đó. Florence. Như một thành phố đẹp.

Nhưng khi đó tôi còn chưa biết tên em.

Em ngồi một mình, không ăn uống gì cả. Em hút thuốc. Nếu điều đó không gây khó dễ cho tôi, tôi có thể nói là em chờ hắn. Tôi còn nhớ Ariel bỗng nhiên lặng người giữa lưng chừng cầu thang dẫn đến cái sân đó. Tôi nhìn theo ánh mắt của hắn. Tôi đã hiểu. Mắt em giấu kín sau cặp kính đen nhưng tôi biết em cũng đang nhìn hắn chằm chằm. Hai người nhìn nhau trong một phần của sự vĩnh cửu. Tôi nhìn người này rồi lại nhìn người kia. Như một con chó lúc lắc cái đầu. Từ lúc đó, tôi biết là tôi sẽ sớm đau khổ mà thôi. Tôi biết khoảng cách giữa em và hắn sớm thu thành một đoạn rất nhỏ, thu thành một kẽ hở trong đó tôi sẽ phải lẻn cả người vào. Tôi biết tôi sẽ phải thu mình bé lại, nhưng không thể thiếu, tôi biết mình phải cố bám víu để sống còn. Ai cũng có thể biết điều đó. Họ không cần trao nhau tín hiệu. Cô gái không nhúc nhích. Tôi chạm tay vào vai Ariel. "Cậu đi chứ?" tôi hỏi. Hắn nhìn tôi, vẻ không hiểu. Tôi nhắc lại: "Đi nào." Hắn nhúc nhích. Hắn chậm chạp đi theo tôi, đi như một kẻ mộng du. Chúng tôi vào trong quán Xnachba. Tôi mua hai cái bánh mì kẹp. Ariel dường như không nói nên lời. Hắn lả người trước quầy, mắt nhìn chăm chăm, khác hẳn với cú sốc mạnh mà hắn vừa phải chịu đựng. Đừng có nhầm: Thái độ của hắn không phải là lóa mắt vì tình, không phải là hoan hỉ, cũng không phải là bùng nổ bất ngờ và hân hoan của con tim. Không.

Không hề như thế. Nét mặt hắn hoàn toàn hoài nghi, không hiểu, thậm chí người ta còn cảm thấy lộ ra một sự lo sợ nào đó - thái độ mà người ta thường có khi một người thân tưởng như mãi mãi mất đi bỗng nhiên xuất hiện. Tôi chưa bao giờ thấy hắn ở trong tình trạng đó. Tôi phải kéo tay hắn thì hắn mới đi.

Và bây giờ, tôi thề rằng những gì tiếp theo là hoàn toàn có thật. Không giả tạo mà cũng không bịa đặt. Tôi lấy cái gì tôi quý nhất trên đời ra mà thề, tôi lấy đầu của những đứa con tôi ra mà thề.

Khi chúng tôi ra khỏi quán Xnachba, cô gái đó không còn ở đó nữa. Ở chỗ cô, đậu trên lưng ghế dựa mà cô đã ngồi là một con chim. Một con chim cổ đỏ. Tại sao lại là một con chim cổ đỏ ư? Tại sao đó không phải là con chim sẻ ngô ư? Tôi không biết.

Lần này, chúng tôi đồng thời bị bất ngờ khi nhìn thấy cảnh đó và sững người lại. Tôi nhìn con chim một lúc rồi quay về phía Ariel. Tôi chắc hắn cũng nghĩ như tôi. Tôi thấy ánh lửa lo âu cháy rực trong mắt hắn dần dần lụi tắt, sự băn khoăn của hắn bắt đầu tan biến. Tôi thấy hắn như nhẹ cả người. Rồi nụ cười phảng phất trên môi hắn; một nụ cười đồng lõa, nụ cười mà chỉ có những người am hiểu mới nắm bắt được. Nụ cười đó không phải dành cho tôi. Ariel nhìn con chim không rời mắt. Vết đỏ son trên màu trắng của chất dẻo, trên màu xám của bêtông. Mặc dù vậy, không ai trong vài ba nhóm sinh viên đang la cà gần đó để ý thấy điều đó. Không ai có vẻ chú trọng điều đó.

 

Rồi tôi thấy Ariel rời tôi và tiến gần tới con chim. Con chim vẫn đậu trên ghế, không hề tỏ ra sợ hãi, thậm chí không hề run cánh. Hắn và con chim giờ đã đối diện nhau, cách nhau hai bước, hẳn đang chuyện trò với nhau bằng ngôn ngữ mà chỉ có họ thông hiểu. Tôi do dự không dám đến gần họ. Tôi sợ sự có mặt đường đột của tôi làm cho cả hai sợ hãi và khiến cho sự kỳ diệu bị đổ vỡ. Tôi cảm thấy mình bất lực, bị bỏ rơi, ruồng rẫy. Đồng thời tôi nhận ra rằng đó là thời điểm then chốt, thời điểm mà số phận của chính tôi đang trong thế một mất một còn. Hoặc tôi cứ đứng trên bến mà nhìn họ xa dần trong đôi mắt nhòa lệ của tôi, hoặc tôi gò ép vận may của mình và cố lên thuyền bằng mọi giá, để cũng được đi theo. Lén lút như một kẻ cháy túi đi chui. Tôi đã quyết định. Tôi từ từ đi lại gần họ. Từ từ. Tôi thâm nhập phạm vi của họ. Tôi nhẹ nhõm cả người khi con chim không cất cánh bay xa. Tôi đứng đó, bên cạnh Ariel, hơi lùi một tí, ngoan ngoãn, bất động, lặng lẽ, tôn trọng cuộc đối thoại câm lặng mà giờ tôi chắc chắn là đang được kết nối giữa họ. Tay tôi vẫn cầm bánh mì kẹp. Sau một lúc lâu, Ariel lấy một cái bánh mà không quay đầu lại. Hắn bóp nát một miếng bánh rồi để cho những mẩu vụn rơi xuống bàn. Con chim chỉ nhảy một cú là đã đổi chỗ đậu. Quà đã nhận được. Nó bắt đầu mổ.

Làm sao tôi có thể quên điều đó, và nhất là làm sao tôi có thể không nhận ra điều đó?

 

Tôi chấp nhận rủi ro, là có thể bị xem là một kẻ ủy mị, một kẻ lãng mạn, bí hiểm, thậm chí bị coi là một người ngây thơ hay gì khác, nhưng tôi đoán chắc mình chưa bao giờ nhìn thấy một sự thông hiểu hơn giữa hai sinh vật. Đó là một điều kỳ diệu và xúc động vô cùng. Đó là một sự hiến thân thực sự. Bởi vì, khi nghiền nát cái bánh trong tay, rõ ràng là Ariel đang nghiền nát chính trái tim mình và hắn làm như thế là để đặt con tim mình vào tầm với của con chim, để thu nhỏ con tim đúng tầm với của những cú mổ nhỏ nhẻ của nó. Con chim cứ tha hồ đánh chén. Nó cứ tha hồ hút hết tinh chất của con tim cho no nê suốt cả mùa đông này và những mùa đông sắp tới.

Ồ! Đúng thế, đó là một điều rất lớn lao, đẹp đẽ và cao thượng.

Khi con chim cổ đỏ đã thỏa lòng thỏa dạ, nó nhảy nhót, xoay một vòng lạ mắt trước mặt chúng tôi. Rồi nó cất cánh bay đi. Rồi nó biến mất trên
bầu trời.

Chỉ còn vài mẩu bánh mì trên bàn. Và còn tôi với gánh nặng của mình. Chân tôi bủn rủn. Tôi ngồi xuống, ngả người xuống ghế. Trong người có bao nhiêu hơi tôi thở ra hết. Đó là một điều quá đẹp, quá thanh cao đối với tôi. Tôi dồn hết sức và nói: "Có phải là em không?"

Tôi còn chưa biết tên cô gái đó.

Ariel không trả lời. Một nụ cười là lạ vẫn phảng phất trên môi hắn, một nụ cười hiền từ, một nụ cười đầy sự mê ly thanh thản. Cái nụ cười chết tiệt đó đã kết liễu đời tôi!

Khi tôi mở mắt ra, sự im lặng bao trùm căn hộ như một dải sương mù. Tôi như đang bơi và nhỏ dãi lên cái tay ghế. Tôi cởi áo bludông ra rồi ngồi thêm một lúc, khuỷu tay tì lên đầu gối, hai tay ôm đầu. Tôi biết mình đã mơ.

Mơ những giấc mơ chớp nhoáng, cháy bỏng và nối đuôi nhau với tốc độ chóng mặt. Khi tỉnh dậy, không còn biết mơ những gì nữa, chỉ còn cảm giác chói lòa, nóng rát nơi võng mạc. Phải mất nhiều thời gian cảm giác đó mới tan biến. Tôi hài lòng vì đang ở nhà Marie, chứ không phải ở nhà mình.

Tôi đi xuống phòng tắm rồi tiến về phòng ngủ. Cánh cửa hé mở. Tôi khẽ gõ cửa một tiếng rồi đẩy cửa vào. Gian phòng vắng tanh. Một cái đèn tỏa ánh sáng màu xanh ở góc phòng, trong một góc khác là cây đàn viôlôngxen còn ở trong tấm bọc, được đặt trên một chiếc ghế mây. Giường vẫn chưa được dọn dẹp. Nệm lông trắng tinh vẫn còn lưu giữ dấu vết mờ mờ của cơ thể. Tôi không vào.

Marie ở dưới bếp. Đứng khoanh tay gần cửa sổ, đôi vai thu lại như thể cái lạnh đang xuyên suốt người em. Em hướng về bóng đêm ở ngoài, không nói lời nào khi tôi đến gần. Cái bàn một chân nhỏ xíu chễm chệ ngay giữa gian phòng. Trên đó có xệp giấy, trên xệp giấy là một cặp kính. Em đã đọc xong. Tôi chờ một lúc, rồi hỏi:

- Mấy giờ rồi em?

Giọng tôi lạc đi. Tôi hắng giọng.

- Em không biết, Marie nói. Mười một giờ, mười hai giờ gì đấy...

Tôi nhận ra em phải rất cố gắng để trả lời bằng một giọng nói gần như lấp lửng như thế. Trong khoảng im lặng tiếp theo, tưởng như có thể đào được một đường ngầm. Em không quay lại. Đèn báo màu vàng của ấm đun cà phê vẫn sáng.

- Anh đi pha tách cà phê đây. Em uống không?

Em lắc đầu.

- Không. Cảm ơn anh.

Tôi lục đục đi tìm tách. Tôi chuẩn bị rót cà phê thì Marie xoay người đối diện với tôi. Em nhìn tôi chằm chằm. Bờ mi em sưng đỏ. Vào khoảnh khắc đó, sự giống nhau hiển nhiên đến nỗi mà tôi bị hút hồn. Léna! Tôi nghĩ thầm. Tôi bắt đầu run rẩy. Run rẩy đến khi mà Marie vừa thở vừa thốt lên:

- Em xin lỗi...

Bừng tỉnh, miệng há hốc.

- Cái gì?

- Em xin lỗi, anh Alex ạ.

Đôi mắt em tràn trề thương cảm. Thánh Maria, Đức mẹ của tất cả những đứa con mồ côi trên trái đất chết tiệt này!

- Không, tôi nói. Anh, anh mới là người phải xin lỗi, Marie ạ. Em không biết anh giận mình đến mức nào khi làm khổ em như thế.

Ngay cả khi đó, tôi thấy những lời nói của mình cũng thật lạc lõng. Em thoáng mỉm cười - một nụ cười buồn mà tôi chưa bao giờ thấy.

- Anh đã cho em biết trước mà, em nói.

Tôi những muốn ôm em trong vòng tay lần nữa. Tôi không dám. Em hít sâu. Im lặng lại kéo dài. Trong khoảng im lặng đó, em quay mặt nhìn vào mênh mông bất định, như thể đang tìm kiếm cái gì đó ngoài tầm hiểu biết của em. Một cái gì đó bất định. Rồi em chớp mắt hai lần.

- Giờ thì em lại muốn uống cà phê, em nói rồi ra khỏi phòng.

 

Kể từ ngày đó, tôi đã tìm em, đi tìm em khắp nơi. Tôi đi hết các hành lang ở trường đại học. Tôi lùng khắp các lối đi trong trường. Tôi rình rập những cửa vào, lối ra của các giảng đường mỗi khi tôi không thể vào từng phòng học để nhìn ngó từng sinh viên có mặt. Vài ba lần, tôi tưởng mình đã thoáng thấy em đâu đó trong đám đông. Tôi vội vàng chạy tới. Hỡi ôi! Khuôn mặt mà tôi tưởng là em chỉ là một bản sao tái xanh và mơ hồ, một thế phẩm không hơn không kém. Không phải em. Chưa bao giờ là em.

Trưa nào tôi cũng quay lại nơi mà em đã tung cánh bay đi. Khó mà tưởng tượng nổi tim tôi đập như thế nào mỗi khi đẩy cánh cửa hướng ra cái sân ấy, khó mà tưởng tượng nổi hy vọng của tôi tràn trề như thế nào và sự thất vọng sau đó ê chề biết bao.

Có thể ai đó không tin nhưng thậm chí tôi đã lùng sục các bụi cây ở gần đó để xem có con chim cổ đỏ nào ẩn mình ở đó hay không.

Trong mơ tôi thấy mũi tên đỏ chót của nó xuyên qua đám mây u ám.

Trong gần một tháng trời, có thể nói tôi chỉ làm mỗi việc ấy.

Tôi tìm kiếm vô ích. Tôi như một kẻ do thám được cử đi khắp vương quốc để tìm gặp lại cô tiểu thư nông dân mà mình đã thoáng thấy trong một điệu valse, với những đường nét của một nàng công chúa đích thực. Tôi trở về tay không, cúi đầu trước cung điện. "Tâu bệ hạ, thần suýt đã..."

Nhưng không! Không! Thực ra không có sứ mạng, mà cũng chẳng có bảo kê. Không có vua cũng chẳng có hoàng tử. Cả Ariel cũng không. Tôi khẳng định mình làm như thế là vì hắn, như thể cuối cùng tôi đã có cơ hội để ban tặng cho hắn một món quà xứng đáng - một ý trung nhân trên một chiếc mâm bạc. Nhưng, tôi biết rõ mình làm thế vì mình và theo tiếng gọi của con tim mình. Tôi chỉ là kẻ do thám cho chính tôi mà thôi.

Ariel không bảo tôi làm gì hết. Thậm chí hắn cũng không đi tìm. Từ ngày đó hắn không nói về cô gái hay con chim nữa. Điều kỳ diệu đã xảy ra và dường như với hắn như thế đã là quá đủ. Hắn hãy còn thỏa mãn, còn hả lòng hả dạ rất lâu.

Ariel biết. Còn tôi thì không.

Ariel chờ ở Thời gian đã mất.

Hắn đã chọn quán cà phê trong khu phố cổ, gần tòa án. Thời gian đã mất. Tôi nghĩ ngay cái tên của quán cà phê cũng không làm hắn phật ý, và tính hỗn tạp của khách hàng cũng thế.

Ngày hay đêm, người ta có thể thấy trong quán nào là nhân viên của sở quản lý đường bộ, những người trồng rau, những ông bà hưu trí, những ông chủ ngân hàng thắt cà vạt, những kẻ thất nghiệp, một vài du khách, và nhất là sau khi màn đêm buông xuống, một đám sinh viên ồn ào. Một nơi rất mốt nhưng còn lưu giữ một chút thực tế nào đó. Chúng tôi đã lấy điểm này làm nơi găp gỡ.

Hai mươi tám ngày, để nói một cách chính xác, vừa trôi qua.

Một chu kỳ.

Năm giờ chiều thứ tư. Tôi vào phố mua sắm một số thứ. Tay tôi xách hai túi nhựa trong đó chủ yếu là bánh bích quy và sữa tươi. Tôi đẩy cửa Thời gian đã mất rồi tiến về phía chỗ ngồi quen thuộc ở góc phòng. Ariel đã ở đó, nhưng không phải một mình. Cô gái đó cũng ở đó. Người mà tôi đã cất công đi tìm. Người đã làm cho tôi mất ăn mất ngủ. Một cô gái chưa hề quen biết. Một con chim ưng. Nàng công chúa bị mất tích. Em ngồi bên cạnh Ariel và hai người đang nói chuyện như đã quen thân nhau từ lâu lắm rồi. Tôi sững người giữa gian phòng. Trong lúc nhúc và ồn ào huyên náo. Hai túi xách đung đưa trên tay tôi. Tôi bất động trên trái đất đang xoay. Tôi có thể đứng yên tại chỗ cho đến khi có ai đó đến thổi tung vụn xương tôi. Tôi có thể quay lại và cảm nhận luồng gió buốt giá ngoài trời. Tôi có thể cầm được nước mắt.

Ariel không ra hiệu cho tôi, hắn chỉ ngước mắt nhìn tôi. Cô gái quay lại. Em mỉm cười với tôi. Trong chớp mắt, tôi thấy tái hiện hình ảnh con chim cổ đỏ đang mổ vụn bánh mì. Chúng tôi có những gì mình cần: bánh bích quy và sữa. Tôi tiến tới. Ariel giới thiệu: "Florence, đây là Matthieu. Matthieu, đây là Florence." Chỉ có thế. Hai cái tên của chúng tôi đặt cạnh nhau, nối đuôi nhau. Sự vinh danh ngắn gọn. Tất cả những gì tôi có thể làm là khẽ gật đầu. Có. Có. Mình muốn. Có. Mình nhận lời.

Còn một cái ghế trống, tôi ngồi xuống.

 

Kể từ lúc đó, chúng tôi là ba người và ba chúng tôi đã đủ. Chúng tôi không chờ ai nữa.

Tôi đã nói ra điều cơ bản, có lẽ như vậy.

Florence hơn chúng tôi hai tuổi. Em đăng ký thi học kỳ như một thí sinh tự do. Em có tham gia một số buổi học. Dè sẻn thôi. Em còn những việc khác phải làm. Trong mắt em, sinh viên phần lớn là những oắt con vô tư và dễ thương. (Ariel gật đầu đồng ý). Em thuê một căn hộ chật hẹp ở một khu phố cổ trung tâm thành phố. Em phải trả tiền thuê nhà và những khoản khác. Em biết rất rõ thành phố này. Em rất hiểu đàn ông. Theo tôi, em đã trải qua nhiều cuộc đời. Em có thể chắp cánh bay đi, chúng tôi biết điều đó. Em rất mạnh mẽ. Không có ai khác ngoài Ariel có thể bắt được em. Nhờ hắn, nếu không tôi đã phải dành phần còn lại của đời mình để đi tìm Florence.

Florence và Ariel. Ariel và Florence. Xung quanh hai cái đèn pha này, xung quanh hai tinh tú sinh đôi này là sa mạc và bóng đêm.

Tôi vẫn không thể giải thích vì sao họ đã cho phép tôi ẩn náu trong vầng sáng của họ. Hơn thế nữa: Không những họ chấp nhận tôi, dung tha cho sự hiện diện của tôi mà còn kéo tôi ra khỏi hư vô và xem tôi là người của họ. Họ đã nuôi tôi khôn lớn. Họ đã cho tôi ăn và uống tinh chất của chính họ, họ đã sưởi ấm tôi bằng ngọn lửa của họ, họ đã làm tôi lớn hơn rất nhiều.

Họ không cần tôi, đó là một điều hiển nhiên mà chưa bao giờ họ cho tôi biết. Tôi những tưởng mình ngang hàng ngang lứa với họ. Tôi đã có thể nhắm mắt lại và thấy mình chói sáng mãnh liệt như họ. Giá như trong tôi không có một phần nào đó không muốn dối mình. Người thứ hai, thứ ba mà người ta hay nói.

Khi Florence viết: "Anh mà đòi yêu em, anh mà đòi làm cho em thỏa mãn à"... thì em nói với ai? Hãy cố trả lời câu hỏi này và những gì còn lại sẽ từ đó mà ra. Còn đối với tôi, hỡi ôi, học cách phân biệt là một việc gian nan nhất.

 

Đúng thế, kể từ đây, chúng tôi gồm ba người và họ xem tôi là người của họ. Ariel và Florence, Florence và tôi, tôi và Ariel. Hay cả ba cùng một lúc. Bấy nhiêu cấu hình có thể. Chúng tôi không rời nhau nửa bước. Căn cứ của chúng tôi là Thời gian đã mất. Có một số chỗ khác mà chúng tôi ưa thích là bờ biển đá cuội ("Bờ biển yêu tinh", Flo thường nói), dạo chơi ở đây dễ bị trật khớp chân như chơi, là trung tâm luyện tập cưỡi ngựa nằm lẩn khuất trong một vùng sa mạc thuộc Địa Trung Hải, cách thành phố khoảng mười lăm cây số. Hacienda. Florence rất thích ngựa. Em cưỡi ngựa một vài lần mỗi tuần. Đó là nơi mà tôi rất thích dạo chơi cùng em. Tôi rất thích nhìn em xoay người trên mình ngựa, vượt qua các vật cản, đứng thẳng người trên yên. Tôi thích được gặp lại em gần chuồng ngựa, nơi mà em tháo yên cho ngựa, chải chuốt lông ngựa; tôi thích giọng nói êm ái của em khi em hết lời khen ngợi con ngựa. Con vật gườm gườm khi thấy tôi đến. Tôi giật cả mình khi nó thở phì phò và khua chân, Florence thấy thế cười ồ lên còn tôi thì không mong gì đẹp hơn thế. Ngay lần đến Hacienda đầu tiên, tôi tự hứa với mình là sẽ tặng em con tuấn mã thuần chủng cùng những đồng cỏ xanh tươi. Cho đến bây giờ, tôi không cảm thấy nuối tiếc vì đã giữ được lời hứa.

 Khi Ariel có mặt, đúng là tôi thường tránh đi. Vô tình hay hữu ý.

Ngay trước khi hết quý một, tôi nhận ra là việc học hành của tôi năm này coi như công toi. Thỉnh thoảng tôi mới đi học, cốt để tự dối mình thôi. Tôi chẳng ghi chép gì cả, tôi không hiểu những gì giáo viên nói, tôi không quen biết những cô tú cậu tú ngồi xung quanh tôi, đó chỉ là nơi để tôi ngủ bù những đêm thức vì Florence, vì hình ảnh của Florence. Có một số giáo viên mà tôi chưa bao giờ nghe giảng. Sự quan tâm của tôi nằm ở nơi khác. Sự chú ý của tôi, suy nghĩ của tôi, trái tim của tôi, cuộc sống của tôi đang ở nơi khác. Chân trời của tôi không chỉ bó hẹp ở kỳ thi học kỳ sắp tới. Hạnh phúc của tôi chỉ là một sợi chỉ mong manh nối liền hai tinh tú cháy bỏng. Khi chúng tôi về nhà vào ngày nghỉ cuối tuần, thỉnh thoảng Florence về theo chúng tôi. Ariel để cho Florence lái chiếc xe Saab ; hắn ngồi bên cạnh em ; chỗ của tôi là ở phía sau. Luôn là như vậy, không phải thế sao ?

Trong khi tôi trở về với căn phòng của mình ở nhà bố mẹ tôi thì Florence qua đêm ở phòng của những người bạn sống trong khu biệt thự. Điều đó khiến tôi không thể nào chợp mắt. Tôi ở cách con chim cổ đỏ vài trăm mét theo đường chim bay. Tôi nghĩ đến em. Đến họ. Tôi tìm cách gặp lại hai người càng nhanh càng tốt. Những bữa ăn trưa ngày chủ nhật cùng bố mẹ đối với tôi là sự giày vò dai dẳng khôn nguôi. Sau khi ăn ngấu nghiến món tráng miệng, tôi vội vội vàng vàng đến ngay biệt thự. Tôi đi như chạy. Đầu óc tôi đầy những linh cảm và những tưởng tượng vớ vẩn giăng hàng trước mắt tôi theo nhịp chạy. Tôi luôn sợ mình đến quá muộn.

Tôi thấy hai người đang ngoan ngoãn ngồi trên ghế đu trong vườn. Chiếc ghế đu của chúng tôi. Tôi có vẻ ma mãnh, mặt đỏ ngầu, miệng phì phò như một con bò đực. Trong mắt Ariel ánh lên một cái nhìn láu cá. Tôi giả vờ lại vách đá ngồi ngắm cảnh từ trên cao, để lấy hơi và nguyền rủa sự ngu ngốc của mình. Cả buổi chiều chúng tôi ở với nhau. Đôi khi, tôi bắt gặp gương mặt của Weiss lấp ló sau cửa sổ. Tôi còn nhớ như in cuộc gặp gỡ đầu tiên của Florence và bố Ariel. Một buổi tối, chúng tôi vừa đến và cả ba đang ngồi trong phòng khách tầng một. Ông Weiss xuất hiện ở cầu thang. Chân trần, sơmi trắng. Ông bước xuống bốn bậc. Khi nhìn thấy Florence, nét mặt của ông gần giống với nét mặt của Ariel, ngày đầu tiên, tại quán Xnachba ở trường đại học. Có thể còn rõ nét hơn. Trong mắt ông có cái gì đó khó hiểu và sợ hãi. Ông quay về phía con trai, miệng há hốc, môi run run; tôi nghĩ kiểu gì ông cũng gào lên, nhưng không, ông chỉ lúng ba lúng búng: "tôi...", hay là "toi...", ai mà biết được? Rồi ông rơm rớm nước mắt.

Ariel nhìn bố mình như một tay thợ săn tiến về phía cái bẫy mà mình đã giăng.

Tôi đã nói là họ giống nhau về mặt hình thức chưa nhỉ? Florence và Ariel ấy. Thật là ấn tượng. Không thể chối cãi. Đó là một chi tiết phải ghi vào bộ nhớ. Tối hôm đó, tôi đã thấy một người già đi trước mắt tôi. Trong vòng chưa đầy một phút, Walter Weiss đã già thêm mười tuổi. Ông lại nhìn Florence; bây giờ tôi nhìn nhận chính xác hơn cái nhìn thực sự của ông ấy. Rồi rốt cuộc ông Weiss cũng rút lui. Ông bước lên cầu thang, chậm chạp, thụt lùi, mắt không rời Florence. Ông biến mất ở vòng xoắn cầu thang.

Từ đó, nhiều lần tôi thoáng thấy gương mặt nhăn nheo, già nua của ông phía sau cửa sổ. Khi có Florence ở đó, ông tìm cách lảng tránh.

Đến giờ, tôi vẫn không rõ trong những ngày nghỉ chớp nhoáng đó, Ariel có đưa Florence đi thăm phòng mình hay không. Hắn có nói với Florence về sự vận động vĩnh cửu và về hộp đựng xì gà hay không. Tôi đã không hỏi hắn về việc đó. Tôi thấy không biết lại hay hơn.

Tối chủ nhật, cả ba chúng tôi lại lên đường. Đêm. Một dải nhựa đường dài ngoằng trong ánh sáng của đèn pha. Chúng tôi nói chuyện với nhau rất ít. Chúng tôi có thể đi bất cứ nơi đâu, tôi cóc cần. Tôi ở đó. Tôi ở cùng với họ. Florence lái xe. Ariel ngồi bên cạnh. Và ở phía sau là "con chó" đang lắc lư cái đầu.

 

Marie giam mình trong phòng tắm hơn mười lăm phút. Tôi rót đầy hai tách cà phê rồi đặt lên chiếc bàn ở trong phòng khách. Sau đó tôi về chỗ của mình trên tràng kỷ. Tôi chờ, tai dõi theo tiếng nước chảy qua vách ngăn.

Marie đi ra, mình mặc một chiếc áo choàng rộng thùng thình. Chân trần, tóc ướt búi ra sau. Em nằm dài trên ghế bành, chân khép lại. Em thổi cà phê rồi uống một ngụm. Có vẻ như em không nhận ra là cà phê đã nguội. Tôi đoán chắc là tâm trí em đang tìm ra những lời giải đáp, tìm ra một lối thoát nào đó trong cảnh hỗn mang. Cuối cùng, em bĩu môi buột miệng:

- Em không hiểu...

- Anh không chắc chắn là mình có thể giải thích hết tất cả. Chưa đến lúc.

- Có thể nói là cái gã viết ra những điều ấy là một thằng điên.

- Đúng thế, Marie ạ. Đúng là như thế. Đó là một trường hợp lâm sàng. Một kẻ bịa chuyện. Một kẻ bị tâm thần phân liệt. Một tên bị bệnh về nhân cách, em muốn sao cũng được.

- Nếu thế thì yên tâm rồi.

Tôi nghĩ ai mà đụng đến hắn thì kết cục sẽ như vậy thôi. Sau đó, đúng như tôi đang chờ đợi, một loạt câu hỏi ùa tới.

- Người đó là ai? Marie hỏi. Matthieu là ai? Hắn có quan hệ gì với anh?

Tôi nói :

- Còn phức tạp hơn chúng ta tưởng, Marie ạ.

- Những câu chuyện quá đơn giản thì ai thèm quan tâm, Alex.

Thời gian suy nghĩ. Tôi cắn môi, không biết bắt đầu như thế nào. Marie tưởng tôi không muốn nói. Em nói tiếp:

- Alex, có phải anh đến cho em biết tin rồi sau đó tìm cách lẩn trốn?

Đôi mắt to tròn sáng long lanh của em nhìn vào mắt tôi.

- Không, tôi nói. Anh sẽ không bỏ rơi em. Lần này thì không.

Tôi dốc cạn tách cà phê, sau đó tôi nói :

- Matthieu không tồn tại.

Tôi dành cho Marie ba giây để nắm bắt được vấn đề rồi nói lại :

- Matthieu không tồn tại. Và người có tên là Ariel cũng không luôn. Chí ít là không phải như người ta tưởng. Họ không có sự tồn tại nào cụ thể. Đó là hai sáng tạo, hai nỗ lực hiện thân của một và chỉ một ảo ảnh, một thực thể, 10000 thực thể này cũng chỉ xuất phát từ bộ não của một kẻ tâm thần chó chết nào đó! Em hiểu chứ? Như thể thằng điên này lấy từ túi áo ra hai lá bài phăng-teo mà rằng: "Các người thấy đấy, có phải tôi đâu, họ đấy chứ!". Những lời xin lỗi chỉ là những lời xin lỗi!

Tôi đấm tay lên bàn. Tách cà phê của tôi rung lên. Lúc đó tôi nhận ra mình đã cao giọng. Một lần nữa, tôi cảm thấy mồ hôi vã trên trán. Nhìn vào nét mặt của Marie thì kẻ sa sút trí tuệ mà tôi tả chính là tôi.

Tôi nhắm mắt lại và ngả người trên lưng ghế.

- Xin lỗi em... Tôi thì thầm.

Không khí căng thẳng hạ nhiệt dần dần. Marie tinh tế chờ đợi mà không bình luận gì. Cuối cùng, tôi tiếp tục:

- Có vẻ điên rồ đấy, nhưng thế đó. Không những Matthieu và Ariel chỉ là một, như mặt trước mặt sau của một lá bài, mà sự tồn tại của họ không được xác thực. Người ta tưởng tượng ra họ thế thôi.

Tôi nhận ra những lời giải thích này tối nghĩa đến mức nào. Marie cố hiểu, cố nắm bắt những thông tin mới này.

- Những nhân vật chứ gì? Như trong tiểu thuyết phải không?

- Có thể nói như thế.

- Có nghĩa là chuyện này chỉ là... chỉ là hư cấu?

- Không. Thật không may là không. Lẫn lộn hết. Những nhân vật đó được phịa ra, nhưng phần lớn hành động của họ đã xảy ra thực sự. Những án mạng đã xảy ra thực sự. Những nạn nhân được tả là có thật. Vả lại, tên của họ đã không được thay đổi. Anh có thể xác thực một số yếu tố như thế. Có thể nói thằng đểu đó đã cố gắng thêm thắt một số chi tiết có thật, chỉ để người ta tin, chỉ để người ta lần theo dấu vết mà hắn đã vạch ra trong cánh rừng rậm rịt chết tiệt đó! Ngoài những chi tiết này ra, phần còn lại chỉ là những thứ rác rưởi. Hãy tự tìm kiếm đi! Hãy dò dẫm trong những bụi cây rậm rịt thì các người ắt sẽ tìm ra!

- Cái gì?

- Cái gì là cái gì?

- Có thể tìm ra cái gì? Dấu vết đó sẽ đưa chúng ta tới đâu?

Tôi phác một cử chỉ bâng quơ. Tay tôi thả lỏng trên đầu gối.

- Tới hắn, anh nghĩ vậy... Hay nói đúng hơn là: trong hắn. Ngay trong bộ não rối loạn của hắn. Tận sâu trong bóng đêm u tối của hắn!... Đó là câu trả lời mà anh thấy có thể chấp nhận được. Điểm xuất phát cũng là hắn, điểm đến cũng là hắn. Câu trả lời đó khá phù hợp với nhân cách của hắn.

- Hắn? Marie hỏi. Hắn là ai? Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi đầu tiên của em, anh Alex: Nếu tên Matthieu này không có thật, thế... "kẻ bị tâm thần chết tiệt" đó là ai? Ai đã viết cái đó?

Tôi cảm thấy day dứt khi nêu tên hắn trước mặt em. Như thể thực sự đã đến lúc cầm tay em để cùng thực hiện một cú nhảy rất xa.

- Hắn tên là Édouard Dayms, tôi nói. Hắn đã từng mang tên đó.

- Đã từng ư?

- Hắn đã chết. Tự sát. Anh đã tìm thấy thi thể của hắn mới hôm qua.

Marie ngoảnh mặt đi, hai chân khép lại.

- Thế thì, Marie thở phào, không thể nói là anh trở về tay không!

- Anh thì...

- Không, em vừa nói vừa lắc đầu. Anh đừng có đụng tí là xin lỗi. Em xúc động. Em rất xúc động khi anh tìm đến với em.

Tôi nhìn Marie chằm chằm. Tôi nói:

- Anh không còn ai khác, Marie ạ.

Một lần nữa Marie ngoảnh mặt đi. Gương mặt mịn màng. Cổ dài như thiên nga, trắng trẻo và mảnh dẻ. Điệu bộ quý phái. Tất cả những câu chuyện đầy hình ảnh này rất hợp với em. Đứng cạnh em, tôi cảm thấy mình nặng nề, bẩn thỉu, xấu xa. Một biến cố bất ngờ.

- Anh xem đấy, em có biết bao nhiêu là câu hỏi lúc nhúc trong đầu, Marie nói tiếp. Tốt hơn hết là anh kể cho em nghe. Kể một cách chi tiết. Anh nghĩ là mình có thể làm được chứ?

Cửa sổ vẫn còn mở. Một phần tư mặt trăng xuất hiện phía trên cánh cửa, bị che phủ bởi những đám mây xám xịt và lùng nhùng. Giống như ánh đèn trên tấm kính. Marie chờ đợi. Tôi nhìn xuống cái túi nhựa nham nhở bên cạnh.

- Anh sẽ cố gắng, tôi nói.

 

Những sự việc đó xảy ra ở thế kỷ khác. Chúng diễn ra lùi lại mười lăm năm. Hồi đó, tôi đã là một cảnh sát già dặn. Theo hộ tịch thì tôi ba mươi sáu tuổi, nhưng gần một nửa số năm ấy ở trong nhà giam. Một số quãng thời gian được tính gấp đôi, thậm chí gấp ba. Một số quãng khác lòng vòng không dứt. Không ngừng tí nào.

Trước tiên, tôi buộc phải nói qua về cuộc đời tôi.

Nhìn chung, quãng đời mà tôi đã đi qua không có gì độc đáo lắm. Mười tám tuổi, tôi chuyển thẳng từ học viện âm nhạc sang trường cảnh sát. Từ những nút ngà sang báng súng bằng kim loại. Có trở lại những động cơ của tôi thì cũng chẳng để làm gì.

Kể từ đó, tôi theo dốc mà đi. Lúc đầu là lên cao. Chính đấu trường là nơi tôi chứng tỏ được mình, nhờ thế tôi được lên lon. Tôi là một cớm giỏi. Tôi có năng khiếu. Đặc biệt, tôi có niềm tin. Chưa bao giờ ngần ngại lao vào cuộc, đơn giản là bởi vì tôi tin vào chính nghĩa. Niềm tin: tôi nghĩ đó là điều tối thiểu phải có khi phải chĩa súng vào một thiếu niên nghiện ma túy mười bốn tuổi đang trên đà xuống dốc, tay cầm dao rựa, hay chĩa súng vào một kẻ hám lợi mặc đồ trắng đang bán thuốc phiện cho thiếu niên đó. Tôi đã có thể làm được. Tôi đã có thể bóp cò nếu cần thiết, nếu chắc chắn là mình đang bảo vệ người vợ góa chồng, đứa con côi cút và sự an bình của thế giới. Một anh lính vì hòa bình.

Sau này, tôi cũng đã có thể làm như thế. Nhưng không có mối bận tâm nào khác là tự cứu lấy mạng của mình, và bảo vệ những thành quả của bản thân.

Đồng thời, tôi không thể nói chính xác điều gì đã xảy ra. Có hay không một lúc cụ thể nào đó mà tất cả đã lung lay, đổ vỡ. Tôi không tin. Người ta thường buông xuôi một cách từ từ và với một sự thoải mái nào đó. Phải để cho ý thức có thời gian thích nghi với hành động, một cách chậm rãi, nhẹ nhàng.

Sau mười hay mười hai năm trong nghề, tôi thuộc lòng những cống rãnh của xã hội. Bởi vì, gần như một cách tự nhiên, bên kia bờ dốc dẫn tới những cống rãnh đó. Tất cả diễn ra ở đó. Chí ít là về phần tôi. Vì cứ muốn vớt vát phần mình, tôi có thể nhắm mắt mà vẽ cái hệ thống dơ dáy đó. Kể cả những phân nhánh nữa. Tôi đã thấy quá nhiều thứ, đã nghe quá nhiều điều nên có thể biết rõ hệ thống đó vận hành như thế nào. Tôi đã nhấn chìm sự ngây thơ, khờ dại, sự liêm khiết, niềm tin của mình ở đó. Tất cả những thứ ấy ngày càng xa lìa tôi như những vảy da hoại tử trôi theo dòng nước uế. Tôi đã quen với bóng đêm của những đường hầm và mùi hôi thối trong đó. Tôi có thể nêu tên và nắm chân của từng con chuột từ đó ngoi lên. Tại sao ư? Bởi vì từ giờ trở đi, tôi là người của chúng, ngay cả khi tôi không quan niệm điều đó một cách sống sượng và hiển nhiên như thế. Cả thập kỷ tôi đã ngụp lặn trong bùn, và tôi đã bắt đầu ham thích. Lỗ của tôi đã đào xong, nó nằm giữa đáy trũng. Cái ổ của tôi.

Tất nhiên, tôi tiếp tục công việc của mình, tiếp tục truy bắt những kẻ độc ác - một cách hiệu quả là đằng khác, khi tôi cố gắng. Nhưng kinh nghiệm chỉ bảo cho tôi ít nhất hai điều căn bản: lựa chọn và thỏa hiệp. Kẻ ác ở khắp nơi mọi chốn; rốt cuộc, người ta nhận ra là vô bổ biết bao nhiêu, kiêu ngạo biết bao nhiêu khi nghĩ mình có thể quét sạch bọn chúng. Thế thì phải lựa chọn. Ở đây, bất cứ kẻ nào có chút lương tri cũng chỉ có đúng một con bài: trong lũ người ghê tởm chuyên gặm nhấm này, có những kẻ có ích cho chúng ta, rồi còn có những kẻ khác nữa. Với hạng người đầu tiên, chúng ta thỏa hiệp, với hạng người thứ hai, chúng ta tiêu diệt.

Khi đeo lon quận trưởng, người ta có quyền lựa chọn. Nhưng đó là sự lựa chọn duy nhất mà người ta có, duy nhất, đừng có tưởng bở.

Tôi nghe tiếng ai đó kêu lên phản đối, tôi nghe những câu chửi tục: "thối nát", "tha hóa" v.v... Không đơn giản thế đâu. Ai lại đi trách một bác sĩ nào đó vì ông ta đã bị lây bệnh khi chữa bệnh? Ai dám cho rằng đó là bằng chứng cho thấy sự thiếu trung thực và sự vô dụng của ông ta?... Cảnh sát thường thao diễn trong một thế giới mà anh ta phải biết cách hòa hợp. Anh ta ngụp lặn. Chìm đắm hoàn toàn. Đến nỗi mà mặt nước mỗi lúc mỗi rời xa, mỗi lúc mỗi mờ đục. Rốt cuộc ta cũng quên là nó tồn tại. Quên ở phía trên còn một thế giới khác. Rốt cuộc người ta cũng không biết bầu trời màu gì nữa.

Không ai, hoặc gần như thế, có thể trốn tránh quy luật.

Tôi cũng đã trục lợi. Không hơn không kém. Lợi dụng chức vụ của mình, thậm chí chưa đến mức lạm dụng - tôi chưa bao giờ hoang tưởng. Thói quen của tôi phụ thuộc vào đẳng cấp khiêm tốn của tôi. Như thế đã quá đủ. Một số con nợ bảo đảm cho tôi có cái ăn cái ở, được đặt bàn ăn ở những cửa hàng sang trọng, nơi mà tôi được gặp những bậc đại gia sống trong khu phố cổ nơi tôi ở. Tôi không cần quần áo chỉnh tề. Đêm tôi thường ngủ trên một tấm thảm dạ phớt, trong phòng sau cửa tiệm ngụt khói hoặc trong phòng khách sang trọng của một vị dân biểu nào đó. Tôi đặt cược ở đó khoản lương phụ cấp của mình, hàng ngày tôi nghiến răng nghiến lợi trích ra một khoản tiền nhỏ. Chơi thì phải thế.

Trong những năm tháng đó, tôi đã bắt đầu uống rượu. Uống cầm chừng thôi. Cốt để giữ cho cái đầu được lạnh, cốt để nhấn chìm những âm vang xa xôi phát ra từ ý thức tội nghiệp của tôi, một cái lương tâm đang thét gào với kẻ phản bội. Rượu như một chất kích thích khả dĩ biến màu xanh lục thành màu hồng. Cũng chẳng có gì độc đáo cả.

Thật là thảm hại, nhưng đó là cuộc sống của tôi. Và tôi cảm thấy thoải mái. Sướng như tiên. Những tưởng điều đó sẽ kéo dài mãi mãi - phần lớn trường hợp là như thế: Mỗi khi đến giai đoạn này, người ta thường ổn định và cứ thế lần ra lối thoát cuối cùng. Về phần tôi, tôi có thể nói rõ ngày mà mọi chuyện kết thúc. Buổi sáng tháng Mười, vào lúc bình minh. Ngày mà tôi sẽ chết.

Bởi vì tôi cũng phải nói về Léna. Và về những thiên thần.

Những kẻ ngu ngốc như tôi chỉ hiểu những cú đánh đấm mà thôi. Sự đau đớn. Chỉ khi nào mắt bị thủng thì họ mới bắt đầu nhìn thấy. Tất nhiên là đã quá muộn. Không còn ai để thấy, cũng chẳng còn gì để thấy. Nếu không phải là cái mõm khốn nạn của chính mình.

Khi Hélène xuất hiện trong đời tôi, nàng xấp xỉ mười lăm tuổi. Nàng vừa "làm tình" với Rachmaninov trước khoảng ba mươi người, ba mươi người sững sờ, đờ dại. Không hổ thẹn, không ý tứ, với một sự hăng say mãnh liệt xuất phát từ tình yêu lẫn cuộc chiến đấu chí mạng. Thêm một điều mà mãi sau này tôi mới hiểu. Chính tôi cũng chưa đến mười bảy tuổi và tôi chẳng biết gì về ân ái cả. Hiến thân cũng không. Chuyện đó xảy ra trong giảng đường của nhạc viện. Khi Hélène đã buông phím đàn, một sự im lặng bao trùm sau đó. Cũng chẳng có ai vỗ tay hoan hô. Tôi thấy ông thầy già hiếu chiến ngáp dài. Bản thân ông ta cũng đang hoàn hồn. Tôi gần như chắc chắn là đúng vào ngày đó, tôi đã quyết định không chơi piano nữa. Hélène học trên tôi hai lớp. Chúng tôi định học nhạc với nhau. Cái cớ lý tưởng để đến nhà nàng chơi vào những buổi chiều mùa đông, trong một căn hộ mà không khí làm cho tôi rất vui thích. Tôi thích ở đó. Mẹ của Hélène, bà Doukas, tiếp đãi tôi như một hoàng tử thất thế, lưu vong. Tôi bấm chuông là bà mở cửa và kêu lên: "Các con ơi, Alexandre đến!". Tôi thích bà kêu tên tôi với giọng miền Đông ngọt ngào ấy. Trước đây, bà đã từng là diễn viên múa balê, giờ bà vẫn còn giữ được dáng dấp và điệu bộ đi lại như nhón gót trên mười đầu ngón chân. Quê bà ở Budapest. Chồng bà cũng thế. Chồng bà là nhà vật lý thiên văn - là chuyên nghiên cứu về sao ấy. Ông chết trong một tai nạn tàu hỏa hai năm sau khi đến Pháp, và hai tháng trước khi Hélène chào đời. Bà Doukas gọi tôi là anh và năn nỉ tôi gọi bà là Anna. Tôi có thể ép mình nuốt thứ trà vừa đen vừa đắng mà bà liên tục mời tôi, tôi không phải trả giá quá đắt để có chỗ trong nhà họ. Giờ tôi vẫn tin là bà rất mến tôi.

Chủ nhật, Anna Doukas hoán cải thành nhà chiêm tinh. Bà có một quả cầu pha lê thật, thỉnh thoảng, bà mời tôi ngồi phía sau quả cầu pha lê đó. Số phận mà bà tiên đoán cho tôi chỉ toàn may mắn và thành công. Con đường hạnh phúc trải dài bất tận trước mặt tôi. Những lời tiên đoán may mắn. Nếu bà thực sự đọc được tương lai, có lẽ không bao giờ bà mời tôi đến nhà nữa. Có lẽ không bao giờ bà cho phép tôi bén mảng đến những người con gái của bà, dù cách cả một dải thiên hà. Chính từ miệng bà mà Hélène trở thành "Léna" và Marie trở thành "Maria". Đó là những cách gọi chứa đựng biết bao yêu thương.

Hoặc là những người láng giềng sống trong chung cư bị điếc, hoặc họ là những người mê âm nhạc. Chưa ai có lời ra tiếng vào bao giờ. Khi Hélène chơi nhạc, khi những ngón tay của nàng lướt trên phím đàn, thế giới không còn như cũ nữa. Bất cứ bài tập nào, bất cứ gam nhạc nào của nàng cũng mang một giai điệu có khả năng làm cho chúng ta bay cao bay xa. Những bản nhạc khó về kỹ thuật mà tôi phải mất hai tuần làm việc cật lực liên tục mới vượt qua được thì nàng chỉ mất chưa đến hai tiếng đồng hồ. Nàng chơi dễ dàng biết bao nhiêu! Điêu luyện biết bao nhiêu! Đó không chỉ nhờ tài năng. Hélène có năng khiếu thẩm thấu âm nhạc để rồi sau đó có thể trình bày lại. Đó là sự khác nhau cơ bản giữa một tay thợ thủ công, dù anh ta có khéo léo đến mấy, và người nghệ sĩ. Cho dù Hélène chơi nhạc phẩm nào đi chăng nữa thì nhạc phẩm đó cũng trở thành tác phẩm "của nàng".

Tôi chỉ còn nước ngồi xuống và thả mình theo điệu nhạc. Căng tai ra, mở to đôi mắt, mở rộng trái tim. Tất cả những gì tôi được ban tặng là vẻ đẹp và sự hài hòa. Ngoài kia là mùa đông, là gió, là mưa. Là lạnh giá. Tôi ở đây suốt cả buổi chiều.

Marie ở đâu giữa tất cả những thứ đó? Nàng ở đó và tôi không quên. Maria dịu dàng, kín đáo. Đó là bản chất của em. Léna là vầng dương, Maria là ánh nguyệt. Hai chị em khiến tim tôi bỏng cháy. Vào lúc đó, hình như chưa có gì chắc chắn. Marie là chị cả. Em cùng tuổi tôi. Khi nghĩ đến điều đó, tôi buộc phải chấp nhận là giữa Marie và tôi có nhiều điểm chung hơn là giữa tôi và Hélène. Hélène quyến rũ tôi, nhưng chính trong ánh mắt sáng ngời của Marie tôi mới tìm thấy sự yên bình. Một ánh sáng khác, một hào quang khác. Tôi khát khao được đắm mình trong đôi mắt đó. Khi hai chị em chơi với nhau, tôi là hoàng tử lưu vong hạnh phúc nhất.

Vâng, tôi có thể nói về thuở "hàn vi". Ba người chúng tôi. Không phải trong khu vườn rộng mênh mông, trước biển khơi, chuyện trò trên ghế đu, mà trong phòng khách một căn hộ cũ rích, giữa một cây đàn piano và viôlôngxen.

Không bao giờ nên tách rời các yếu tố.

Bà Anna Doukas đáng kính đã đi gặp chồng mình trên những vì sao trước khi nhận ra những tiên đoán của bà sai lầm biết bao nhiêu. Bà là người duy nhất không để cho tôi có thời gian làm cho bà thất vọng.

 

Những ngày đẹp trời, chúng tôi làm như những chàng trai cô gái cùng trang lứa: chúng tôi đi biển. Những khu phố mùa hè. Nơi mà chúng tôi thích nhất là một vũng nhỏ bị kẹp giữa những hốc đá. Sỏi hồng và be. Đủ chỗ cho cả ba chúng tôi. Người ngoài cứ tưởng vũng đó là của chúng tôi. "Bãi biển yêu tinh" là có thật. Léna đã đặt tên như thế.

Quỷ thật.

Nếu chúng tôi không ở bên bờ biển, thì chắc chắn là đang ườn mình sưởi nắng ở bờ hiên nào đó nơi bến cảng. Giờ tôi vẫn còn cảm nhận được dư vị của nước chanh Gambetta. Tôi còn cảm thấy nắng táp lên da thịt mình. Tôi ngồi giữa hai chị em. Tôi những muốn choàng tay ôm lấy cả hai. Vòng tay bá cổ hai chị em. Tôi biết một số người tưởng cả hai cô gái đều thuộc về tôi. Tôi không phản đối. Hẳn đó là ước muốn lớn nhất của tôi. Ngay cả trong những giấc mơ của tôi, gương mặt của hai chị em cũng lẫn lộn nhau - có Chúa mới biết tôi đã mơ bao lần. Tôi cảm thấy ngực tôi đủ rộng để cả hai chị em ngả đầu lên đó. Nhưng thực tế là tôi chưa sở hữu được cô nào.

Cuộc đời đã rành rọt với chúng tôi. Bệnh viêm họng tác quái, tuy không nghiêm trọng nhưng đã khiến Marie phải nằm liệt giường vài ngày. Ngay giữa tháng Tám. Chỉ cần tí chút thôi là mọi việc đã thay đổi. Sự cân bằng bị phá hủy. Hélène và tôi cặp kè với nhau. Tò mò. Quyến rũ. Xác thịt.

Sự thể đã diễn ra như thế.

Tôi thường tự hỏi: Marie đã thực sự hết đau họng chưa? Em vẫn luôn tỏ ra gương mẫu. Không khi nào em khiến cho sức nặng của tội lỗi và của sự phản bội đè nặng lên chúng tôi. Em đã không đấu tranh. Em đã hi sinh mình, đầu ngẩng cao, nụ cười phiền muộn trên môi. Em yêu mến chúng tôi. Tưởng chừng như chưa có gì thay đổi. Gần như thế.

Điều mà tôi biết, đó là ba mươi năm sau, con tim em vẫn mãi cô đơn, và tôi vẫn luôn thấy lòng bình yên khi nhìn vào đôi mắt trong sáng của em.

Tôi đã lấy Hélène. Chúng tôi còn trẻ. Chúng tôi đã quá nóng vội. Tôi đã đi làm và đồng lương ít ỏi của tôi chỉ cho phép chúng tôi thuê một gian phòng ba mươi mét vuông sát mái nhà. Trong căn phòng ấy chỉ có mỗi cái giường đôi và một cái đàn piano nửa cánh sơn đen. Đêm, ân ái xong là vợ tôi lại dậy chơi đàn. Tôi thiu thiu ngủ trong điệu valse của Chopin, trong bản sonate của Bach, trong mắt tôi in dấu hình ảnh của Hélène ngồi trên ghế đẩu, xoay lưng lại, trần truồng, tuyệt đẹp.

Chúng tôi đã từng hạnh phúc.

Đó là thời mà tôi còn tưởng tượng Hélène trên sân khấu. Nghệ sĩ dương cầm được mến mộ. Hàng nghìn người hâm mộ và hoa hồng phủ phục dưới chân nàng, trên những sân khấu lớn nhất của hành tinh. Đến giờ tôi vẫn tin là nàng có khả năng. Nhưng thời đó nàng không màng tưởng đến. Tiền bạc, vinh quang không khiến nàng quan tâm. Nàng thường nói là nàng chỉ yêu nhạc và tôi. Nàng thường nói tôi là khán giả duy nhất xứng đáng, khán giả duy nhất mà nàng sẵn sàng chơi, chơi, chơi nữa và dâng hiến tất cả. Tất cả những điều ấy, nàng nói với tôi thành lời, nàng nói với tôi bằng những ngón tay, với những phím đàn. Làm sao nàng có thể nói dối được?

Nàng muốn có con với tôi.

Léna muốn cho tôi những gì tốt đẹp nhất. Những đỉnh cao chói lọi. Nàng có thể đưa tôi lên cao bằng tình yêu, bằng âm nhạc và bằng tất cả những gì nàng có và chia sẻ với tôi. Chỉ cần tôi đồng ý đi theo nàng. Chỉ cần tôi có cùng sở thích, cùng hy vọng, cùng mục đích. Cùng ánh mắt nhìn lên đỉnh cao. Trong một thời gian, tôi đã có những thứ ấy. Và sau đó tôi đã buông xuôi. Hélène đã phải đợi chờ sáu năm mới được làm mẹ. Đào sâu trí nhớ, tôi có thể nói là tôi đã cho nàng đứa con đó, đứa con đầu tiên, để bù đắp cho nàng. Như một cách để tự khôi phục danh dự.

Tôi đã bắt đầu xuống dốc. Cuộc đời cảnh sát níu giữ tôi lại. Mỗi lúc tôi càng ít có mặt, càng ngày tôi càng ít rảnh rỗi, về thể chất cũng như về tinh thần. Tôi kéo lê những tối, những đêm. Khi tôi về nhà, Hélène giả vờ ngủ trên phần giường của mình, còn tôi giả vờ tin như thế. Cây đàn piano lặng tiếng cả tuần. Đơn giản thôi, Hélène quay đầu lại và nhận ra giờ nàng đã trắng tay.

Về phần tôi, tôi đã đặt lên tay nàng trọng lượng của đứa con.

Đó là một thằng con trai. Chúng tôi đặt tên nó là Étienne, cái tên bắt nguồn từ triều đại của các nhà vua Hungari lâu đời. Một cách tưởng nhớ cội nguồn và là một món quà tưởng nhớ đến Anna Doukas vừa mới qua đời.

Mattéo, thằng con thứ hai, sinh ra mười tám tháng sau. Étienne và Mattéo. Hai thằng con trai. Hai thiên thần của tôi... Bao nhiêu năm sau, nói thì dễ thôi. Quyền gì mà tôi có thể gọi chúng như thế? Léna đã một mình nuôi nấng chúng. Nếu có lúc nào đó, nàng tin là việc chúng ra đời sẽ làm cho tôi sáng mắt ra và sẽ khiến tôi gượng dậy, thì quả nàng đã nhầm. Tôi đã tiếp tục sa sút. Hélène trút tất cả lên đầu hai thằng con: sự hăng say, niềm hi vọng, cơn thịnh nộ. Một buổi tối, tôi về nhà và thấy cây đàn piano đã biến mất. Nàng đã vứt bỏ cây đàn mà không hề nói với tôi. Một hành động đầy ẩn ý. Âm nhạc đã bị đẩy ra phía sau, đến với một cuộc sống khác, một phạm vi khác, trên nhưng cái giá ở trong gian phòng chật hẹp, nơi mà những ảo tưởng, ước mơ đã mốc meo, tan vỡ. Tôi đã hiểu.

Tôi đã trở thành một luồng gió. Hélène nuôi con của chúng tôi khôn lớn còn tôi thì phung phí thời gian của mình với đám lưu manh, đầu trộm đuôi cướp, những kẻ tranh giành quyền lực. Tổ ấm của tôi, đó là thành phố và vùng ngoại ô. Còn gia đình đích thực của tôi ư? Tôi biết con cái của những người buôn cát trong phố còn hơn con của chính mình.

Sự tự do giả tạo này, tôi mua nó bằng những món quà. Trang sức, đồ chơi, hàng đểu. Hai tay bưng đầy quà và phân phát thì có khó gì đâu. Ông già Noel xuất hiện - khi nào cũng không đúng lúc. Cầm lấy, các con yêu, cầm lấy, cứ như thế đã, đợi lần tới nhé! Tiện nghi vật chất làm cho người ta lóa mắt. Đó là tất cả những gì tôi có thể cho các con tôi. Mấy thằng nhóc nhận quà nhưng Hélène thì không. Váy, áo lông, giày dép chất đống trong tủ tường, nguyên xi; một cái hộp nhỏ bằng gỗ mun đựng đầy nhẫn và dây chuyền chưa bao giờ đeo.

Tôi còn nhớ một buổi tối Noel, khi mà cả ba, - cả bốn, tính cả Marie - còn ở trong ngôi nhà mà rốt cuộc tôi đã bỏ tiền ra mua. Khoảng mười hộp quà chất đống dưới gốc cây thông. Thế là tôi tưởng đã mua được cái quyền ở xa nhà vài cây số vào giờ ấy, dưới ánh đèn nêông trong kho hàng hóa, để bật sâmpanh với năm sáu tên buôn lậu người Bỉ và mấy cô gái.

Trong kho hàng có một trăm hai mươi sáu tấn tivi, đầu video và thiết bị hifi đã bị biển thủ. Hai tháng sau, những kẻ buôn lậu người Bỉ đã bị bắt giam. Nhờ công của tôi. Có thể các con tôi vẫn luôn chờ ông già Noel về nhà mở quà. Đây chỉ là một ví dụ trong nhiều ví dụ khác.

Bức ảnh, bức ảnh đáng nhớ ấy chỉ là cái mẹo thôi. Một chi tiết trích ra từ toàn cảnh bức tranh. Ngoài bối cảnh. Người ta chỉ thấy trên đó một hòn đảo nhỏ đầy ánh nắng mặt trời và cỏ cây hoa lá nhìn từ cận cảnh; cánh đồng hoang không xuất hiện. Chắc chắn vì thế mà tôi đã giữ tấm ảnh đó.

Bức ảnh đó được chụp vào một buổi sáng ngày 25 tháng Mười hai. Thêm một mùa Giáng sinh. Thêm một mùa khác. Cả ba đang ở trong phòng khách. Étienne và Mattéo mang bộ đồ của quận trưởng. Mũ, thắt lưng, súng ngắn, một ngôi sao bạc gắn phía sau bộ pyjama. Mattéo ngắm bắn một tên cướp tưởng tượng với khẩu súng côn của mình.

Để mua vui thôi. Léna quỳ sau lưng hai con. Đặc biệt, nàng mang bộ trang sức mà tôi đã tặng nàng. Một đôi khuyên tai bằng thủy tinh rất đơn giản nhưng có một màu xanh rất đặc biệt. Nàng đã lấy dưới gốc cây thông. Hẳn đó là trang sức duy nhất không có giá trị mua bán mà nàng sở hữu. Tôi chưa bao giờ nói với nàng là tôi đã lấy đôi khuyên tai đó trong một lần khám xét nhà một con đĩ - bồ của một tên buôn lậu. Tôi lấy đôi khuyên tai ấy vì nghĩ đến nàng. Vợ tôi. Đôi khuyên hợp với nàng tuyệt vời. Vì màu mắt nàng.

Marie là người chụp ảnh. Một tay Hélène đặt lên vai Étienne. Nàng không nhìn vào ống kính. Mắt nàng hơi nhìn sang một bên. Về phía tôi. Nàng nhìn tôi. Tôi ngồi trên tràng kỷ và cũng nhìn nàng. Tôi còn nhớ như in khoảnh khắc đó. Tôi nhớ bỗng nhiên lúc đó tôi muốn khóc khi chợt hiểu ra. Hiểu  ra hai chúng tôi xa nhau đến mức độ nào. Tôi đã sai đường lạc lối đến mức nào. Tình hình bi đát đến mức nào. Có những thứ tuyệt vời trong tầm tay tôi, nhưng tôi lại không muốn hoặc không biết cách nắm bắt lấy.

Tôi ở đó nhưng tôi không xứng đáng có mặt trên bức ảnh.

Léna mỉm cười. Nàng không để lộ ra điều gì hết. Phải hiểu nàng như tôi hiểu nàng thì mới có hy vọng đọc được trong mắt nàng những đau khổ mà tôi đã gây ra. Cũng chính vì thế mà tôi đã giữ bức ảnh này: để không bao giờ quên tội lỗi của mình.

Mắt Hélène không nói dối. Một cách nào đó, chúng là một tấm gương nghiệt ngã, tấm gương đó phản chiếu hình ảnh mà tôi không chịu nhìn thấy: hình ảnh của một đồ tồi, một kẻ bất đắc chí, một thằng chồng khốn khổ không xứng. Có thể từ lúc đó, tôi đã bắt đầu giận nàng. Sự khinh bỉ, sự chán chường, nỗi căm hờn mà cuộc sống đã gợi lên cho tôi, tôi trút cả vào nàng. Và nàng đã khổ sở vì
điều đó.

Thay vì cố gắng chuộc lỗi, tôi lại lún sâu hơn nữa. Tôi đã uống rượu cho thỏa cơn khát. Tôi đã chơi cho tận tháng ngày. Ba ngày tôi mới về nhà một lần, say mèm, cốt để vứt quần áo bẩn lên thảm và tuôn ra những lời chửi bới độc địa. Hết quà. Hết cái gùi kỳ diệu. Chỉ còn sự hằn học, chán chường. Nàng chịu đựng mà không hé môi nói nửa lời. Lạ lẫm. Lãnh đạm. Nàng tự vệ theo cách của mình, và chở che mấy đứa nhỏ.

Mùa đông vừa qua, một cảnh tượng kinh hoàng đã diễn ra. Không biết tôi đi đâu về, vẫn chưa tỉnh rượu. Hélène đang ngủ, hoặc đang giả vờ ngủ. Tôi nhảy xổ lên người nàng như một con thú động dục. Thậm chí nàng không giãy giụa. Tôi nghĩ mình đã chạm vào đáy sâu. Ba tháng sau, Marie tìm cách chặn tôi giữa hai cánh cửa và vội vàng báo cho tôi là Léna đang có thai. Marie nắm rõ tình hình. Nàng đau cho nỗi đau của em gái, của hai cháu, của tôi. Nàng đau nỗi đau của riêng mình nữa, chắc chắn thế. Hélène không nói gì với tôi về cái thai của mình, và tất nhiên tôi không nhận ra gì hết. Thậm chí tôi không muốn tin là đứa trẻ tương lai đó là của tôi. Tôi không hiểu tại sao nàng đã quyết định giữ nó lại.

Từ khi hai đứa lớn đi học, Hélène đã tìm cho mình một trò giải trí mới: cưỡi ngựa. Tôi nghĩ đó là hoạt động khả dĩ lấp đầy khoảng trống mà tôi để lại. Người ta bảo súc vật không thể làm cho chúng ta thất vọng được. Bất cứ con ngựa nào cũng đáng giá hơn tôi. Ngày nào nàng cũng leo lên lưng ngựa. Trong một câu lạc bộ tên là "Hacienda", ở cổng vào thành phố. Tôi chưa bao giờ đến tìm gặp nàng ở đó.

Có thai, nàng muốn hãm mình lại. Tôi thì không. Nàng thôi không phi ngựa nữa, còn tôi vẫn tiếp tục sa đọa. Tôi thấy bụng nàng phình ra. Qua Marie, tôi được biết đứa bé sắp chào đời là thằng con trai thứ ba và Léna đã đặt tên cho nó là Nathan. Nàng đã không tham khảo ý kiến của tôi về vấn đề này. Không lý gì nàng lại làm thế.

Và rồi, vào một ngày mùa thu năm đó, Hélène muốn đem lại niềm vui cho hai đứa con đầu. Từ lâu, chúng năn nỉ mẹ để được đi chơi ở câu lạc bộ. Nàng đã chiều theo ý chúng. Cả ba mẹ con, Léna và hai nhóc quận trưởng, y phục chỉnh tề, đã đi Hacienda. Léna mang thai tháng thứ bảy. Ba mẹ con đã trải qua buổi chiều ở đó, ở xứ sở của Far West, cùng với những con ngựa. Tôi nghĩ ba mẹ con đã rất vui.

Họ không bao giờ trở về nhà nữa.

Buổi tối, trên đường về nhà, trời bắt đầu đổ mưa. Một chiếc CX màu trắng đã lao thẳng vào ba mẹ con, trên đường quốc lộ. Người ta bảo tôi rằng gã lái xe đã chạy với tốc độ ít nhất là một trăm bốn mươi cây số một giờ. Người ta bảo tôi là hắn đã bị nghiền nát cho đến tận xương tủy. Không có dấu vết hãm phanh. Hắn cũng đã chết ngay tức khắc. Tôi biết tay này. Đó là một trong rất nhiều thằng nhóc con vô lại thường hay chỉ điểm cho chúng tôi. Vài tháng trước đó, hắn đã bị tóm vì cái tội chết tiệt gì đó mà tôi không biết. Hắn được thả ngay tức thì, đổi lại, hắn hứa sẽ cung cấp cho cảnh sát những thông tin quan trọng.

Đó có phải chỉ là kết quả của sự tình cờ?

Vào đúng lúc đó, đúng lúc mà thép và sắt quyện vào nhau trên đường quốc lộ, đúng lúc mà trái đất mở ra, phun lửa dâng trào, thì tôi đang chuẩn bị chơi một ván poker trong một khách sạn bốn sao với hai người Liban và một người Corse. Chuyên gia xuất nhập khẩu. Tôi chia bài. Tôi không nhận được tín hiệu nào hết. Không có bất cứ linh cảm nào. Tôi không bị chấn động gì cả. Tôi tiếp tục chơi. Chơi hàng giờ liền. Tôi tiếp tục đặt cược, tiếp tục cầu nguyện, tiếp tục run rẩy, tiếp tục co mông để thắng vài đồng. Cho đến khi Marie gọi điện thoại, cuối cùng Marie cũng tìm ra tôi ở đâu. Một đôi tám trên tay. Vào lúc rạng sáng, tôi đã mất hết tất cả.

Những tháng sau đó, Marie canh chừng tôi, chăm sóc tôi như một người mẹ. Vẫn luôn hiện diện theo cách của em. Kín đáo. Hiệu quả. Chôn chặt nỗi đau của riêng mình trong sâu thẳm trái tim để băng bó vết thương cho tôi. Một tấm gương đầy đức hy sinh và lòng độ lượng.

Maria, anh không xứng đáng.

Hẳn Marie là người duy nhất hiểu ra là tôi đang lòe bịp. Sau thảm họa, nhiều người đã không nhận ra tôi. Tôi đã bắt đầu sự nghiệp của một kẻ sống dở chết dở, và kết thúc bằng cách làm trò hề. Tôi không ra ngoài nữa. Tôi không lai vãng ở những quán rượu hạng sang hay tồi tàn. Tôi không bao giờ cầm lá bài nào nữa. Người ta khuyên tôi nghỉ ngơi, tôi từ chối. Tôi tiếp tục nghề của mình. Tiếo tục lừa gạt. Một viên cảnh sát mà nhìn bề ngoài người ta thấy khá đàng hoàng. Các bạn thấy đấy: Tôi vẫn còn đứng vững, tôi vẫn thở, vẫn đi lại, vẫn ăn, vẫn làm việc.

Tôi giả vờ thế thôi.

Buổi tối về nhà, tôi cởi quân phục và rã người ra.

Không có gì trống rỗng hơn là một gian phòng mà con cái mình đã bỏ đi. Không có gì yên tĩnh hơn là những bức tượng thiên thần. Tôi có gọi chúng cũng bằng thừa, tôi có gào tên chúng trong đầu cũng bằng không, chúng không trả lời tôi. Đi đâu tôi cũng chạm phải bức tường. Tôi lê mình từ phòng này sang phòng khác, chai thuốc độc cầm trên tay. Túm chặt lấy cái cổ chai. Cho đến khi tôi ngã khuỵu xuống, sóng soài, cho đến khi bóng đêm bao phủ người tôi bằng những tấm dạ đen của chúng. Tôi biết tôi không phải là người duy nhất, cũng không phải là người đầu tiên hay người cuối cùng, nhưng biết được điều đó thì thay đổi được gì cơ chứ?

Sáng sớm, tôi thấy Marie tận tụy ngồi ở đầu giường. Một cô y tá có đôi mắt sáng. Em ghé thăm tôi trước khi đi dạy ở trường cấp hai. Marie lau nước mắt và chất nôn mửa trên người tôi. Em dìu tôi đến tận phòng tắm. Em pha cà phê đậm đặc trong khi tôi lấy lại dáng vẻ con người. Khi ra đi, em để lại một túi xách thức ăn trên bàn bếp.

Tôi cũng đi làm. Ngày này qua tháng nọ. Muốn ra sao thì ra, tôi phải tìm lại vị trí của mình trong màn xiếc lớn. Để diễn lại tiết mục đu không lưới của mình. Mỗi lần như thế, tôi cầu nguyện để cho đó là lần cuối.

 

Tuy nhiên, chí ít có một đặc ân mà Florence đã dành cho tôi vào thời kỳ đó, đặc ân mà Ariel không may mắn được biết. Tôi nói đặc ân là bởi vì tôi quan niệm như vậy, và tôi muốn kể ra đây một tình tiết mà tôi chưa quên tí nào.

Vào tháng Năm của năm học đại học đầu tiên, vài ngày trước khi thi học kỳ, tôi vừa trải qua hai giờ tuyệt vời để xem Florence cưỡi lên một con ngựa hồng có tên là Dinah. Rồi chúng tôi rời Hacienda. Florence có một chiếc ôtô cũ rích hiệu Volvodans, ngồi trong đó toàn nghe mùi hăng hắc của chuồng ngựa. Florence cầm lái. Chân em vẫn còn đi ủng cưỡi ngựa, em làm tôi liên tưởng đến một nữ cao bồi tân thời và lộng lẫy, một nữ cao bồi bỏ trại chăn nuôi để đi mua sắm ở thành phố. Mười một giờ và bụi bặm. Một buổi sáng mùa xuân tuyệt đẹp. Ở ngã tư đầu tiên, thay vì đi theo đường cũ, Florence cho xe chạy hướng ngược lại. Tim tôi có vẻ đập hơi mạnh. Tôi hỏi em có nhầm đường không, em trả lời là không. Tôi liếc mắt nhìn em. Tôi nuốt nước bọt.

- Ta đi đâu thế?

- Bí mật...

Florence nói thế với giọng không vui, không đùa, giọng nói đó làm cho người nghe tiên đoán được cái gì đó không tốt đẹp. Tôi không nói thêm gì nữa, Florence cũng không. Chúng tôi đi trên những con đường nhỏ, vẫn theo hướng vào vùng nội địa. Florence có vẻ thạo đường. Tôi quay mặt ra cửa xe, giả vờ ngắm cảnh đất trời. Miền quê. Cây cối. Những ánh mặt trời lấp ló sau những cành cây. Một vài ngôi nhà đơn độc. Tất cả những thứ ấy chỉ tạo nên một bức tranh di động, thoáng qua, tôi không thể nào tập trung nhìn ngắm được.

Trong đầu tôi có một sự hỗn độn sâu kín. Florence có nghi ngờ gì không nhỉ? Tôi nghĩ là có. Thêm vào đó là cảm giác có tội với Ariel, người mà tôi không thể nào thoát ra được. Ariel không hề hay biết. Có thể nói cuộc lẩn trốn này được thực hiện lén lút sau lưng hắn. Dẫu vậy, tôi có sẵn sàng nhường chỗ cho hắn không nhỉ?... Không, lạy Chúa, không! Không cho hắn mà cũng chẳng cho ai. Chúng tôi đi qua một khu làng, rồi một khu làng khác. Chúng tôi chạy xe đã gần một tiếng đồng hồ. Địa điểm thứ ba lớn hơn chút đỉnh. Florence cũng đi qua luôn; ra khỏi chỗ ấy, em rời đường chính rồi đi theo một con đường nhỏ, con đường này dẫn tới một khu đất. Ở đó có một số biệt thự được xây cùng một kiểu kiến trúc. Có vẻ như đây là nơi mà người dân sống trong vất vả, lam lũ, nợ nần. Biệt thự nào cũng có một khoảnh vườn được chăm sóc khá tốt, hoa nở khá nhiều, mỗi biệt thự có hàng giậu riêng, có hòm thư riêng ở trước cổng. Florence đậu xe. Chúng tôi đã tới nơi.

Sau khi tắt máy, chúng tôi ở lại một lúc trong xe. Tôi chờ một câu nói gì đó như một lời giải thích, nhưng vô ích. Florence quan sát ngôi nhà qua cửa kính. Có thể em còn chần chừ. Tôi tôn trọng sự im lặng của em. Rồi em quay về phía tôi. Đó là lần đầu tiên tôi phát hiện một điểm yếu trong ánh nhìn của em. Sau một lúc lâu, em nói: "Đi nào." Em đẩy cổng và rảo bước về phía cửa biệt thự. Tôi đi theo. Khu vườn bị cỏ dại bao phủ, vàng úa, thưa thớt. Có hai cây chanh còi cọc và ở góc vườn tôi thấy một cái ổ chó; trên những tấm ván mục nát, một cái biển có chữ viết tay đã mờ: "Lord".

- Nó chết rồi, Florence buột miệng, không quay đầu lại. Cách đây đã lâu.

Cửa nhà mở ra trước khi Florence kịp gõ cửa. Ở ngưỡng cửa là một người phụ nữ nhỏ bé khoảng chừng sáu mươi tuổi. Dáng đẫy đà nhưng nét mặt khá thanh tú, tóc hoa râm búi ra phía sau.

- Florence! Người đàn bà kêu lên.

Bà ta gần như lao vào ôm chầm lấy Florence. Khi bà ta siết chặt vai của Florence, tôi thấy những ngón tay của bà trắng bệch ra. Florence cao hơn bà ta một cái đầu.

- Chào cô Coralie.

Giọng của Florence nhẹ nhàng nhưng không được nhiệt tình cho lắm.

Người phụ nữ lùi lại để ngắm Florence kỹ hơn. Bà ta tỏ ra rất xúc động, có vẻ vừa nhịn cười vừa nín khóc. Bà ta vẫn ôm vai Florence như thế. Tôi nghĩ bà ta có thể như thế hàng giờ, đắm chìm trong sự chiêm ngưỡng, nhưng Florence đã hất đầu về phía tôi.

- Đây là Matthieu, em nói.

Bà ta quay lại và tôi có cảm giác như bây giờ mới xuất hiện trước mắt bà. Bà ta nói: "Ồ! Xin lỗi anh!", rồi buông Florence ra và tiến về phía tôi, tay chìa ra.

- Chào anh, bà ta nói.

Tôi bắt tay bà ta.

- Chào bà.

- Bà cô của em đấy, cô tên là Coralie, Florence nói.

Bà ta nhìn chúng tôi một lần nữa, nhìn Florence xong nhìn sang tôi, rồi bỗng nhiên bà bước sang một bên rồi kêu lên:

- Mời anh vào! Mời anh vào!

Phía trong nhà có mùi sáp ong và nước chấm. Tôi nhìn thấy ngay một cái bàn đặt giữa phòng ăn. Bốn bộ đồ ăn. Hẳn là những bộ đồ ăn sang trọng nhất, dành cho những dịp lớn. Vậy là chuyến đi của chúng tôi đã được báo trước, người ta đang chờ chúng tôi. Điều đó có nghĩa gì? Tôi thấy giống như một cuộc ra mắt chính thức giữa bố mẹ vợ và anh chồng chưa cưới, và điều này càng làm cho tôi thêm phần bối rối. Tôi dò tìm một lời giải đáp trên gương mặt của Florence; em không nhìn tôi.

- Nào, mời anh ngồi xuống, người đàn bà nói.

Tôi những muốn đưa cho bà cái gì đó, một bó hoa, một chai rượu, một hộp bánh, cái gì cũng được, chứ không phải tay không. Tôi ngồi xuống cái ghế mà bà chỉ cho tôi. Florence vẫn đứng gần cửa sổ.

- Bác trai sắp về đấy, người phụ nữ nói. Bác đi mua bánh mì. Anh uống rượu khai vị trong khi chờ nhé?

- Không, cảm ơn bác.

- Thật à?

- Thật đấy, cảm ơn bác.

- Còn cháu thì sao, Florence?

Florence lắc đầu. Người phụ nữ lại quay sang tôi.

- Bác đã nấu thịt bê đấy. Hy vọng là anh sẽ thích, Florence chẳng chịu nói với bác gì cả...

- Vâng... sẽ tốt thôi. Tuyệt.

Bà ta có vẻ nhẹ cả người. Rồi bà cố tìm những cái khác để nói, để mời. Tay bà hết bắt chéo lại dang ra, miệng vẫn luôn mỉm cười. Chỉ có bà ta cử động trong phòng, như để lấp đầy khoảng trống. Florence thì cứ mặc kệ. Tôi bắt đầu nhìn quanh quất, bà cô nắm lấy dịp đó.

- Tất cả những đồ đạc ở đây, bà giải thích, là do chồng tôi tự làm cả đấy. Tất cả các đồ đạc trong nhà. Có lẽ Florence đã nói cho cháu nghe? Ông nhà tôi là thợ mộc. Giờ ông đã nghỉ hưu. Nhưng ông vẫn tiếp tục làm nghề. Cho vui thôi mà. Vả lại, nếu cháu cần bất cứ cái gì, một cái bàn, một cái tủ, thì cháu đừng có ngại. Tôi chắc chắn là ông ấy sẽ rất vui!... Cháu thực sự không muốn dùng gì à? Rượu Anit nhé? Hay rượu Martini?

Tôi nhìn bà cô, lòng nghĩ cách đây năm phút, tôi còn chưa biết là bà ta tồn tại. Florence có nói gì với tôi đâu. Florence chưa bao giờ nói đến một gia đình nào đó, một bà cô tên là Coralie nào đó, một ông thợ mộc nào đó. Florence là một con chim cổ đỏ đến từ một khoảng trời mùa thu. Quan hệ thế nào với những người này? Rốt cuộc, tôi đã nhận lời uống một ly Martini mà bà cô sốt sắng rót cho tôi. Tôi chưa bao giờ thưởng thức loại rượu này. Tôi không thích.

Vài phút sau, ông bác về.

- À! Ông ấy kia kìa. Nghệ sĩ về kìa.

Người đàn ông đã mở cửa nhưng vẫn đứng ở ngưỡng cửa, chà giày lên tấm chùi chân. Ông ta không lớn hơn bà là mấy, không béo hơn là mấy. Đầu ông ta bị hói. Ông cầm một túi bánh mì, từ đó thò ra hai cái bánh baguette và một hộp bánh ngọt. Ông ta có những ngón tay ngắn và múp, tôi hình dung đó không phải là những ngón tay nghệ sĩ.

Bà cô vội vàng chạy đến giúp chồng dọn đồ ra. Ông bác lại gần cháu gái. Họ ôm hôn nhau mà không nói một lời nào. Rồi ông ta tiến về phía tôi. Tôi tranh thủ lúc ấy để đứng dậy và không ngồi xuống nữa. Bà cô đứng ra giới thiệu.

- Đây là Armand, chồng tôi, bà nói. Còn đây là Matthieu, bạn của Florence.

Bà ta nhìn chúng tôi bắt tay nhau, miệng nở một nụ cười thỏa mãn, như thể chúng tôi đang ký kết hiệp ước hòa bình thế giới và bà ta là người xúc tiến. Ông bác vẫn chưa nói gì. Tôi nghĩ "bạn của Florence" là một cách nói mơ hồ và tự hỏi thực ra cô cháu của họ đã nói với họ những gì. Chúng tôi ngồi nhanh vào bàn ăn. Cho dù năm tháng trôi qua nhưng mỗi khi nhớ đến bữa ăn này, tôi không thể không cảm thấy khó chịu. Cả bốn người chúng tôi ngồi xuống và làm quen với nhau, tạo ra giữa chúng tôi những mối liên hệ mà Florence là chỗ thắt nút: lúc đầu tôi nghĩ đây là mục đích của cuộc gặp. Nhẽ ra việc này phải diễn ra một cách lịch sự và thoải mái, thậm chí nồng nhiệt. Nhưng hoàn toàn không được như thế. Tôi sớm cảm thấy điều gì đó không ổn. Cái gì đó đang bao trùm, một mối đe dọa mà tôi không biết bản chất hay nguồn gốc, nhưng tôi bắt đầu cảm thấy những mầm mống tác hại. Từng phút trôi qua, không khí đã trở nên mỗi lúc mỗi nặng nề, bức bối. Tất cả chúng tôi đều biết điều đó nhưng bà ta đã tấn công, nhiệt tình và ngang bướng, bà ta đã vùng vẫy hết cách, với vũ khí duy nhất có được: lời nói. Bà ta nói. Bà ta chuyện trò. Bà ta kể lể. Bà ta hỏi han. Bà ta chỉ nói chuyện với tôi. Giờ đây, tôi thường so sánh bà ta với một con rối biết nói và coi trời bằng vung. Hoặc van xin bà ta. Hẳn bà ta mong như thế. Bà ta không có cơ hội nào.

Tôi không đủ khả năng để cứu giúp bà ta. Đúng là món thịt bê của bà ta tuyệt ngon. Đúng là việc học hành tỏ ra thú vị. Đúng là năm đầu quả thực khó khăn nhất nhưng phải cố gắng thôi. Đúng là công ăn việc làm giờ đây rất hiếm. Đúng, đúng thế... Tôi nhìn ra cửa sổ và cố hình dung ra một em bé đang chơi trong mảnh vườn trước mặt tôi. Một bé gái và một con chó.

Con chó đã chết. Thế bé gái ở đâu? Nó là ai?

Florence im lặng. Em gần như không đụng vào thức ăn. Làn da của em còn trắng hơn cả nước xốt. Mặt em thẳng băng nhưng trong mắt em, bóng tối bao trùm, trong đáy sâu mắt em có phản chiếu những đám mây hội tụ từ từ và bền bỉ. Tôi thực sự có thể thấy được điều đó.

Ông Armand ngồi ăn. Ông cắt thịt, cắt bánh mì và chuyên tâm nhai, chỉ lo ăn mà không nghĩ gì hết. Cách của ông ta đương đầu với hoàn cảnh. Một ông lính già. Hẳn ông ta là người biết rõ nhất những gì sắp xảy ra. Ông thợ mộc khắc một trái tim trong thân gỗ cứng nhất, ông hì hục làm cho nó cứng hơn, làm cho nó không thể thấm nước. Kinh nghiệm đã mách nước cho ông ta. Mắt ông ta không dán vào gì, cũng chẳng dính vào ai. Ông chỉ tin vào chính mình.

Tất nhiên, tôi tự hỏi tại sao lại là ông bác và bà cô mà không phải ông bố và bà mẹ? Tại sao Florence đã đưa tôi đến đây? Tại sao tôi chứ không phải Ariel? Biết bao câu hỏi khác nữa.

Bà cô đi đi lại lại giữa bếp và phòng ăn. Món tráng miệng là phúc bồn tử - tôi nghĩ tên nó là như vậy. Tôi còn nhớ có một khối tròn để ngay giữa bàn, có màu trắng của kem và màu đỏ sẫm của trái cây, điều này khiến tôi nghĩ đến cái đầu của một thằng hề buồn bã. Sau đó chúng tôi uống cà phê được pha trong những cái tách sứ. Florence châm một điếu thuốc, cả ông bác và bà cô đều đồng thời liếc mắt nhìn em. Họ không hút thuốc. Florence đã không xin phép họ hút thuốc. Họ không nói gì. Bà cô lại chạy đi và quay lại với một cái đĩa đặt trước mặt Florence để làm cái gạt tàn. Im lặng bao trùm. Ông bác khuấy cà phê. Chúng tôi đang ở trong những giây cuối cùng. Khi Florence quay sang nhìn tôi, tôi thấy bầu trời bỗng trở nên nặng nề, u ám. Thể nào nó cũng nổ tung.

Cuối cùng, Florence vừa rít một hơi thuốc vừa nói:

- Gia đình em đấy. Gia đình duy nhất của em...

Florence chờ vài giây để tôi có thời gian thẩm thấu những lời nói đó, rồi em nói tiếp:

- Thế nào? Anh thấy họ thế nào?

Như thể chúng tôi đã về rồi; như thể họ không có mặt ở đấy. Chiếc thìa nhỏ của ông bác bất động trong tách cà phê. Ông ta bắt đầu khe khẽ lắc đầu. Tôi không biết Florence sẽ đi đến đâu. Tôi cố mỉm cười.

- Hai bác tử tế quá, tôi nói. Rất tử tế.

Tôi đánh liều nhìn bà cô nhưng bà ta không nhìn tôi. Mặt bà ta đanh lại, lạnh tanh.

- Đúng thế, Florence nói, bác và cô rất tử tế. Dễ thương. Bác Armand... Cô Coralie...

Florence lần lượt nhìn ông bác, bà cô rồi bỗng chau mày lại. Cặp lông mày thanh tú bị bẻ gãy. Giờ em có một vẻ đẹp gây phiền nhiễu, một vẻ đẹp làm đau lòng người. Tàn thuốc rơi xuống bàn mà em không thấy. Em nói tiếp:

- Nhưng... hình như thiếu ai đó. Gia đình ta chưa đủ người thì phải. Phải không? Cháu nhầm phải không cô?

Người phụ nữ không trả lời. Bà ta không thể trả lời. Bà nhìn cháu bà chằm chằm với vẻ mặt của một người đang xem một cảnh tượng kinh hoàng, cảnh chân trời nhô cao và đổ ngược trở lại, như một con sóng thần ào đến nuốt chửng bà.

- Ái chà chà! Florence nói. Cháu quên mất! Nó ở đâu nhỉ? Hy vọng là bác và cô chưa chôn nó chứ? Matthieu phải làm quen với nó mới được. Cháu nghĩ Matthieu chưa bao giờ thấy nó!.. Bác và cô giấu nó ở đâu? Trong tủ tường à? Hay trong nhà xe?

Tôi biết giọng nói này. Giọng nói đó bắt đầu tăng âm lượng, bắt đầu khàng khạc, réo rắt như một lưỡi cưa sắt bị cùn. Da tay, da lưng cho đến da trán tôi bỗng xù cả lên. Bên cạnh, ông bác bắt đầu lắc đầu, từ trái qua phải, như một người bị ức hiếp, một kẻ mê tín hay tức giận, tôi không biết. Tôi vẫn chưa hiểu gì hết, những gì tôi muốn là không còn nghe thấy cái giọng đó nữa.

- Florence... Tôi thì thầm.

- Em nói thật với anh đấy, Florence nói. Lạ lắm! Anh không tưởng tượng nổi đâu. Anh phải nhìn thấy mới được.

Bỗng Florence quay người lại và kêu toáng lên:

- Quasimodo!... Quasimodo!...

Kể điều đó ra đây thật đúng là thô thiển, chỉ có thô thiển thôi, mặc dù vậy, tôi thách người nào không cảm thấy chối tai khi nghe những tiếng kêu đó. Tôi lại rùng mình. Lúc đó, bà cô buột miệng: "Lạy Chúa tôi!", hai tay bịt miệng. Nước mắt bà ta bỗng nhiên giàn giụa, ròng ròng trên má. Ông bác tiếp tục lắc đầu.

- Florence... Tôi nói tiếp.

Tiếng thì thầm đáng thương trong cơn bão. Nói thật là tôi hoàn toàn thất kinh. Tôi cảm thấy Florence đã ra đi, tôi cảm thấy em đang trôi dạt trên sông và xa dần, tôi không muốn em bỏ tôi lại một mình, giọng nói của em đang xâu xé tôi nhưng đó là những gì còn lại của tôi để không phải mất em.

Rồi Florence không kêu nữa. Em chỉ lên trần nhà. Ánh mắt cuồng điên. Em nói: "Em biết!", rồi đứng bật dậy, gí điếu thuốc lên món dâu béo ngậy mà em chưa ăn, em bảo tôi: "Matthieu, đi nào!", rồi em đi về phía cầu thang để lên tầng.

Tôi không biết phải làm gì. Bác Armand cuối cùng cũng không còn có thái độ lảng tránh, câm lặng và vô dụng nữa. Trán ông ta không còn động đậy, mắt ông ta dán vào mẩu thuốc lá vừa cắm trên cái bánh. Tôi thấy ông ta cầm một cái dĩa đặt lên đầu gối xoa xoa, rồi siết vào thật chặt.

Florence đã đặt chân lên bậc thang thứ nhất. Một chiếc ủng cưỡi ngựa. Em quay lại. Như lúc nãy trong xe, em nói tiếp: "Đi nào!" Không còn hăng hái nữa, chỉ còn có sự lạnh lùng và thái độ quả quyết. Tôi từ từ đẩy ghế rồi đứng dậy. Tôi những muốn nói một lời xin lỗi, tôi không thể. Bà cô che miệng rên rỉ. Tôi tiến về phía Florence. Khi theo em lên cầu thang gỗ, tôi có suy nghĩ ngốc nghếch là chính ông bác là người đã làm cái cầu thang đó.

 

Ai là người quyết định?...

 

Mới tuần vừa rồi thôi, tôi còn xem Florence chơi với Nathan và tôi không thể ngăn mình tự hỏi câu hỏi này lần nữa.

Nathan giờ đã gần bốn tuổi. Nó đang xếp hình kim tự tháp bằng những miếng ghép. Nó đang tập trung cao độ. Florence giúp nó xếp. Cả hai đang ngồi bệt xuống sàn nhà. Tôi thấy hai mẹ con đẹp tuyệt vời.

Ai là người quyết định và với tư cách gì? Thẩm phán tối cao nào được phép đưa những người này về phía ánh nắng và ánh sáng trong khi những người khác về vùng tối tăm?

Tất nhiên, chúng ta có thể tự nhủ - tôi không biết như thế là kinh khủng hơn hay an tâm hơn - rằng nắm đấm vốn mù lòa.

Một lúc nào đó, Florence ngước mắt nhìn tôi và tôi gần như chắc chắn là những suy nghĩ của hai chúng tôi đi theo những con đường song song. Vì những miếng ghép, có thể lắm. Tôi không còn được phép nhìn những đồ chơi này một cách ngây thơ. Tôi không được phép quên. Florence lại càng không. Chúng tôi không nói về chuyện đó bao giờ nhưng tôi biết là mọi chuyện chưa kết thúc, mọi chuyện chưa tan thành mây khói. Như thế thì dễ quá.

Trên tầng, trong ngôi nhà của ông bác và bà cô, có ba cánh cửa đang đóng. Ba phòng. Một phòng đã che chở cho tuổi thơ của Florence, những năm tháng trẻ trung của em. Những ngày mưa em đã từng ở trong đó, những đêm dài em đã từng ở trong đó, để ngủ, để mơ màng, có thể để run lên khi cố xua đuổi những bóng ma sinh ra từ bóng tối. Tôi đã thoáng có những suy nghĩ đó nhưng không có hình ảnh nào đến hòa vào đó. Như trước đó, trong khu vườn, gương mặt của bé gái không chịu xuất hiện trước mắt tôi.

Florence đi đến tận cánh cửa ở phía cuối. Em đặt một tay lên nắm đấm và tay khác lên cửa. Em cứ như thế vài giây. Tôi đứng sau lưng em, không thể thấy mắt em nhắm hay mở và tôi sợ. Tôi cảm thấy mỗi lúc mỗi bức bối. Tôi muốn nói với em là không cần thiết phải làm thế, là em có ý đồ gì đi nữa thì thôi đi hãy còn kịp. Là tôi không cần bằng chứng. Florence đẩy cửa và tránh ra để tôi vào. Tôi ngửi thấy mùi gì đó kinh khủng. Mùi thuốc tẩy uế cực mạnh không thể át đi mùi hăng hâm hấp. Giá như nôn được thì tôi đã cảm thấy nhẹ người hơn. Tuôn ra hết rồi bốc hơi. Florence nhẹ nhàng khép c 10000 a lại. Đó là phòng dành cho trẻ em. Cho em bé ấy. Trên bức thảm, có một con sư tử biển đang chơi bóng. Màu đã phai. Dù đó là màu trắng. Sàn nhà được trải những tấm thảm linoleum. Gian phòng ngăn nắp trật tự, không có đồ chơi nào, chỉ có duy nhất một con hổ bông có lẽ rơi từ trên ghế khi đứa bé ngồi xuống. Một cái ghế mà bác sĩ nha khoa hay dùng. Nó được đặt đối diện với cửa sổ, những tấm riđô thêu rất đẹp đang che kín cửa sổ này. Chúng tôi đứng ở phía sau riđô, cách vài bước, tôi chẳng thấy gì nhiều: ngược ánh sáng, một cái đầu nhô cao hơn lưng ghế một tí, một lọn tóc nâu. Chỉ có thế. Tôi nghe một tiếng gì khe khẽ mà chưa xác định được. Tôi chờ Florence bước lên hoặc nói gì đó. Tôi cố gắng thở càng ít càng tốt. Tất cả đều bất động, lơ lửng. Một gian phòng trẻ em vào một buổi chiều mùa xuân dìu dịu.

Rồi bỗng nhiên tôi thấy có sự cử động. Phần trên của cái đầu biến mất trong khoảnh khắc rồi xuất hiện lại, đồng thời có một "tiếng kêu". Trừ phi có những từ ngữ khác để gọi tên âm thanh đó. Đó là một âm thanh mà có lẽ những con người đầu tiên trên thế gian đã phát ra, những con người tiền sử. Một thứ âm thanh bắt đầu bằng tiếng gì đó như là tiếng gầm và kết thúc bằng tiếng ré, một thứ âm thanh xuyên thủng thịt da, làm lung lay hết sự chắc chắn và làm rung động những niềm tin sâu kín nhất. Không còn gì có vẻ chắc chắn nữa, không còn gì sau khi nghe thấy âm thanh đó. Chỉ có sự nghi ngờ còn ở lại, sự nghi ngờ về bản chất đích thực của chúng ta.

Tôi có cảm giác cả người tôi co rúm lại, xương, thịt, dây thần kinh, lục phủ ngũ tạng, phần sâu kín nhất trong cơ thể tôi cũng tìm cách thoát khỏi tiếng kêu này.

Phải chăng đó là tín hiệu mà Florence chờ đợi? Trong khi mà tôi còn sững sờ, đơ dại thì tôi thấy Florence nhẹ nhàng đi vào phòng, nét mặt nghiêm trang như khi lên cầu thang của một nhà thờ. Florence đi quá chiếc ghế. Em quay người lại và nhìn xuống người đang ngồi trên ghế. Một lúc lâu sau, em nói:

- Chào Nicolas.

Không bao giờ tôi còn được nghe lại giọng nói êm ái, nhẹ nhàng lúc ấy của Florence, ngay cả khi em nói với những đứa con mà em thương yêu nhất, những đứa con của chúng tôi. Không bao giờ.

Em đặt tay lên cái đầu và vuốt ve mái tóc nâu.

- Em của em đấy, Florence nói. Em trai của em đấy.

Nó tên là Nicolas.

Tôi phải mất hơn một phút nữa mới cử động được. Bước đi được. Có nghĩ về cái chết và thậm chí có chết đi nữa, thì giữa hai người đó có gì vậy? Cố gắng hết sức tôi mới lấp đầy khoảng cách và đến lượt mình đi vòng qua bên kia chiếc ghế. Tôi nhìn xuống. Tôi nhìn nó rất lâu. Tôi không biết trong ánh mắt tôi thoáng có cái gì, sự kinh tởm, lòng thương hại, sự tức giận, điều ác cảm, tôi không chắc lắm. Florence vuốt tóc nó. Nó lại kêu lên tiếng kêu kinh khủng đó, tiếng kêu đó là âm thanh duy nhất mà nó phát ra theo từng quãng và khá đều đặn suốt ngày. Khi đó, đầu nó bỗng nhiên ngẩng lên rồi hất ra sau, mạnh mẽ, như tiếng một con ngựa khịt khịt hay tiếng sừng bò tót chọc vào khoảng không. Có vẻ như nó không nhận thức được điều đó.

Tay của Florence vẫn giơ cao trên không khi nó kêu. Sau đó em tiếp tục vuốt tóc nó. Em nói:

- Hôm qua nó tròn hai mươi tuổi. Hai mươi tuổi tròn. Ta nên tặng nó gì nhỉ?

Đó không phải là một câu hỏi thực sự và tôi không trả lời. Tôi biết lòng tôi đang run lên nhưng không thể hiện ra ngoài. Tôi nhìn sinh linh có tên là Nicolas này và cố tìm hiểu thực hư ra sao - mối liên hệ giữa cái tên chung chung, tầm thường mà người ta đã đặt cho nó và con người thật đang ngồi trước mặt tôi.

Một cậu bé hai mươi tuổi ngồi trên cái ghế mà bác sĩ nha khoa hay dùng.

Ở nó, cái gì cũng quặt quẹo. Mỗi bộ phận trên cơ thể nó, từ ngón tay, cái lưng, hàm răng, tất cả đều được tạo nên từ những đường nét gãy vỡ và những góc cạnh ngoài trí tưởng tượng.

Nó đi giày đỏ, mặc một chiếc quần cũ rích dài đến bắp chân, một cái áo ngủ không gài cúc, phía trong là chiếc áo phông có in hình Gaston Lagaffe. Bộ ria mép vài ngày chưa cạo phủ lấy cằm dưới, lưa thưa một vài sợi lông đen. Một vết cắt nhỏ ở cằm, hẳn là do nó lắc đầu khi người ta cạo râu cho nó. Môi trên của nó bị xô lại một bên, như có một lưỡi câu nào giữ lại, để lộ một hàm răng màu hồng và đỏ máu. Người nhà đã đặt một chiếc gối sau lưng nó. Tôi những muốn nắm bắt được cái nhìn của nó. Bắt gặp ánh mắt nó dẫu chỉ một lần. Điều đó đã không xảy ra. Nó không nhìn Florence cũng chẳng nhìn tôi. Mắt nó màu hạt dẻ, đẹp, sâu thẳm. Không biết nó có nhận thức được sự có mặt của chúng tôi không. Không biết nó có nghe chúng tôi nói gì hay không. Không biết trong bộ não của nó có những suy nghĩ gì và hình ảnh nào hay không.

Nó đang chơi trò xếp hình.

Thế đấy, âm thanh mà tôi không thể nào xác định được. Chiếc ghế bành có gắn một mặt bàn di động. Khoảng mười hai miếng ghép rải rác trên đó, những miếng ghép bằng gỗ có màu sắc sặc sỡ, trên các bề mặt có in chữ và số. Cậu bé cố gắng chồng đống lên nhau. Nó không xếp được. Nó không thể làm chủ được những động tác của bản thân. Giữ miếng ghép giữa các ngón tay đối với nó đã khó, đặt miếng ghép đó lên một miếng ghép khác lại càng là một nhiệm vụ bất khả thi. Miếng ghép trượt ra, rơi xuống, thoát khỏi tay nó. Nó cầm lên. Bắt đầu lại từ đầu. Không ngưng nghỉ.

Mặc dầu vậy, đôi khi, chút ít kỳ diệu nào đó xảy ra - và điều đó gây xúc động như khi một đứa bé tự buông tay và đi những bước đầu tiên. Miếng ghép này bám lên miếng ghép kia trong vài giây, bằng một sự thăng bằng mong manh... mà thao tác sau đó tác oai tác quái phá vỡ. Và phải làm lại toàn bộ.

Nên tặng nó gì nhỉ?

Chúng tôi ở lại một giờ hoặc hơn thế trong căn phòng đó. Những cái nút thắt lấy cổ tôi từ từ được nới lỏng. Tôi có thể thở một cách gần như bình thường. Tôi có thể tập trung vào những lời Florence nói.

Florence giải thích là nó vẫn luôn thế. "Luôn thế", em nói. Từ khi ba hay bốn tuổi gì đó, nó được đặt lên chiếc ghế có thể chỉnh các tư thế. Tư thế ngồi, tư thế nằm. Nó ở đó, đêm cũng như ngày. Ông bác và bà cô không còn sức lực nào mà bồng nó lên giường. Nó không còn giường nữa. Khi còn nhỏ, Florence không hiểu sự khác biệt giữa hai chị em. Em không hiểu tại sao em trai của mình lại không chịu chơi với mình, tại sao nó không chịu nhìn mình, nói chuyện với mình, trả lời mình. Em tự nhủ có lẽ mình đã vô tình làm gì đó không đúng nên làm nó phật ý. Em nghĩ là nó không thích em. Em hy vọng là mọi chuyện sẽ qua. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Em vẫn mãi mãi không hiểu.

Em bảo với tôi là em nghĩ mình đã làm tất cả những gì có thể. Không khiên cưỡng. Bởi vì em thương em mình. Em ở lại với em mình nhiều thời gian hơn bất cứ ai khác. Em bỏ phòng riêng của mình để đến đây chơi. Em đem búp bê của mình đến. Em đóng vai cô giáo, đóng vai người bán hàng. Em làm bài tập ở đó. Em đọc bài to để em mình cùng nghe. Em đọc bảng cửu chương và bảng chữ cái. Em kể cho em mình đã làm gì trong ngày, kể cho em những ước mơ. Đối với nó, ước mơ của em không có gì là bí mật.

Mùi hôi, Florence không ngửi thấy. Em đã quen với mùi hôi thối kinh hoàng ấy. Em đã quen với sự im lặng và những tiếng kêu. Quen với tất cả. Trừ cái nhìn trống vắng.

Giá như em có thể hi sinh một cánh tay, một cái chân, giá như em có thể hi sinh mình để đổi lại một cái nhìn đích thực cho nó thì em đã làm rồi. "Em thề là em đã làm rồi", Florence nói.

Em không thể làm gì hơn.

Mười bảy tuổi, em đã đi xa. Florence càng ngày càng ít khi về thăm em. Em về cũng chỉ vì em trai mình thôi. Em không thể biết là nó có nhận ra mình hay không.

Em nói với một giọng bình tĩnh, đều đều, tay vẫn không ngừng xoa đầu cậu bé. Y như người ta đọc lại những bức thư viết cách đây đã lâu, những bức thư được viết bằng máu và nước mắt nhưng giờ đã khô. Thỉnh thoảng bị tiếng kêu làm cho gián đoạn. Em búi tóc cho cậu bé.

Ai quyết định? Lỗi tại ai? Tại sao? Người ta không thể tự chất vấn cho dù vẫn biết đó là những câu hỏi sẽ không có lời giải đáp, những câu hỏi vô nghĩa. Cánh cửa vẫn mở và gió buốt giá ùa vào phòng. Không ai giữ chìa khóa cả.

Và rồi, lấy cái giọng y như giọng của Florence, tôi mạnh dạn nói là thái độ của Florence với ông bác và bà cô hẳn là vô căn cứ. Trách họ làm sao được? Tôi nói là đối với họ, thử thách quá kinh khủng và họ đang cố gắng hết mình. Florence không nên đè nặng lên vai họ những khổ đau, buồn tủi của chính mình. Florence không phản đối. Em cũng không gật đầu tỏ ý đồng tình.

Chỉ có một lần duy nhất bỗng nhiên em tỏ rõ phản ứng của mình. Khi tôi hỏi em là đã bao giờ họ nghĩ đến việc đưa cậu em đến một trung tâm điều trị chưa. Em quay về phía tôi:

- Điều trị ai? Florence sổ toẹt. Người ngoài hành tinh chắc?

Tôi thấy đau lòng vì mình đã tạo ra cái bĩu môi trên miệng em, cái nhìn đầy phẫn nộ trong mắt em.

Chính vào ngày hôm đó, trong căn phòng này, tôi đã quyết định thú nhận tình yêu của mình với Florence. Cuối cùng tôi đã thú nhận: tôi yêu Florence từ khoảnh khắc đầu tiên. Lời tỏ tình của tôi không an ủi được em.

Trước khi đi, Florence nhặt con hổ bông dưới đất lên. Con hổ vàng có những sọc đen. Em đặt con hổ lên gối của cậu bé. Em đặt lên thái dương cậu bé một nụ hôn. Tôi thì thầm: "Tạm biệt, Nicolas." Nó không trả lời tôi. Chúng tôi đã để nó ở lại một mình với những miếng ghép của nó.

Dưới nhà, bàn ăn vẫn chưa dọn. Bà cô vẫn không rời ghế. Bà ngẩng đầu lên. Mắt bà đỏ hoe. Bà nhìn dõi theo Florence khi em lặng lẽ đi qua phòng. Chuyến đi thăm kết thúc. Tôi thấy môi của bà già động đậy, định nói gì rồi không nói nữa mà ngồi yên như thế, khép nép. Tôi dừng chân cạnh bà ta. Tôi nhợt nhạt cười với bà ta rồi nói: "Tạm biệt cô. Cảm ơn đã mời cháu dùng bữa." Trong khoảnh khắc, tôi có cảm giác như bà ta sắp phủ phục dưới chân tôi, van xin tôi ban cho bà một đặc ân hay một sự tha thứ. Rồi bà ta mím môi lại, nước mắt một lần nữa lưng tròng, bà ôm mặt khóc.

Ông bác đã biến mất. Tôi không thấy ông trong nhà cũng như ngoài vườn. Có lẽ không bao giờ tôi gặp lại ông ta nữa.

Florence chờ tôi trong xe. Ngồi bên cạnh em, tôi tự hỏi: Tôi nên tặng em món quà gì?

 

Nhờ Marie, tôi hoàn chỉnh phần đầu của câu chuyện. Hồi I. Marie thạo việc lắm. Đến đây bắt đầu phần tiếp theo của câu chuyện, phần mà Marie vẫn chưa biết.

Và phần này tất nhiên bắt đầu bằng một xác chết.

Khoảng mười tám tháng sau vụ tai nạn, vào mùa xuân, hai nhân viên thành phố làm việc ở công ty Không gian xanh đã phát hiện ra một loại cây rất hiếm, mọc trong đêm ngay giữa những bụi cây của công viên thành phố. Đó là xác một người đàn ông. Trần truồng. Có người đã thắt cổ ông ta bằng một sợi dây nilông. Người ta nhét vào miệng ông ta bộ phận sinh dục của chính ông ta được cắt ra từ trước. Kiểu giết người làm cho báo lá cải sùi bọt mép và làm cho cả thành phố kinh hoàng. Hơn nữa, người đàn ông này không phải là ai khác: Chính là Jean-Baptiste Cyrillus - giảng viên trường đại học địa phương từ hơn ba mươi năm nay. Một giáo sư văn chương uyên bác.

Cả đơn vị cảnh sát náo động như sắp lên đường chiến đấu. Ba phần tư quân số được huy động vào cuộc.

Ông thầy này có cách sống kỳ dị, điều này gần như ai cũng biết. Ngày ông ta đi theo những lối nhỏ trong công viên, tay đẩy xe cho người mẹ già bị liệt chân; đêm ông quay lại đó với những mục đích khác, ít nhân từ hơn. Điếm ở khu vực này đều quen với hình dáng của ông ta. Gái cũng như trai, không phân biệt. Chỉ có điều, dưới hai lăm tuổi thì thích hơn. Ông thầy này thích tuổi trẻ. Ông ta bị tấn công ở đó. Mọt cú giậm mạnh vào tổ kiến. Có khả năng vụ án mạng liên quan đến một vụ tiền nong hay gì đó. Cảnh sát thẩm vấn những người thường đến công viên, người dân cũng như người lao động, nhưng không ai thấy gì, nghe gì cả. Phần lớn lũ điếm trai vặn lại chúng tôi là đời nào họ lại đi giết một con gà đẻ trứng vàng. Vụ giết người này làm phương hại nghiêm trọng đến việc làm ăn của họ; khách hàng vì thế đã bỏ trốn. Người người ai cũng sợ - vả lại họ cũng thế. Đó là những lý lẽ có thể chấp nhận được.

Người ta lại chuyển sang đám sinh viên. Trong nhiều tuần liền, người ta đã xem xét hàng trăm hồ sơ; tất cả các sinh viên đã đăng ký học giờ của Cyrillus, và bạn bè của bạn bè họ. Mở rộng phạm vi điều tra với hi vọng tìm ra manh mối nào đó. Người ta đã thu thập được hàng tấn bằng chứng; người ta đã nghe nói hươu nói vượn về người thầy được mệnh danh là "Elmer" trên ghế nhà trường. Soi mói, đồn đại, thị phi, ngồi lê đôi mách kiểu sinh viên. Nhưng chẳng có gì giống, thậm chí gần giống, với một động cơ giết người nghiêm trọng như vậy.

Ngày càng nhiều nhà báo bất hảo bắn tin rằng một kẻ giết người tàn bạo đang đi lại tự do trên các đường phố. Một trong những kẻ giết người hàng loạt, như họ thích thú tiết lộ. Đó là một giả thiết đáng xem xét, và chúng tôi đã xem xét. Nhưng đó là khả năng tệ hại nhất, và người ta lại bám vào ý kiến cho rằng án mạng xảy ra do một hành động đơn lẻ, độc lập. Cho đến khi có chứng cớ chứng minh điều ngược lại.

Tôi thuộc ê kíp điều tra vụ án. Thật ra, tôi chẳng thèm quan tâm đến Jean-Baptiste Cyrillus và những chuyện liên quan. Tôi làm việc theo phản xạ. Để giết thời gian giữa hai lần chìm nghỉm. Bởi vì công việc chắc chắn là sợi dây liên hệ cuối cùng níu tôi lại với thế giới của những người sống. Cho dù, trong trường hợp này, đó là chuyện của người chết. Giờ tôi vẫn nghĩ là nhẽ ra tôi nên bán rau ngoài chợ hay đi phát tờ rơi. Không nên can gián vì vài đồng vặt vãnh. Chỉ có bộ máy là vẫn luôn vận hành. Cơ học. Tôi đã từng nói là nếu ngày nào đó tôi có cái gì đó như một linh hồn, thì hồn tôi cũng sẽ tan tành thành mây khói trên quốc lộ mà thôi. Tôi chắc chắn là những gì còn lại trong tôi sẽ chạy theo rất nhanh.

Công việc điều tra tỉ mỉ các đối tượng sinh viên đã không hoàn toàn vô ích. Chính tại đó, từ chỉ sang kim, lần đầu tiên tôi đã nghe loáng thoáng về sự tồn tại của một Florence Mazeau nào đó.

Người thân gọi cô ta là Flo.

Anh nói về chim cổ đỏ! Anh nói về một ngôi sao cháy! Florence Mazeau không là gì hết, chỉ là một con bé bán trôn nuôi miệng mưu mô, thủ đoạn. Tên cô ta xuất hiện trong danh sách đăng ký học đại học từ bốn năm nay. Thí sinh tự do. Cô ta thi học kỳ, thi học kỳ hỏng thì đăng ký học năm sau. Một cô gái gan lì. Bướng bỉnh. Nguyên nhân: cô ta bảo vệ miếng cơm manh áo của mình! Phần lớn khách hàng được cô ta tuyển chọn trong các hành lang của trường đại học, một nguồn dự trữ gần như không bao giờ cạn vì luôn luôn được thay mới. Phương pháp độc đáo và được chấn chỉnh một cách hoàn hảo. Cô gái trẻ trung, xinh đẹp để cho bạn học tán tỉnh, rồi quyến rũ họ, chi phối họ; rồi khi cá đã cắn câu, cô ta đưa ra giá. Những nhóc con động dục không thể cưỡng lại. Mồm chúng nhỏ dãi. Chúng tăng thêm tiền. Phi vụ làm ăn xuôi chèo mát mái.

Thủ đoạn này, tôi từ từ mới phát hiện ra. Qua việc cắt xén, qua những lời thổ lộ có đầu không đuôi, qua những câu nói bóng gió. Từ đó, tôi nghĩ là nếu con ranh này tìm mồi trong các sinh viên thì tại sao lại không mồi chài giáo viên? Tại sao lại không phải là ông già Elmer tốt bụng đó? Đó chỉ là manh mối đầu tiên.

Dù muốn dù không, đầu óc cảnh sát của tôi đã ngộ ra một điều gì đó. Tôi đã có thể gọi Florence Mazeau đến để hỏi cung nhưng tôi đã không làm thế. Tôi đã chọn phương án "ngầm". Tôi và hai cảnh sát khác tiến hành bám sát đối tượng.

Trong thời gian hơn một tháng, chúng tôi không rời cô gái nửa bước.

Cô ta ăn uống ở nhà, một căn hộ nhỏ trên tầng cao nhất của một chung cư mới được cải tạo trong khu phố cổ. Chúng tôi chụp ảnh tất cả những gã nào đi qua cổng chung cư này. Chụp ảnh tất cả những người đi với cô ta. Chúng tôi chụp được gần một hộp ảnh. Toàn đàn ông. Florence Mazeau đi lại với rất nhiều đàn ông.

Thậm chí tôi không biết chính xác mình đang tìm gì, đang hy vọng rút ra điều gì từ đó. Nếu tôi mà biết được chuyện đó sẽ đi đến đâu thì có lẽ tôi đã bỏ cuộc rồi. Cũng có thể là không.

Sau bốn tuần theo dõi, chúng tôi đã rút lui. Vụ án Cyrillus bắt đầu lắng xuống. Không thấy án mạng nào khác, may quá, không có xác chết nào khác mà ngược lại còn bao nhiêu việc khác phải làm. Ở sở cảnh sát, hồ sơ chất đống rất nhiều và không phải vì thế mà người ta tăng cường lực lượng cho chúng tôi. Tóm lại, người ta gần như giao cho riêng tôi phụ trách vụ án đó. Tại sao lại không chứ? Không cái này thì cái khác...

Rồi, tháng Mười một năm đó, có một sự việc mới đã xảy ra: một người có tên là Thierry Carmona biến mất. Tôi biết người này. Sơ sơ thôi. Ai cũng biết hắn, còn hắn biết tất cả mọi người. Titi Carmona là người mà người ta có thể gọi là "gương mặt địa phương". Ăn to nói lớn, dễ gần. Kiểu người hay lang thang khắp nơi trong thành phố, trong mọi môi trường, để giúp đỡ người này hay những người khác.

Người ta không tìm ra thi thể của hắn. Chỉ mỗi cái chân nhái của hắn nhặt được ở cảng. Tất cả dường như chứng minh rằng hắn đã chết đuối. Tai nạn trong khi lặn. Một thằng bạn của hắn làm chứng như sau: sáng mà Titi Carmona mất tích, anh ta đã thấy hắn chuẩn bị xuống biển chơi với những bình khí oxy và những đồ nghề lặt vặt khác. Không ai thấy hắn lên lại.

 Người ta đã điều tra cho có lệ về sự mất tích này, sau đó thôi ngay. Phải nói là có đi lục lọi trên mặt nước cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì nhiều. Bởi vì ngoài một người hay giúp đỡ người khác ra, Carmona cũng là, và chủ yếu là một tay hay quyến rũ phụ nữ. Một Don Juan tỉnh lẻ. Ngoài vợ mình ra, hắn còn để lại đằng sau một toa tàu chở đầy vợ góa nửa vời không ai để an ủi. Hắn đã ngủ với một nửa phụ nữ trong thành phố. Chính vì thế, hắn đã tạo ra hàng loạt đàn ông bị mọc sừng và ghen tuông. Cũng vì thế, đối với cảnh sát chúng tôi, hắn tạo ra một danh sách chi chít những kẻ bị tình nghi - tất nhiên, trong trường hợp mà giả thiết về vụ tai nạn là không đúng.

Một số kẻ độc mồm độc miệng đã không ngại nói rằng viên cảnh sát trưởng đương nhiệm là một trong những người chồng bị phụ tình. Có thể lắm. Dẫu sao, cuối cùng người ta đã chính thức phao tin về khả năng chết đuối và để vụ án trôi đâu thì trôi. Vụ án được xếp xó.

Ngoại trừ đối với tôi.

Mối quan hệ nào giữa việc Thierry Carmona biến mất và Jean-Baptiste Cyrillus bị sát hại? Mối liên hệ nào giữa con gà trống trong sân và chuyên gia về văn học Pháp thời Phục hưng? Xem ra có vẻ không có. Nếu không phải hai người đều thích Florence.

Không phải nữ thần. Mà là con điếm.

Tôi chưa có bằng chứng chứng minh ông thầy đó đã qua lại với Florence Mazeau. Việc này cần phải xác minh. Tuy vậy, tôi có trong tay bốn tấm ảnh, được chụp trong quá trình theo dõi cô gái, trên đó có mặt đích thân Titi. Chỉ trong vòng tháng Tám, Titi đã đến nhà cô ta hai lần. Các bức ảnh cho thấy hắn ra vào như thế nào. Trong loạt ảnh đầu tiên, hắn đi một mình; hắn vào khu chung cư vào cuối buổi chiều và ra khỏi đó sau một tiếng đồng hồ. Trong loạt ảnh thứ hai, được chụp hai tuần sau, đi theo hắn là ba người khác. Chúng đến khoảng nửa đêm và cả bốn người ra về lúc rạng sáng - "...vẻ kiệt sức và dái dúm teo khô", theo lời bình tế nhị của ông bạn Roubion, lúc đó đang tham gia theo dõi đối tượng.

Cyrillus, Carmona, Florence: những con đường giao nhau. Tôi thấy bắt đầu những manh mối có vẻ khả quan hơn một chút.

Chính vì thế mà tôi xem lại thật kỹ tất cả những bức ảnh âm bản liên quan đến Florence và những mối quan hệ của cô ta. Lúc đầu, tôi chỉ nhìn xoáy qua thôi, lần này tôi nhìn kỹ hơn. Tôi lần giở, dò xét, đối chiếu. Và tôi nhận ra một cái đầu ngoi lên, đó là một thanh niên khoảng hai mươi tuổi. Vẫn luôn mặc đồ đen, áo vét và quần dài. Anh ta ngồi cùng cô gái trong một quán cà phê ở trường đại học; anh ta ngồi cùng cô gái trong một quán cà phê ở trung tâm thành phố; anh ta đang ra vào khu chung cư. Có tất cả mười bốn bức ảnh trong đó anh ta ở bên cạnh cô ta.

Tôi tự nhủ là thằng cha này hoặc là một khách hàng trung thành, hoặc là một kẻ si tình dại gái, hoặc là một người bạn rất thân.

Hoặc là cái gì khác.

 

"Jona và tôi có cùng nhiễm sắc thể. Nếu không phải tất cả thì cũng là phần nhiều, một tiểu đội nhiễm sắc thể đẹp đẽ bay trong chúng tôi. Chính vì thế mà chúng tôi giống nhau. Khi Jona cười là tôi cười. Khi Jona khóc là tôi khóc. Chúng tôi không thể làm khác được. Khi Jona không thở nữa, khi cá bơi đến rỉa lông mi của Jona, thì tôi có bị như vậy không? Đó là chuyện về nhiễm sắc thể. Về tế bào.

Đằng kia, trong Ngôi nhà thiên nga, mùa đông đang buốt giá. Lò sưởi đã tắt hết thảy. Mẹ là một người đa sầu đa cảm, hay khóc. Lúc đầu mẹ chờ ông ấy. Người chồng của mẹ. Khi thì ông ấy về nhà, khi thì không. Buổi tối, lúc về khuya, Jona và tôi nằm cùng một giường, một cái giường nhỏ, giường tôi hoặc giường của em. Lúc ánh sáng đèn pha rọi vào cửa sổ là lúc ông ấy về. Tôi biết mẹ lại mở to đôi mắt. Có tiếng cãi vã nhau và tiếng khóc xuyên qua những bức tường. Đôi khi, ông ấy lại ra đi. Có tiếng xe ôtô và sau đó im lặng kéo dài. Cuối cùng, mẹ không chờ ai nữa. Mẹ không chờ gì nữa. Mẹ đã cạn kiệt sự tức giận và nước mắt. Không còn tiếng cãi nhau, không còn tiếng khóc, chỉ còn sự im lặng. Áo của mẹ vẫn treo trong tủ và mẹ giam mình suốt đêm, suốt ngày trong phòng. Bạn thấy đấy, chỉ là chuyện tế bào thôi. Và Greenhill bảo tôi: "Mẹ cậu đang nghỉ ngơi." Bà Greenhill đã trở nên rất tử tế với tôi. Dạy xong, bà ở lại nhà cho đến khi tôi đi ngủ. Bà rủ tôi chơi: chơi trò đôminô, chơi trò lính thủy. Bà chuẩn bị các bữa ăn cho tôi, bà nhìn tôi ăn. "Để cho mẹ nghỉ", bà nói. Tôi không còn gọi bà là bà Gorila nữa. Tôi không còn chế giễu bà nữa. Cơ bản là vì tôi không muốn cười đùa gì nữa. Chuông đồng hồ điểm chín giờ trong phòng khách. Tôi muốn ở lại thêm một lúc nữa với bà Greenhill nhưng đã đến giờ rồi. Trước khi đi ngủ, tôi vào phòng mẹ tôi và ôm hôn bà. Mẹ tôi nằm. Tôi thấy mẹ tôi rất đẹp nhưng tôi không thích mùi hương của bà. Mùi hương đó như mùi hoa héo trong lọ. Tôi không biết mẹ tôi có thấy tôi không. Bà Greenhill vẫn đứng ở cửa. Sau đó, tôi lên giường và chờ Jona đến chỗ tôi.

Chuông điểm mười giờ.

Mười một giờ.

Mười hai giờ khuya.

Tôi đã lớn lên. Chân tay tôi dài ra. Cái giường chật lại. Jona quay lại muộn hơn.

Tôi quên nói gì nhỉ?... À! Tất cả vì lỗi của tôi cả. Jona khóc nhưng tôi đã tiếp tục chạy. Đó là lỗi của tôi và cũng là lỗi của quỷ dữ. Tất nhiên là có quỷ rồi! Tôi đã từng thấy. Tôi nghĩ tôi đã nói một lần rồi. Đây là lần thứ hai và là lần cuối cùng. Chúng tôi đang ở trong ngôi nhà trên cây, gần cái ao, quỷ đã đến thăm chúng tôi. Chúng tôi đã rất sợ. Jona đang ở trên tầng cao, em là người thấy con quỷ đó đầu tiên. Khi em kêu lên, tôi co chân chạy. Tôi không nghĩ ngợi gì cả. Tôi đã chạy. Jona mất thời gian leo xuống. Tôi quay lại một lần, chỉ một lần, tôi thấy chân em đu đưa. Em nhảy xuống. Em đã ở xa sau lưng tôi. Tôi vẫn tiếp tục chạy, chạy bạt mạng. Tôi chạy đến bờ ao. Lúc đó là vào mùa đông, sương giá phủ đầy mặt đất và những tảng băng bồng bềnh trên mặt nước, dọc theo bờ ao. Băng nứt dưới chân tôi. Jona, Jona của tôi vẫn còn kêu. Em kêu tên tôi, em kêu tôi chờ em. Chân em nhỏ hơn, em chạy không nhanh bằng, thế mà tôi lại không chờ em. Tôi chạy nhanh như chớp. Có lúc tôi bị trượt chân ngã xuống và va mặt vào một hòn đá. Ngay phía trên lông mày. Tôi chảy máu nhưng không đau. Tôi đứng dậy chạy tiếp. Jona của tôi kêu tên tôi, đó là lần duy nhất không phải tôi là người gọi tên em, như khi chúng tôi chơi trò trốn tìm, tôi tìm nàng khắp nơi, đó là lần duy nhất em là người gọi tôi. Tên tôi đập trong gió lạnh, nảy thia lia trên mặt nước giá băng. Jona, em thấy điều gì chưa, khi ai đó không trả lời thì sợ lắm. Đó là một trò chơi độc ác và ngu ngốc. Tôi nói với em trong đầu: "Im đi! Im đi! Im đi! Im đi!". Thực tế là tôi không muốn nghe tiếng em. Tôi không còn muốn nghe tiếng kêu của em nữa. Thực tế là tôi nghĩ nếu quỷ bắt được em, nó sẽ để tôi yên, nó không thể ăn thịt cả hai chúng tôi cùng một lúc. Sau đó, tôi nghe một tiếng động lạ, một tiếng răng rắc và tiếng cái gì đó rơi tõm xuống nước như có ai đó ném đá để đuổi thiên nga, rồi tôi không nghe gì nữa ngoài tiếng bước chân và tiếng thở của tôi. Tôi không dừng lại. Tôi đau ở phổi và cổ họng, tôi bị rát phổi và họng vì chạy nhiều quá. Thực tế là tôi rất hài lòng vì Jona của tôi không còn kêu nữa.

Giờ Jona của tôi không còn kêu nữa.

Chỉ có im lặng kéo dài.

Giờ khắc trôi qua. Tôi nằm trên giường và chờ em đến. Em đến muộn. Hay em còn chơi cái trò mà tôi rất ghét. Em chơi trò lạc đường rồi bỗng thình lình xuất hiện trước mắt tôi, nhảy xổ vào tôi mà cười như một người điên.

Em cứ làm đi. Lần này, anh sẽ chờ em. Anh hứa. Anh đang ở đây, em thấy đấy. Anh chờ em. Em có thể bảo anh làm những gì em muốn, em sẽ được mãn nguyện. Em có thể gọi anh. Em có thể kêu, có thể thì thầm tên anh cho quỷ dữ, nếu em muốn. Jona, Jona của tôi, hãy gọi tên anh! Anh sẽ trả lời em. Quỷ dữ không còn làm anh sợ nữa. Chính anh đã ăn thịt con quỷ đó."

 

Thật xúc động, phải không nào?

Tôi thú nhận là khi đọc lần đầu tiên, những trang viết này đã làm cho tôi bị chấn động mạnh mẽ. Ngôi nhà lớn ở miền quê, với những gian phòng mênh mông và giá buốt; sự xa vắng của người cha, người mẹ bị bỏ rơi, suy sụp trong tấm vải liệm làm bằng những tấm ga trải giường, hai đứa con tội nghiệp ôm chặt lấy nhau trong bóng đêm.

Tôi thấy được điều đó, từ đây.

Trong một thời gian dài, tôi không biết gì về sự tồn tại của người con gái tên là Jona này. Ariel chưa bao giờ nói cho tôi biết. Có lẽ tôi không đủ minh mẫn lắm để có thể giải mã được những câu nói bóng gió của hắn, để có thể nắm bắt được điều bí mật ẩn chứa đằng sau những lời tâm sự. Ngày cuối cùng, hắn đã bỏ rơi tôi, đúng vào ngày cuối cùng. Vào đêm cuối cùng. Tôi đã hiểu hơn một số điều, một số điều hoàn toàn bí ẩn đối với tôi cho đến lúc đó. Hỡi ôi, đã muộn quá rồi. Trong những cuốn sổ này, đứa trẻ là người nói ra: Đối với những ai đã từng biết Ariel, giọng điệu này có vẻ rất kỳ lạ. Hắn có cần phải đi đào sâu ở nơi xa? Vết thương có nhất thiết phải sâu, sâu hơn vết sẹo vẫn còn hằn lên đường lông mày của hắn? "Jona, Jona của tôi..." Ngay cả khi người ta biết những gì tôi biết, thì đó vẫn luôn là một giọng nói khi nào cũng có thể khiến người ta mủi lòng. Đúng thế, có khi tôi lại than phiền về hắn.

Trái lại, câu chuyện về con quỷ này khiến người ta bối rối. Ai ẩn náu đằng sau tên gọi này? Ai hay cái gì? Hay đó chỉ là một cách để trút bỏ gánh nặng?

Một cảm giác tội lỗi! Tôi nghĩ khó có thể tưởng tượng cảm giác đó nặng nề đến nhường nào. Đứa bé đã phá hủy thế giới của mình bằng chính đôi tay của mình - hay là kẻ muốn khẳng định mình đã làm như thế, cũng thế cả thôi. Làm sao có thể chuộc lại một lỗi lầm như thế? Làm sao có thể tái tạo lại thế giới đó?

Người ta có thể cố gắng làm điều không thể với những miếng ghép bằng gỗ. Người ta cũng có thể, thưa ông Astrid, mở lồng ngực của mình cho một con chim cổ đỏ để cho nó có nơi ẩn náu; người ta có thể xé toác trái tim mình và nuôi con chim bằng chính trái tim đó, có thể đổ máu để thỏa mãn bất cứ ước vọng nào.

 

Nắm tình hình xong mới biết là kẻ bận đồ đen trên các bức ảnh cũng là một sinh viên. Anh ta không cùng ngành với Florence và không theo học các giờ dạy của thầy Cyrillus. Anh ta ở trong một căn nhà cho thuê, không xa trường lắm. Tất nhiên, cảnh sát chúng tôi không hề biết gì về hắn. Tôi vẫn ghi tên hắn vào trong bộ não của mình: Édouard Dayms.

Để rồi xem.

Đồng thời, tôi bắt đầu đi sâu hơn vào cuộc đời của cô Mazeau. Để hiểu rõ hơn con người này. Cô gái này từ đâu đến? Tại sao cô ta đến đây, và đến như thế nào? Trong quá trình dò xét, cuối cùng tôi cũng đã phát hiện một số yếu tố thú vị. Bé Florence là một con ranh được bảo trợ bởi Trung tâm Sự vụ -Sức khỏe và Xã hội. Hai tuổi, em đến ở nhờ nhà Mazeau. Armand và Coralie Mazeau. Trong cái rủi thì con bé vẫn có cái may, bởi vì họ là những người chất phác. Họ nuôi con bé khôn lớn, và có thể thương nó như chính con đẻ của mình. Vài năm sau, việc nhận con bé làm con nuôi được chính thức hóa. Giờ Florence mang họ của bố mẹ nuôi. Đồng thời, nhà Mazeau cũng có một đứa con trai: Nicolas. Họ cứ nghĩ là không có con, thế mà cậu bé này đã chào đời. "Em trai" của Florence thua Florence ba tuổi. Nó bị bệnh về gien rất nặng; một căn bệnh chết tiệt biến nó thành một cọng rau. Armand và Coralie cố gắng đối mặt với thực tế.

Florence ở lại nhà bố mẹ nuôi cho đến tuổi mười bảy. Sau đó, con chim cổ đỏ đã cất cánh bay đi. Kể từ đó, cô ta bắt đầu làm ăn. Sự độc lập, cô ta mua bằng chính con người của mình.

Chi tiết khác về gia đình Mazeau: Armand, Coralie và con trai của họ là Nicolas đã chết trong một vụ hỏa hoạn. Nhà của họ đã bị cháy. Ngay giữa đêm khuya. Khi họ đang ngủ. Có vẻ như ngọn lửa lan ra từ nhà xe, nơi mà ông bố thường để gỗ và đồ gỗ. Ông ta là thợ mộc mà.

Vụ hỏa hoạn đã xảy ra khoảng vài tháng trước khi Jean-Baptiste Cyrillus bị sát hại và Thierry Carmona biến mất. Thêm một tai nạn đáng tiếc khác? Có thể. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên? Có thể. Nhưng theo tôi, dù sao thì cũng có nhiều cái chết trong một khoảng thời gian ngắn trong số những người thân của Florence Mazeau. Năm mạng sống trong vòng một năm, gần như một cuộc tàn sát.

Và rồi, ai dám nói với tôi là không có án mạng nào khác, những xác chết được giấu trong tủ tường chẳng hạn?

Tôi nghĩ đã đến lúc nói chuyện với đương sự quan trọng nhất - cô gái trẻ đi từ đám tang này sang đám tang khác, người có thể đang có nhu cầu được thổ lộ tâm tư. Thế là tôi...

 

- Đợi đã! Marie mở lời.

Tôi hơi giật mình khi nghe giọng Marie. Tôi ngước mắt lên. Marie vẫn đang ngồi trên ghế bành. Một tay giơ lên cao, lòng bàn tay hướng về tôi. Một cử chỉ ý muốn nói dừng lại.

- Đợi đã... Marie nói lại.

Rồi em khép mi mắt lại và thở dài.

Trở về với hiện tại. Gần như tôi đã quên tôi đang ở đâu và ở với ai. Có lẽ tôi đã nói khá lâu. Vầng trăng đã biến khỏi khung cửa sổ. Nền trời màu hoa cà. Tôi đưa mắt nhìn đồng hồ nhưng chẳng có. Marie đã không ngắt lời tôi, dù chỉ một lần.

Tay em buông xuống. Em lấy tay bóp trán. Tôi định đưa ra một lời xin lỗi nhạt nhẽo nào đó một lần nữa nhưng tôi đã kiềm chế được.

- Muộn rồi, tôi nói. Anh nên để em ngủ. Chúng ta sẽ tiếp tục vào ngày mai, hoặc một ngày nào khác.

Marie lắc đầu quầy quậy.

- Khoan đã. Cho em một vài phút để... nghiền ngẫm một tí.

Marie đứng dậy. Em đi vài bước trong phòng khách. Tiếng bàn chân trần đi nhẹ trên sàn nhà. Cuối cùng em đứng yên trước cửa sổ, quay mặt về phía màn đêm và thành phố đang ngủ. Sự im lặng đáng trân trọng. Tôi khô cả miệng, có cảm giác tai bị ù.

Đúng là có nhiều cái phải nạp cùng một lúc. Quá nhiều sự kiện. Quá nhiều cái tên. Quá nhiều cái chết. Những con đường số phận đè lên nhau, giao thoa lẫn nhau. Không dễ gì mà theo dõi. Tôi nghĩ Marie tận dụng thời gian giải lao đó để sắp xếp lại các biến cố. Nghề của em có thể giúp ích cho em. Em làm quản thư từ hai mươi năm nay. Em có thói quen thu thập và phân loại thông tin. Có thói quen phân tích, sắp xếp thông tin.

Nhưng thực tế, vào đúng lúc đó, trong đầu em nảy ra một ý khác.

Em lại quay về phía tôi và nhìn tôi chằm chằm, vẻ là lạ. Một cái nhìn lâu và chằm chằm đến nỗi cuối cùng tôi phải nói:

- Gì?

Marie không trả lời. Em xuống bếp. Tôi nghe tiếng em mở cửa và đóng cửa các tủ tường. Khi quay lại, em cầm một cái chai và hai cái ly. Rượu whisky.

- Em xin lỗi, Marie nói, nhưng em nghĩ là em cần.

Marie vẫn đứng trước khung cửa. Em chờ phản ứng của tôi.

- Anh xin em, tôi nói. Em đừng lo gì cho anh.

- Em rót rượu cho anh nhé?

- Không, cảm ơn. Cho anh cốc nước thôi. Một cốc nước thật đầy.

Marie lắc đầu. Rồi em ra chỗ vòi nước dưới bếp rót nước cho tôi rồi đổ một cốc mạch nha vào cốc của mình. Cạn.

Tôi không nhớ đã bao giờ thấy Marie uống rượu chưa. Tôi nhận ra rốt cuộc mình gần như không biết cuộc đời em đã ra sao. Đó phải chăng là thói quen của em, cái thứ rượu bổ mà em đang dùng này? Tôi cố hình dung em cô đơn một mình vào buổi tối, trong căn hộ này. Một gái già đang ngồi đọc sách. Đang nghe một đĩa nhạc. Michel Jonasz: "Anh muốn nói là anh đang chờ em". Hay có thể là Montand. Montand và Prévert chêm thêm vào đó: "Ôi, anh muốn em nhớ lại biết bao nhiêu..." Nhưng nhớ lại cái gì? Nhớ lại ai?

Marie...

Tôi tự hỏi xem em đã từng có đàn ông chưa? Bao nhiêu đàn ông? Dù cho là bao nhiêu, có lẽ họ cũng chỉ vuốt ve lên cơ thể em mà không để lại bất kỳ dấu vết sâu đậm nào. Vì cái gì, vì ai mà em vẫn suốt đời đẹp thế, dịu dàng thế, bao dung thế, vị tha thế? Bầu vú và trái tim em sẽ héo tàn mà không ai động lòng thương yêu. Trong sự thờ ơ lãnh đạm. Thậm chí không có lấy một chú rể trẻ trung chết trận mà em có thể khóc thương ai oán. Thậm chí không có lấy một anh lính vô danh. Người ta không dám tin là một cơn đau họng bình thường đã tước mất của em vĩnh viễn tình yêu duy nhất của mình.

Nhưng xin em đừng giận, Maria ạ: "Với thời gian, với thời gian, tất cả sẽ trôi đi..." Nếu như câu này có thể an ủi em!

- Nhạc nhé? Marie bỗng hỏi, như thể em đã dõi theo dòng suy nghĩ của tôi.

- Thế cũng được, tôi nói.

Em đi tìm đĩa. Em cho đĩa vào đầu đĩa. Exit Aznavour. Em lại cầm ly lên và nhìn thẳng vào mắt tôi trong khi những nốt nhạc đầu tiên thoát ra khỏi hư vô. Như thể những giọt mưa nhỏ hay những viên ngọc lửa đang bắn tung tóe vào vũ trụ. Franz Schubert: Khúc cao hứng cung si giáng. Tôi rùng mình nhưng vẫn chịu được ánh mắt của Marie.

- Chúc sức khỏe tất cả những người mà chúng ta luôn nhớ, em mở lời.

Cụng ly. Đến lượt mình, tôi đưa ly lên môi. Tôi hứng lên uống một hơi cạn ly rượu. Chúng tôi nghe nhạc một lúc. Tôi thấy những vệt nhỏ trước mắt mình; những chấm bọt muôn màu nhỏ xíu đang tung ra rất đẹp. Marie vẫn đứng giữa cái ghế và cửa sổ. Em nắm chặt cổ áo choàng. Hẳn chúng tôi đang cùng chung ý nghĩ. Cả hai chúng tôi đã nghe Léna chơi bản nhạc này hàng chục lần. Đó là một trong những bản nhạc mà Léna thích nhất. Tôi không hiểu tại sao lại nghe bản này chứ không phải bản khác. Đã từ lâu tôi không nghe lại. Và tôi khá bất ngờ khi có thể lắng nghe mà không chết đuối. Tôi cảm thấy cái gì đó như một nỗi buồn lành mạnh.

- Em biết không, tôi vừa nói vừa chỉ chai whisky, hơn mười tám tháng nay anh đã bỏ đấy.

- Tốt quá, Marie nói.

- Anh không nói để em khen anh đâu. Chỉ để cho em biết thôi.

- Rất tốt, Marie nói.

Vài giây sau, em nói thêm, ngập ngừng:

- Đúng thế, nhân đây, em tự hỏi là... à, em không thể hình dung nổi thế nào mà anh lại có thể thực hiện một cuộc điều tra khó khăn và tỉ mỉ như thế vào thời đó, trong khi mà... không lâu sau... sau tai nạn. Em còn nhớ là anh không được thuận lợi cho lắm. Thậm chí thỉnh thoảng em còn thấy anh trong một tình trạng...

- ... tuyệt vọng?

- Hay ít nhất là "thê thảm".

Tôi thở dài.

- Phải nói là anh có nhiều năng lực hơn dự đoán. Hay nói cách khác là phản xạ tốt hơn. Em biết đấy, Marie ạ, dù có nhiều khiếm khuyết nhưng anh là một cảnh sát giỏi. Anh không kiêu căng đâu. Anh là một cảnh sát giỏi thật đấy. Anh giỏi làm cảnh sát hơn là chơi đàn piano!

Câu nói đó làm cho Marie phải cười. Tôi cũng cười theo. Chúng tôi cảm thấy thoải mái hơn. Marie uống thêm một ngụm rồi tươi cười bỏ ly xuống.

- Anh chơi đàn đâu đến nỗi tồi, Marie nói.

- Anh chơi không tồi, chỉ tầm thường thôi, tệ hơn thế nữa... Em thì khác, em là người có tài năng! Em vẫn chơi đàn chứ?

Marie hơi bĩu môi, vẻ nửa thích, nửa vỡ mộng.

- Hơn mười tám tháng nay em đã bỏ!

Tôi gật đầu lia lịa. Điều đó không có nghĩa là tôi đồng ý, chỉ đơn giản là tôi đã hiểu.

- Anh rất thích khi hai chị em cùng chơi, tôi nói. Léna và em tạo thành bè đôi tuyệt vời.

- Đó là ảo giác! Marie nói. Chỉ có ở đàn ông.

Tôi liếc mắt nhìn Marie xem em có nghiêm túc không. Khó nói lắm. Cách đó ba mươi năm, có lẽ tôi đã đỏ mặt vì suy nghĩ đó của em.

- Em cũng thế, Marie nói tiếp. Em cũng thích thế.

Những nốt nhạc của Schubert tiếp tục nở hoa và héo tàn trong cùng một tích tắc, sau khi đã giải phóng tinh chất của chúng. Mùi hương và màu sắc. Những người thân đã khuất của chúng tôi đang nhón chân nhảy trong cánh đồng phù du đó.

- Có một điều nữa mà em phải biết, tôi nói.

- Cái gì?

- Không phải vì đã bỏ rượu mà anh tha thứ cho mình. Anh sẽ không bao giờ tha thứ cho mình.

Cái mồm của Édouard Dayms đập vào mắt tôi trong tích tắc. Sau đó rồi thôi. Marie đang gật đầu, hẳn cùng lý do như tôi gật đầu lúc nãy. Marie dốc hết ly rượu, mi mắt khép lại, mặt hơi nhăn nhó, rồi em về chỗ của mình trên ghế bành.

- Ta tiếp tục đi, Marie nói.

- Em chắc chắn chứ?

- Vâng.

- Anh đang nói đến đoạn nào rồi nhỉ?

- Anh đến gặp Florence lần đầu.

 

Lần này cũng không, tôi không gọi cô ta đến Sở cảnh sát.

Tôi tự mình đến nhà cô ta. Tôi muốn xem phòng cô ta thế nào. Tôi đến mà không báo trước. Tôi biết cô ta đang ở nhà một mình.

Căn hộ nằm ở tầng trên cùng. Hai phòng, một góc bếp. Nhỏ xíu. Cô ta có vẻ không ngạc nhiên khi tôi giơ thẻ ra. Cũng không sợ hãi. Thực ra, cô ta có vẻ hoàn toàn bất cần đời. Một cái gì đó như sự chán chường hay cam chịu. Lúc ấy tầm giữa buổi sáng, rõ ràng là không phải tôi đã kéo cô ta ra khỏi giường, nhưng tôi nghĩ có lẽ cô ta đã làm việc suốt đêm nên giờ mệt phờ.

Rồi sau đó, tôi đã hiểu.

Tôi chưa bao giờ nhìn gần cô ta. Thằng chết tiệt kia nói trong mắt Florence đầy bóng tối, đầy sự trống vắng. Tán phét. Thực ra, cô ta bị nghiện nặng!

Tôi đã gặp khá nhiều con nghiện nên tin chắc vào nhận định của mình. Có những dấu hiệu không đánh lừa ai được. Phát hiện này bỗng nhiên làm cho tôi cảm thấy bất ổn. Tôi tự hỏi là điều này có liên quan gì đến cuộc điều tra của tôi không. Mối liên quan trực tiếp. Tôi đã quyết định trước mắt nên giấu kín điều đó. Trước khi đến, tôi đã xác định một chiến thuật, một cách đối xử nào đó; tôi cố bám sát đối tượng.

Cô gái tiếp tục không để ý gì đến tôi. Cô ta lục lọi gì đó dưới bếp. Cô ta không mời tôi ngồi. Câu hỏi đầu tiên của tôi là:

- Khách hàng đầu tiên của chị đến lúc mấy giờ?

Ít nhất câu hỏi cũng có tác dụng làm cho cô ta thức tỉnh. Cô ta ngoái đầu lại, im lặng nhìn tôi chằm chằm khoảng mười giây rồi trả lời:

- 17 giờ 30.

Hết khúc dạo đầu.

- Tuyệt. Vậy chúng ta có đủ thời gian, tôi vừa nói vừa ngồi xuống tràng kỷ của cô ta.

- Tôi không nghĩ thế, không. Tôi chỉ tiếp khách theo hẹn.

- Thế à?... Rất tốt. Nào, chúng ta hẹn ngày nào đó đi. Chị muốn ở đây hay ở phòng làm việc của tôi?

Cô ta rửa tay rồi lấy khăn lau.

- Ông muốn gì, thưa ông Astrid? Cô ta hỏi.

Tôi ngạc nhiên là cô ta nhớ tên tôi.

- Cyrillus, tôi nói. Chị đã bao giờ nghe nói đến Jean-Baptiste Cyrillus chưa?

- Tất nhiên rồi. Nhưng tôi cứ nghĩ là vụ này xong rồi mà.

- Xong là đối với ông ta chứ không phải đối với chúng tôi. Thế nào?

- Thế nào cái gì?

- Quan hệ giữa chị và ông ta là như thế nào?

- Đó là một trong những người thầy của tôi.

- Không có gì khác à? Không có... giờ dạy thêm à?

Tôi nghĩ mình đã thấy một tia khinh bỉ trong ánh mắt của cô ta; tôi điên tiết lên.

- Chị nghe đây, tôi nói, chúng ta làm rõ mọi thứ nhé. Chị Mazeau ạ, tôi đếch cần quan tâm đến những việc chị đang làm. Cô có bán trôn nuôi miệng hay không thì đó cũng chỉ là mối bận tâm cuối cùng của tôi! Tất cả những gì tôi quan tâm, đó là muốn biết ai đã giết Jean-Baptiste Cyrillus. Ai đã quẳng xác ông ta ra ngoài sau khi đã cắt bộ phận sinh dục của ông ta rồi nhét vào miệng ông ta! Ai đã làm thế và tại sao! Đó là tất cả những gì tôi quan tâm. Chị hiểu không?

Tôi đã lên giọng khá nhiều nhưng tôi không nghĩ là câu trường thoại của tôi đã gây cho cô ta ấn tượng. Lúc đầu, cô ta không biết gì về tôi; bây giờ, mắt cô ta không rời tôi.

- Ông nghĩ người đó là tôi à?

- Tôi cố gắng không bỏ qua một khả năng nào.

Cô ta bước vài bước trong phòng.

- Theo tôi, ông ta đã đi tìm, cô ta nói.

- Tìm gì?

- Hình phạt.

Tôi không nói gì. Cô ta tiếp tục:

- Ông Cyrillus là một người thầy giỏi. Nhưng ông ta cũng là một người đồi bại, một kẻ bị ám ảnh tình dục. Ông muốn biết những sở thích của ông ta về khoản này à? Ông muốn biết ông ta bảo tôi làm gì à?

Ánh mắt thách thức. Tôi để ý thấy cô ta phát âm "ông Cyrillus" y như "ông Astrid".

- Đúng thế, tôi nói. Tôi muốn biết tất cả. Nhưng trước hết... Làm ơn cô cho tôi cái gì đó uống đi.

Ánh mắt cô ta vẫn thế, chỉ có khóe miệng kéo ra thành một nụ cười nhạt.

- Uống gì?

- Cô có đồ uống gì?

Cô ta tiến về một chiếc rương gỗ và nhấc nắp lên.

- Gin, Get, Whisky, Vodka, Cognac, Armagnac, Rhum, Cointreau, Tequila, Curaỗao, Malibu, Martini, Marie-Brizard...

Không phải là một lời thuyết minh đâu. Cô ta đã liệt kê những đồ uống đó ra một mạch. Phía trong chiếc rương, khoảng mười cái chai giơ cổ lên trời.

Cô ta kết luận:

- Tôi có tất cả những gì mà ông mơ ước.

Thêm một câu trả lời mà có lẽ cô ta đã nói hàng nghìn lần. Mặc dù vậy, bỗng nhiên tôi cảm thấy mình như một thằng nhóc nằm co ro trong giường cô ta giữa cơn giông tố. Cô ta rót rượu cho tôi. Ly rượu đầu tiên trong ngày. Cô ta khá ranh ma, để ngay cái chai đúng tầm tay của tôi. Những tửu phần tiếp theo, tự tay tôi rót lấy cho mình.

Tôi nghe Florence nói những gì cô ta biết về ông thầy. Tôi tin cô ta. Chẳng giúp tôi tiến xa hơn là mấy. Cô ta nói xong về Cyrillus, tôi cũng đã giải quyết xong ly vodka thứ ba của mình.

- Được rồi, tôi nói. Cyrillus coi như xong. Giờ chúng ta chuyển sang Carmona.

Tôi dò xét nét mặt cô ta. Cô ta có vẻ bị tác động. Nhắc đi nhắc lại "Carmona..." trong tiếng thì thầm, giọng như mơ ngủ.

- Thierry Carmona, tôi nói rõ. Titi. Một quan hệ khác của chị phải không?

- Tôi có hàng đống quan hệ, ông biết đấy.

- Tôi biết.

Cô ra nhẹ nhàng quỳ xuống tấm thảm vải, gần cái bàn. Mông tì lên gót chân.

- Thierry Carmona thường đến gặp tôi, đúng thế.

- Tại sao?

- Để ngủ với tôi.

- Điều đó thì tôi đoán ra rồi. Nhưng tại sao lại trả tiền, trong khi anh ta có thể làm việc đó miễn phí? Ít nhất cô có bao nhiêu quan hệ thì hắn có bấy nhiêu bồ bịch!

- Không phải con bồ nào cũng nhất thiết phải nhận lời.

Tôi bắt đầu uống ly thứ tư, đầu nghĩ đến câu nói đó. Cách xử thế của tôi trở nên rối như gà mắc tóc. Một lúc sau, Florence nói tiếp.

- Tôi nghe nói anh ta bị chết đuối. Tai nạn trong quá trình lặn.

- Đó là người ta nói.

- Anh ta rất hay lặn. Đó là đam mê của anh ta. Thỉnh thoảng anh ta có mang đến cho tôi những con nhím biển. Một giỏ nhím biển.

- Anh ta tử tế quá, tôi cười khẩy.

- Không, tôi không nghĩ Thierry Carmona là một người tử tế.

- Con bồ nào của hắn cũng được hưởng chế độ đãi ngộ như thế à?

Cô ta không trả lời. Tôi nói tiếp:

- Vả lại, anh ta không chỉ tặng chị những thứ ấy. Anh ta còn dẫn bạn bè của mình tới. Tóm lại là những khách hàng bổ sung.

- Nguyên tắc là thế cả thôi, Florence buột miệng, chuyện làm ăn mà.

- Đối với ai?

- Đối với anh ta. Đối với tôi. Đối với tất cả mọi người. Có những người mà Thierry Carmona buộc phải giúp đỡ. Anh ta muốn làm cho họ vui lòng. Tôi không làm gì khác.

- Vì quyền lợi chung.

- Đúng thế.

- Điều này khiến cho sự mất tích của anh ta không tiện cho công chuyện làm ăn của chị. Sau khi Cyrillus chết, chị thiệt thòi thêm.

- Tôi không ỷ lại họ để sống.

- Thế thì sau ai?

Thêm một nụ cười mèo. Và không có câu trả lời.

- Chị không ngạc nhiên sao, khi Carmona vốn là một thợ lặn có kinh nghiệm lại chết đuối? Tôi hỏi.

- Tại sao? Có bao nhiêu kẻ say rượu chết vì bệnh xơ gan... Đam mê thường giết người, thưa ông Astrid.

Đồ con đĩ.

- Sự ám ảnh cũng giết người, tôi chỉnh lại trước khi tiếp tục một cuộc trường thoại mới.

Tôi bắt đầu thấy nóng. Cái nóng của những đêm giông. Ngôi nhà kêu răng rắc quanh tôi. Tôi cởi mấy cúc áo trên.

- Carmona nữa là hai, tôi nói.

- Hai cái gì? Ông đang tính gì thế?

Cô ta biết rất rõ. Tôi nhìn cô ta, bỗng tôi muốn tước nụ cười của cô ta bằng hai hàm răng của mình.

- Những con ruồi rơi vào ly của tôi: tôi đếm những con ruồi đó. Gia đình chị có khỏe không, chị Mazeau?

Cô ta không nói gì. Tôi nhấn giọng.

- Bố mẹ chị? Em trai?... Nicolas, phải không?

Cô ta đứng dậy, không nói lời nào. Trên đầu gối cô ta có những vệt đỏ. Tôi không chịu buông tha.

- Có kiểu đam mê nào có thể giết chết những con người đó? Hả? Kiểu ám ảnh nào? Sự trừng phạt nào? Chị nói cho tôi nghe được không?

Tôi cảm thấy mình đang ra đi. Tôi cảm thấy những giọt mồ hôi toát trên trán mình. Tôi cảm thấy mình đang lên giọng. Lời nói đã trở nên quá lớn so với miệng của tôi.

- Gi d674 a đình quan trọng lắm! Tôi nói. Thậm chí gia đình là quan trọng nhất! Chị sẽ thấy, cô em xinh đẹp ạ, nếu một ngày nào đó có người đàn ông yêu chị. Nếu chị có may mắn sinh ra những đứa con, những đứa con chơi đùa trong phòng khách. Chị sẽ hiểu những gì tôi đang nói. Chúng ta chẳng là gì, chẳng là gì cả nếu không có gia đình nhỏ bé của mình, đừng bao giờ quên điều đó!

Có lẽ tôi đã hét lên để chính mình nghe chính mình nói. Sấm nổ rung chuyển cả những bức tường, chớp chiếu sáng gian phòng và những cái bóng mà nó để lại thì quá lớn, quá cao so với tôi.

Tôi rót ly rượu thứ năm hay thứ sáu gì đó và dốc cạn. Rồi tôi lao đến chiếc tràng kỷ và chờ cho mọi thứ yên lặng trở lại. Một phút. Một giờ. Tôi không biết.

Florence Mazeau đứng ngay giữa phòng, hoàn toàn bất động. Mắt cô ta nhìn tôi nhưng tôi thầm tin là cô ta đang hướng về điều khác. Mỗi người có mảnh đất náu thân của mình. Mỗi người có địa ngục của mình. Tôi không hề cảm thấy thương hại, thương hại cô ta hay thương hại tôi.

Tôi giơ tay, như để gọi cô ta. Rồi tôi chìa tay ra đếm từng ngón một:

- Cyrillus, Carmona, Coralie, Armand, Nicolas... Tất cả là năm. Như người ta thường gọi là họa vô đơn chí!

Cô ta nhíu mày. Cô ta đã thấy tôi. Giọng trẻ măng, cô ta hỏi:

- Hết chưa?

- Chưa, tôi nói.

Tôi rút từ túi quần ra một phong bì. Trong phong bì có sáu bức ảnh chụp Florence và một thanh niên bận đồ đen. Tôi bày ảnh trên bàn, cạnh chai rượu.

- Còn anh ta, tôi nói, ai thế?

Cô ta từ từ lại gần. Chăm chú đứng nhìn từng bức ảnh một. Một lúc sau, cô ta nói:

- Ông đã theo dõi tôi à?

Điều đó có vẻ làm cho cô ta thích thú hơn là những điều khác.

- Đúng thế, tôi đã theo dõi. Thế nào? Ai thế?

- Người nào?

- Thằng mặc đồ đen. Cái thằng khi nào cũng đứng cạnh chị đấy. Chị nói qua cho tôi về người này đi.

Cô ta lại quỳ xuống. Cô ta cầm một bức ảnh lên, rồi một bức ảnh khác. Cô ta xem ảnh rất lâu. Rồi bỗng nhiên, mắt cô ta sáng lên. Nói thế nghe có vẻ buồn cười, nhưng đúng là như vậy: một tia sáng lóe lên trong mắt cô ta. Một cơn sốt.

Cô ta đặt ảnh xuống rồi hỏi lại:

- Người nào?

Lạ quá, tôi không có cảm giác là cô ta giễu tôi. Khi cơn giông bắt đầu ngưng, tôi lại dường như sẵn sàng tác chiến. Nếu cô gái đó làm cho tôi bước đi được, tôi có thể nhận ra điều đó. Nhưng câu hỏi của cô ta thành thực thật. Đến nỗi mà không có mối nghi ngờ độc ác nào thoáng qua đầu tôi. Đến lượt mình, tôi cầm lấy những bức ảnh lên rồi chăm chú xem.

- Tôi chỉ thấy duy nhất một người bận đồ đen, tôi nói. Cùng một người cả. Trừ phi....

Tôi lại chăm chú nhìn ảnh. Nhìn gần hơn.

- ... Trừ phi đó là anh em sinh đôi. Chị muốn nói thế à?

Đúng lúc đó, cô ta cười phá lên. Bất ngờ. Một điệu cười sang sảng, chối tai, một nụ cười tan giòn như thủy tinh vỡ. Một nụ cười hoàn toàn điên rồ. Tôi không thể nhắc đến Florence Mazeau mà không nghe thấy tiếng cười này, giờ tôi vẫn còn rùng mình vì tiếng cười đó. Đó là một tiếng cười cất lên để không bao giờ dừng lại. Tôi tự nhủ là cô gái này đang hoàn toàn bị đốt cháy. Không thể nắm bắt. Tôi tưởng tượng cô ta đang bị thiêu sống trên một giàn lửa thiêu; tiếng cười của cô ta vẫn vang như chuông qua những ngọn lửa, qua khói và qua các thế kỷ.

Khi bình tĩnh trở lại, mặt cô ta trở nên rạng rỡ.

Cô ta nói:

- Có thể là anh em... Anh em ruột thịt. Không phải anh em sinh đôi đâu. Họ khác nhau thế.

Tôi nghiêng người về phía cô ta. Tôi nói giọng nhẹ nhàng nhất có thể; cái giọng nhỏ ra từng giọt mà người ta thường nói với những bệnh nhân nan y. Sau tiếng cười pha lê của cô ta, tôi có cảm giác người cô ta được làm bằng chất liệu này và cô ta có thể vỡ ra từng mảnh trước mắt tôi. Tôi nhầm. Cô ta mạnh mẽ hơn tôi nhiều.

- Thế họ tên là gì, theo chị? Tôi hỏi.

Lần này, cô ta không ngập ngừng.

- Có Matthieu, và Ariel. Chúng tôi đã đặt tên họ như vậy.

Tưởng chừng như cô ta kể cho tôi tên của những đứa con thần đồng của mình.

- Chị tưởng thế thật à?

- Tôi không tưởng. Tôi biết.

Tôi thở dài.

- Chỉ có một người trên các bức ảnh, chị Mazeau ạ. Chỉ có một. Tôi khẳng định với chị như thế. Anh ta tên là Édouard Dayms.

Cô ta không tan vỡ. Thậm chí cô ta cũng không bị nứt rạn.

Cô ta nói:

- Có những điều mà ông sẽ không bao giờ hiểu được, ông Astrid ạ.

- Thằng đó đã nói dối cô. Chắc chắn hắn đã thao túng cô. Có phải hắn là tình nhân của cô không?

Cô ta khẽ lắc đầu, vẻ hạ cố. Cô ta chính là người đang thương hại tôi.

- Ông thấy đấy, cô ta nói. Điều này vượt quá khả năng của ông, thế nên ông mới thu nhỏ tất cả cho đúng với thước đo của mình. Như thầy Cyrillus. Như Thierry Carmona. Như tất cả những người khác. Các ông cần có một thế giới đúng tầm của mình. Thu nhỏ. Sát đất. Một thế giới chật hẹp và bẩn thỉu. Nhưng vũ trụ mênh mông hơn thế. Như tình yêu. Tình yêu bất tận. Thậm chí ông không hề biết tình yêu có ý nghĩa như thế nào. Tình yêu không có giới hạn. Không có giới hạn nào. Không hề. Không hề. Không hề. Nếu không, chúng ta sẽ không còn nói về tình yêu nữa. Chúng ta nói về những gì ông biết. Ông biết gì về tình yêu, thưa ông ?

Tôi nhìn cô ta chằm chằm mà không trả lời. Ánh sáng đã ngập tràn đôi mắt cô ta và cháy, cháy. Ánh mắt của một người cuồng tưởng. Tôi nghĩ cô gái này cần được giải độc và lần này, tôi sẽ không khai thác được thêm điều gì. Nhưng điều tệ hại nhất, theo tôi, đó là đồng thời tôi phải đấu tranh để chắc chắn rằng cô ta không có lý. Bởi vì lời lẽ của cô ta đã làm tôi xúc động, một cách miễn cưỡng. Những giọt axít nhỏ đúng chỗ và làm cho các bạn đau đớn, một cách khắc nghiệt, chúng xuyên thủng, đào sâu vào trong sâu thẳm của bạn.

"Phương pháp Édouard Dayms" đáng nhớ.

Florence là một đệ tử xuất sắc. Cô ta đã xác định được điểm nhạy cảm. Cô ta đã phun nọc độc. Khi mà sau đó, đến lượt sư phụ thay thế thì thuốc độc đã lên men.

Tôi biết gì về tình yêu ư?

Mẹ kiếp!

Đúng vào ngày đó, cuộc chiến đã bắt đầu. Nhưng tôi không có cách gì để biết điều đó.

Tôi nặng nề nhấc mông khỏi tràng kỷ. Căn phòng hơi chao đảo. Tôi giữ thăng bằng và bắt đầu gom ảnh lại.

- Tôi có thể giữ lại bức này không? Florence hỏi.

Trên bức ảnh mà cô ta chỉ cho tôi, người ta thấy họ, cô ta và anh ta, ngồi bên nhau ở quán cà phê trong trường đại học. Xung quanh họ không có ai. Bầu trời trong xanh, cái bàn nhựa trắng rực rỡ ánh nắng. Người ta thấy một vài mẩu bánh mì trên khay. Tay họ đặt cạnh nhau nhưng không chạm nhau. Họ nhìn nhau. Một đôi hòa hợp tuyệt vời. Đó là bức ảnh duy nhất mà anh bạn trẻ mặc đồ đen mỉm cười. Tôi những muốn biết đó là Ariel hay là Matthieu.

- Không, tôi trả lời.

Tôi bỏ bức ảnh vào túi cùng những bức ảnh khác.

Khi tôi rời căn hộ, Florence Mazeau vẫn quỳ trên sàn nhà, trước cái bàn trên đó có một chai vodka đã cạn ba phần tư.

 

Schubert đã chết lúc ba mươi mốt tuổi. Mozart ba mươi lăm. Tôi, tôi đã gần ba mươi bảy tuổi và có hai câu hỏi vẫn làm cho tôi đau đớn:

Tôi đã làm gì với cuộc đời của mình?

Tôi biết gì về tình yêu?

Những câu hỏi vừa bình thường vừa cơ bản. Nhẽ ra, những câu trả lời đã kết liễu đời tôi.

Sau khi đến gặp Florence, tôi say trong hai ngày liền. Ngày thứ ba và đêm thứ ba, tôi đã lên men, đằm mình trên nền gạch trong phòng của bọn trẻ. Thiên thần đã không ra hiệu cho tôi. Tôi những muốn có một bàn tay cứu rỗi nào đó đóng một cái cọc vào bụng tôi và không ai nói đến tôi nữa. Không thể tự lo cho mình. Những lời cầu nguyện của tôi không tuột ra khỏi bờ môi. Chỉ một ít nước bọt sớm muộn gì cũng khô. Tôi nhắm mắt lại và cảm thấy nóng. Thấy lạnh. Thấy sục sôi. Thấy buốt giá. Lưng áp xuống đất, hai tay bắt chéo nhưng đừng tưởng bở, da tôi dày lắm, xương tôi bền lắm, thể xác bồng bềnh trôi nhưng tôi vẫn thở, mẹ kiếp, tôi vẫn còn thở, ngay tại đây, trong gian phòng đã chết!

Cuộc đời của tôi. Sự nghiệp của tôi.

Tôi có cái giá của tôi. Khi đã đái ra hết rượu, khi đã khóc hết nước mắt thì sẽ còn lại gì? Nằm xuống đất, tôi nghĩ lại những lời mà con đĩ nhãi ranh bí hiểm và hư hỏng đã nói với tôi. Tôi lại nghĩ về tên mặc áo đen. Tôi lại nghĩ về Léna và những thiên thần trong trắng. Tất cả đều lẫn lộn. Thường thường, trong những trường hợp như thế, khi những suy nghĩ đó lúc nhúc trong đầu tôi, trong mạch máu tôi là tôi bỏ mặc thế, với hy vọng những con súc vật nhỏ bé sẽ đến ăn thịt tôi. Nhưng mà chúng cũng không thèm thịt tôi. Thịt thối mà. Tôi thối nát bên trong đến nỗi những con súc vật chết tiệt đó nhăn mặt, nhổ nước bọt rồi bỏ đi. Tôi vẫn ở đây. Vẫn đang thở.

Tôi thấy ngày thứ tư thức dậy như không có chuyện gì xảy ra. Ánh sáng ban ngày len lỏi qua cửa sổ và dùng ánh mặt trời rạch ngang những cái giường mà chúng không ngủ nữa. Tại sao ư? Thế tại sao lại tạo ra ánh sáng? Tuy nhiên, ánh sáng ban ngày cóc cần những điều ấy.

Và rồi... Và rồi tôi đã thấy một gương mặt xuất hiện, đó là em, Maria. Đó là em. Tay em không cầm cái cọc nào cả. Em giúp tôi đứng dậy. Em nhấc tôi lên khỏi mặt đất. Em vuốt tóc tôi. Và cứ như thế. Ngày thứ năm, tôi bước đi trên cát ướt và suy nghĩ. Với tư cách một cảnh sát. Với tư cách một cảnh sát giỏi, là tôi. Tôi quyết định gọi một số cuộc điện thoại. Bốn mươi tám giờ trôi qua trước khi tôi đối diện với quỷ lần đầu tiên trong đời.

Hắn đã nhận được giấy triệu tập theo đúng thủ tục và hắn không chậm trễ. Bận đồ đen, theo thói quen. Theo những bức ảnh và chút ít thông tin đã thu thập được về hắn, tôi đã hình dung ra một công tử bột nhỏ con và kiêu căng. Khi hắn bước qua ngưỡng cửa, khi hắn đưa mắt nhìn tôi, tôi ngộ ra mình đã liên tục sai lầm.

Édouard Dayms chưa đến hai mươi tuổi. Nhưng ánh mắt của hắn nói lên rất nhiều điều. Đó là ánh mắt của một người đã vượt qua không gian và thời gian, đã đương đầu với nhiều cuộc đời và đã chiến thắng. Nếu như có lúc tôi đã từng nghĩ, nếu như lịch sử thế giới, quá khứ, hiện tại và tương lai đã được ghi tạc vào trong lòng mỗi người chúng ta, thì Édouard Dayms thuộc những người hiếm hoi có khả năng giải mã lịch sử đó. Một năng khiếu chỉ có ở các vị thần linh và ở người điên. Một sức nặng có thể nặng quá, hiếm người nhấc lên được. Mozart, Schubert... Còn Édouard Dayms, hắn đã tự nã súng vào đầu ở tuổi ba mươi ba.

Vâng, tôi cân lên nhấc xuống những lời nói của mình. Tôi không phải là người sa đà vào chủ nghĩa bí truyền dễ dãi. Tôi không chia sẻ sự sủng ái mù quáng và bệnh hoạn dành cho một Florence Mazeau nào đó. Tôi không còn chịu tác động của rượu. Từ những biến cố này, năm tháng đã được tích lũy và bây giờ, tôi nghĩ mình có đủ kinh nghiệm để truyền lại. Tôi biết mình đang nói gì.

Édouard Dayms là thằng đểu cáng nhất mà tôi đã từng gặp, nhưng đó không phải là lý do để tước đi... "quyền lực" của hắn. Không thể hiểu nổi điều gì đã xảy ra và không thể tin vào câu chuyện này nếu chúng ta nhất nhất không chịu chấp nhận hắn ta là một dị nhân. Ed quỷ, Ed phù thủy, Ed tâm thần, Ed sát nhân... Hắn ta có thể mang tất cả những tên gọi này, và nhiều tên gọi khác nữa. Một số khía cạnh trong nhân cách của hắn sẽ mãi mãi là một ẩn số đối với chúng ta. Và tôi cấm mình nhìn nhận những khía cạnh nhân cách đó là "siêu nhiên", những khả năng phải nói là vô song.

Không phải cứ chê bai sức mạnh của cái ác là chúng ta có thể thắng cái ác.

Vào thời đó, tôi còn có phòng làm việc riêng. Có đề tên ở cửa. Có người đẩy Édouard Dayms vào và trong phòng chỉ còn lại hai chúng tôi. Tôi mời hắn ngồi xuống, rồi giả vờ quên sự hiện diện của hắn bằng cách tập trung xem một hồ sơ. Để cho hắn ngồi đó mà suy nghĩ. Phương pháp cổ điển mà. Sẽ là quá thô lỗ nếu tác động lên vị khách đó. Tôi buộc phải giả vờ đọc, nhưng chính sự khó chịu lại xâm chiếm lấy tôi. Tôi đã chờ lâu đến mức có thể.

Khi khép hồ sơ lại và ngẩng đầu lên, tôi nhận ra Édouard Dayms không hề để ý đến tôi. Hắn đang quan sát cái khung ảnh nhỏ đặt ở góc bàn làm việc của tôi. Khung ảnh có bức ảnh chụp vào ngày lễ Giáng sinh trong đó có Hélène đeo khuyên tai màu xanh và hai thiên thần bận đồ quận trưởng. Édouard Dayms nhìn bức ảnh này với một sự chăm chú kỳ lạ. Tôi cứ tưởng hắn đã xem xét đến tận bên trong bức ảnh, dò tìm những chi tiết bên lề, nơi mà những vết thương và những điều bí ẩn nở hoa. Chính ở đó hắn đã nắm bắt được tất cả.

Tôi cũng chẳng phải vừa. Chính tôi cũng tận dụng lúc đó để nghiên cứu gương mặt của hắn. Édouard Dayms có một vẻ đẹp hào nhoáng và lạnh lùng - khi nói điều này, tôi nghĩ đến một cảnh tuyết rơi lộng lẫy, thuần khiết, chưa có dấu chân người - nếu không có vết sẹo nhỏ ở phía trên lông mày. Tôi cũng tin chắc rằng, trái với Florence, hắn không dùng thuốc phiện. Và quả vậy, "phong cách" của hắn khác hẳn, mạnh mẽ hơn rất nhiều.

Im lặng kéo dài. Édouard Dayms là người phá tan sự im lặng đó:

- Chúng không có thời gian bắt được nhiều cướp phải không?

Đó là những lời đầu tiên hắn nói với tôi. Không phải là một câu hỏi. Chỉ là giọng nói. Hắn vẫn chăm chú nhìn vào khuôn ảnh. Miệng tôi hé mở. Tôi không chắc mình đã nắm bắt được gì đó.

- Những thằng nhỏ làm quận trưởng ấy... hắn nói rõ. Khi ấy chúng bao nhiêu tuổi nhỉ?

Tôi đưa mắt nhìn bức ảnh, rồi nhìn hắn. Tôi nghe mình nói:

- Đứa sáu tuổi, đứa tám tuổi.

Tôi hối hận ngay. Tôi nghiến răng nghiến lợi, mạnh đến gãy cả răng. Nhưng quá muộn rồi. Édouard Dayms nhìn chằm chằm vào mắt tôi. Hắn chỉ tìm cách cho tôi biết sơ qua về sức mạnh hiện tại của hắn. Một sự cảnh giác. Một mệnh lệnh.

Từ lúc đó, tôi không còn sự lựa chọn nào khác: hoặc nấp dưới bóng con người hắn và xin hắn khoan hồng; hoặc nhảy xổ vào người hắn, kiểu cảm tử quân. Tất nhiên, tôi đã chọn phương án thứ hai - cơ hội quá đẹp. Tôi thong thả úp khung ảnh xuống bàn, để hắn không nhìn thấy. Rồi tôi nói:

- Tôi đang được hân hạnh nói chuyện với ai đây?... Bây giờ anh là ai? Matthieu? Ariel? Édouard? Hay ai khác? Một người mới chăng?

Hắn khẽ nở nụ cười, một nụ cười thoáng buồn. Có thể buồn thật khi tôi không chịu đầu hàng.
Hắn nói:

- Florence đã nói với tôi về việc ông đến gặp
cô ấy.

- Và cô ta kể hết cho anh chứ?

- Tất cả những gì mà cô ấy quan tâm. Tôi nghĩ mình là một người biết lắng nghe người khác.

- Đúng đấy, tôi cũng thế. Thế này nhé, bây giờ chúng ta lắng nghe lẫn nhau!

Vẫn một nụ cười sầu não trên môi hắn. Tôi hối hận vì đã đưa ra câu nói xỏ hai chiều ấy. Cảnh sát thiếu nghiêm túc. Tôi cần phải nâng tầm của mình lên.

- Thế nào? Tôi nói tiếp, sao lại có sự hoang tưởng về cặp anh em sinh đôi này?

- Một trò chơi nhỏ giữa hai chúng tôi thôi, Édouard trả lời. Tôi, anh, nó... khi người này rút lui thì người kia thế chỗ. Bánh xe quay theo từng
chủ thể.

- Có nghĩa là...?

- Những khía cạnh khác nhau trong tính cách của chúng tôi, nếu ông muốn. Ông biết đấy, thưa ông Astrid, mỗi chúng tôi thực ra là nhiều người cùng một lúc. Khi đó, sao lại không cố gắng đi sâu vào bản chất sự việc? Cố gắng đem lại hình hài cho những gì xuất hiện, chẳng hạn như nhìn nhận về trí óc của từng người. Đó là một kinh nghiệm khá rối rắm, tôi phải nói như thế. Đôi khi chóng mặt.

- Cũng có thêm hai chữ: "Nguy hiểm", tôi
nghĩ thế.

- Quả là có một số rủi ro thật. Có lẽ đó là lí do vì sao phần lớn mọi người đều sợ lao vào cuộc.

- Xem ra đó không phải là trường hợp của anh.

Édouard Dayms nhìn chằm chằm.

- Còn ông, thưa ông Astrid! Chả lẽ ông chưa bao giờ bị cám dỗ? Một sự thay đổi. Chuyển hoán... Nếu người ta cho phép ông lựa chọn, chẳng hạn như giữa con người của ông và con người mà ông muốn trở thành?

- Bởi vì ngoài ra người ta còn có thể lựa chọn!

- Cái gì cũng phải học cả.

- Về phần tôi, có vẻ như tôi đã gặp khá nhiều khó khăn trong việc giữ nguyên mình...

- Đó là kiểu suy nghĩ chung chung và định kiến, kiểu suy nghĩ đó làm cho chúng ta gãy cánh. "Được là chính mình" có nghĩa là gì? Chả là gì cả. "Tôi" là ai? Chỉ là sự lừa đảo. Đó chỉ là sự lừa lọc trong số vô vàn sự lừa lọc khác. Ông chưa nghe rõ tôi nói, thưa ông Astrid: chúng tôi là nhiều người. Chúng tôi là bội số. Hãy mở chuồng ra rồi ông sẽ thấy có bao nhiêu người cất cánh bay đi.

Thời gian chết.

Ed, kẻ thao túng... Hắn dường như có thể ăn tươi nuốt sống tôi ngay từ lần đầu tiên này. Tôi nhận thấy hắn lôi tôi đi đâu hắn muốn, tùy ý hắn. Trên khoảnh đất trơn trượt của hắn, tôi không có cơ hội nào. Tôi nhận thức rõ là thằng nhóc con mười chín tuổi này bán tôi đầu cổng chợ. Nhưng làm sao để đấu tranh? Làm sao để chống lại?

Édouard Dayms đúc kết những con người của chính mình. Nếu hắn có một đối thủ đúng tầm, đó chỉ là Đức Chúa mà thôi. Tất cả những cử chỉ chống đỡ tội nghiệp của tôi, tất cả những cú nảy mình vì lòng kiêu hãnh của tôi hẳn đã khiến cho hắn cười vãi đái hoặc cảm thấy thương hại.

Tôi không ưa sự vượt trội của hắn. Tôi không ưa những lời lẽ khó hiểu mang tính bí ẩn tâm lí ấy của hắn, tôi không ưa cách hắn nói "Thưa ông Astrid", hắn làm tôi nhớ lại cách nói của Florence, nhưng cách nói của hắn có vẻ dối trá và thấm thía hơn.

Tôi không ưa cái nhìn như thôi miên của hắn. Tôi tự thề với mình là sẽ lột da hắn ra. Thêm một lời hứa không được thực hiện. Édouard Dayms ngồi trước mặt tôi, còn tôi thấy mình đang vùng vẫy trong đôi mắt hắn.

- Mánh khóe của anh giống với tất cả mọi người chứ không giống với một kẻ vô tội nhỏ mọn! Tôi nói tiếp. Dù sao thì Florence Mazeau cũng tin anh như đinh đóng cột.

- Đó là một người phụ nữ nhạy cảm. Và lãng mạn.

- Đó là một con điếm.

- Tôi không nói về chuyện công việc.

- Thế thì giờ ta nói chuyện về công việc! Cô ta là cái gì đối với anh? Hai anh chị có vẻ rất thân thiết với nhau. Anh chị đã gặp nhau ở đâu?

- Năm ngoái, ở trường đại học.

- Chuyện tình sét đánh à?

- Đúng hơn là một sự... công nhận lẫn nhau.

- Thế à! Thế giá cả cô ta đưa ra, anh cũng công nhận chứ?

Hắn im lặng thăm dò tôi một lúc - thời gian để ngắm cho trúng đích. Tôi biết, mà biết điều này chỉ hại thân, là mỗi mũi tên mà chúng tôi phóng vào người hắn đều quay trở lại bắn vào chúng tôi với sức mạnh gấp mười. Và mũi tên có tẩm độc.

- Người ta vẫn có thể tiên đoán, thưa ông Astrid, cái giá mà người ta sẽ phải trả cho những hành động của mình. Những ai nói với ông điều ngược lại chỉ là những kẻ hèn nhát.

Một câu nói làm cho người ra run rẩy tận trong đáy lòng. Tôi phải cố gắng kinh khủng mới giữ cho đầu mình thẳng hướng. Để không liếc mắt nhìn về phía khung ảnh nhỏ đang úp sấp xuống.

Và tôi tiếp tục lao vào tường.

- Đừng có nói với tôi là anh chưa bao giờ đụng đến cô gái này!

- Ông nói theo nghĩa nào?

- Nghĩa nào ư? Tôi hỏi anh là anh có ngủ với cô ta không? Anh có quan hệ tình dục không? Được cho không hay phải trả tiền?

- Không. Quan hệ của chúng tôi không nằm ở khía cạnh đó.

- Xem nào! Tôi cứ tưởng là anh sẽ tiết lộ cho tôi cái gì đó liên quan đến việc này chứ.

- Chính là vì ông có một sự minh mẫn đáng sợ.

Thằng cha này thậm chí không mỉm cười.

- Đúng thế, tôi nói. Thế quan hệ của anh chị nằm ở khía cạnh nào?

- Tôi nghĩ là Florence cần tôi.

- Thế à? Để làm gì? Để bảo vệ cô ta chắc? Để che chở cô ta chắc?

- Ông định khép tôi vào tội dắt gái à, thưa ông Astrid?

- Sao lại không? Tôi nhổ nước bọt. Trong khi chờ những tội khác nghiêm trọng hơn.

Hắn nhìn nắm đấm của tôi co lại trên bàn.

Xương trồi lên. Khớp trắng ra. Hắn ta lắc đầu. Rồi với cái giọng nhẹ nhàng đến chết người, với cái giọng như vuốt ve những cánh hoa trước khi giật phăng, hắn nói:

- Tôi hiểu chứ. Tôi biết đó là cái gì. Khi cơn đau thức dậy. Khi nó biến thành cuồng nộ. Phải đấm vào đâu đó. Mặc kệ thằng nào đi qua lúc ấy... (hắn dựng người dậy, hít sâu rồi tiếp tục với giọng điệu như vậy)... Tôi và ông không đến nỗi xa lạ nhau thế đâu, thưa ông Astrid. Chúng ta có những điểm chung. Chỉ có điều, chúng ta không muốn lắng nghe những giọng nói sau lưng mình. Những tiếng khóc. Những tiếng kêu cứu. Chúng ta giả vờ điếc tai trước những tiếng kêu gào. Chúng ta cứ chạy, chạy, chạy. Chúng ta đã phản bội. Và sự im lặng cứ nhắc đi nhắc lại cho chúng ta điều đó. Sự im lặng ngự trị bây giờ tệ hơn tất cả. Tất nhiên là tôi hiểu... Ôi! Giá như có cách chuộc lại lỗi lầm! Giá như chúng ta có thể làm nổ tung sự im lặng đó. Làm cho nó tan biến. Giá như chúng ta có thể nghe lại những lời cầu nguyện. Và cố gắng thực hiện những lời nguyện cầu đó. Bằng bất cứ giá nào.

"Ông thấy đấy, thưa ông Astrid, tôi yêu Florence. Tôi yêu Florence... như một người em gái."

Hắn im lặng. Tôi nuốt từng lời hắn nói mà không phản đối gì. Thụ động. Tê liệt.

Khi nghĩ đến cuộc thẩm vấn đầu tiên này, tôi tự nhủ Édouard Dayms đã cho tôi biết một số manh mối, những cánh cửa mở ra thế giới của hắn. Có lẽ hắn ta muốn tôi vào đó, chí ít là như một vị khách. Hắn chỉ cho tôi lối vào, chỗ này chỗ kia, tôi chỉ còn mỗi việc là tìm ra mật mã. Nhưng tôi đã không biết cách tìm ra kịp thời.

Người tôi rung lên. Tôi rời ghế và đi quanh bàn làm việc một lúc. Chân mềm nhũn, cổ họng khô. Những mạch máu trên cơ thể tôi bắt đầu vòi vĩnh khẩu phần của chúng.

Một lần nữa, tôi cố kéo cuộc tranh luận về phía lãnh địa của mình. Trong phạm vi của mình. Có nghĩa là dưới đáy sâu cống rãnh thiết thân của mình.

- Vì Mazeau kể cho anh mọi chuyện, tôi nghĩ cô ta cũng nói với anh về khách hàng của mình chứ. Trừ phi điều đó thuộc về bí mật nghề nghiệp?

- Thỉnh thoảng cô ấy có nói với tôi.

- Về thầy Cyrillus chẳng hạn?

- Về ông ta. Về Thierry Carmona nữa, nếu ông muốn biết. Và một số người khác nữa.

- Nhiều người khác?

- Một số người. Theo thói quen.

- Chắc là anh ghét những người đó, phải không? Nếu như tôi có một người "em", có lẽ tôi sẽ hằn học với tất cả những gã đến ngủ với nó. Làm nhơ bẩn cơ thể nó. Làm sao mà có thể chịu đựng nổi? Dường như tôi sẽ căm thù bọn chúng, muốn bắt chúng trả giá thật đắt cho hành động ghê tởm của chúng. Đó không phải là vai trò của một người anh trai sao?

Một vài giây trôi qua. Édouard Dayms trở nên câm lặng khiến tôi nghĩ mình đã ghi điểm. Tôi không bất bình với chính mình. Rồi với cái giọng đều đều, hắn nói:

-Về phía tôi, nếu như tôi có một người vợ và hai thằng con trai dễ thương, có lẽ tôi đã đưa họ đi biển. Dạo chơi trên bờ biển với họ. Có lẽ tôi sẽ cầm tay họ, kéo tay họ về phía ánh sáng. Có lẽ tôi sẽ thích thấy trong mắt họ mỗi ngày là một ngày mới. Và không nơi nào khác.

Tôi những muốn tát cho đồ giẻ rách này một cái. Tôi những muốn nắm lấy tóc hắn và đập đầu hắn xuống bàn. Thay vì thế, tôi cảm thấy chóng mặt, tôi nhắm mắt lại và dồn hết sức lực để đứng vững, để không ngã xuống.

Khi tôi mở mắt ra, hắn đã đứng ngay trước mặt tôi. Cái nhìn vô cảm. Một thằng nhãi ranh mười chín tuổi đã từng thấy nhiều thế kỷ trôi qua.

- Mỗi người có cách chuộc tội của mình, hắn nói. Cho dù vô ích. Bởi vì ông và tôi, chúng ta biết rõ là chúng ta không bao giờ có thể tự tha thứ cho mình. Không bao giờ.

Nói xong, hắn tiến về phía cửa. Trước khi chào ra về, hắn còn thì thầm:

- Hẹn gặp lại, thưa ông Astrid...

Rồi hắn đi ra.

Việc đó xảy ra không quá mười phút.

Tôi không nói lời nào, không có cử chỉ nào để giữ hắn lại. Tôi lê người như một ông già về phía ghế và ngồi sụp xuống. Tôi nhận ra khung ảnh đã được dựng lên ở góc bàn. Hai thằng bé quận trưởng đang tươi cười nhìn tôi chằm chằm. Một trong hai đứa đang nhắm bắn tôi bằng một khẩu súng nhựa.

 

Người chết, anh bạn thân mến ạ.

Titi đi gặp bé Elmer ở xứ sở tưởng tượng.

Và cả bọn vô lại nữa.

Những cái chết, có những cái chết khác. Đó là vòng xoắn ốc, đó là cơn gió lốc mỗi lúc mỗi lớn, được nuôi dưỡng bằng chính sự hư vô đang lan ra của nó và đồng thời được tái sinh. Không ai mới có một chút đã tự bằng lòng.

Việc đó kéo dài ba năm trời.

Người chết.

Ban đầu người chết hàn gắn chúng ta, làm chỗ dựa cho chúng ta, mang lại sức mạnh cho chúng ta ngay trong xã hội tự cung tự cấp bí mật của chúng ta. Cả ba như một người duy nhất. Người chết biến chúng ta thành những kẻ duy nhất và đầy sức mạnh.

Xét cho cùng, người chết chia lìa chúng ta.

Vì sau mỗi tấm gương có những gương mặt của họ.

Vì tay họ chìa ra, những bàn tay trơ xương tái hiện, móng vuốt bám vào vách. Vì xương của họ gãy vỡ dưới từng bước đi của chúng ta, và dưới mỗi sự im lặng của chúng ta là những giọng nói rì rầm của họ, tiếng thầm thì của họ, tiếng râm ran của họ, không chỉ một đêm, không nghỉ một giây. Vì những linh hồn của họ xâm chiếm lấy chúng ta và theo chúng ta đi khắp mọi nơi.

Người chết.

Nếu các bạn quên họ thì họ cũng vẫn không quên các bạn.

Chúng ta đã đi lên quá cao. Chúng ta cứ tưởng được bình yên vô sự. Họ đã đuổi kịp chúng ta. Chúng ta lại ngã xuống hố sâu. Đó là một nhận định giản đơn, có trời mới biết làm thế có phải trả giá không, nhưng chúng ta đã thất bại.

Không phải có hai hòn bi nhỏ bằng kim loại là có thể bắt thời gian dừng lại, phải không?

Thế là mọi chuyện đã diễn ra trong vòng ba năm đó. Đi lên, chóng mặt, ngã xuống. Hơn nữa, đó là một cú ngã cực kỳ chậm. Những thay đổi nhỏ trong quan hệ của chúng ta cũng khiến cho người lạ, một kẻ trần tục, chỉ thấy lửa là lửa. Chính tôi, tôi chỉ nhận thức đầy đủ điều đó qua đôi mắt của Flo. Vẫn luôn như thế. Phải nói rằng mắt của Florence là điểm ngắm duy nhất của tôi. Chính trong ánh mắt của Florence mà tôi đã dần dần nhìn thấy sự nghi ngờ lan tỏa. Rồi sự hoang mang, lo lắng, hối hận, lo sợ, tất cả những sắc thái mong manh đó. Và cuối cùng, đó là sự sợ hãi. Chính trong đôi mắt đó mà tôi đã học được cách định vị những cái bóng đáng nhớ đó, những đôi cánh đen bay qua hay ở lại. Trong ánh mắt của Florence, khi em nhìn Ariel, em thấy là quỷ tồn tại - vả lại, không phải chính em là người cầu cứu nó ư?

Có tin vào huyền thoại cũng vô ích thôi, có chiêm ngưỡng vẻ đẹp của mặt nạ cũng hoài công thôi, máu đang chảy thật. Tôi còn nhớ một buổi chiều tối mùa đông, tại Thời gian đã mất, nơi mà tôi và em đang ngồi. Chúng tôi chờ Ariel nhưng hắn không đến. Đêm đã xuống.

Ngoài kia, trời đang mưa. Quán cà phê lúc ấy rất đông người và ồn ào nhưng tôi chỉ nghe thấy sự im lặng của em, hơi thở của em, những cái chớp mắt của em. Tôi còn nhớ những lời mà em đã bỗng nhiên thầm thì:

- Sẽ không bao giờ kết thúc...

Tôi hãy còn nhớ sự tuyệt vọng của em.

Theo phản xạ, tôi đặt tay mình lên tay em và nói:

- Có chứ! Anh thề với em là có chứ! Em hãy tin ở anh.

Vào lúc đó, tôi không biết việc đó sẽ kết thúc như thế nào, tôi không biết gì hết, nhưng tôi cứ đánh liều. Tôi nghĩ Florence đã tin tôi. Tôi từ từ buông tay em. Tôi còn nhớ Ariel đã không đến.

Ariel không lừa bịp. Hắn biết cách đọc những gì trong mắt của Florence, như tôi, thậm chí là hơn tôi.

 

Nghỉ.

Marie chớp mắt như thấy ánh sáng tỏa ra từ một đường hầm dài. Ly của em đã cạn. Em không rót thêm rượu. Em nghiêng người đặt ly xuống bàn, vạt áo của em hé ra và tôi thoáng thấy bầu vú của em. Rất đẹp. Rất trắng. Một hơi ấm xâm chiếm cơ thể tôi. Tôi cứ nghĩ mình đã mãi náu thân trong những xúc cảm kiểu như vậy.

Bản giao hưởng của Schubert đã tắt ngấm từ lâu. Marie im lặng. Tôi không biết em có nghĩ gì đến điều mà em vừa nghe thấy hay là mệt mỏi đã bắt đầu nhấn chìm em.

- Đúng là một người thật lạ... Cuối cùng Marie nhận xét. - Anh đã nghi ngờ ngay hắn là kẻ giết người à?

- Không phải nghi ngờ, tôi nói. Mà là sự chắc chắn. Một "niềm tin sâu kín". Ngay lần gặp đầu tiên, anh đã biết là chính hắn. Và hắn biết là anh biết. Nhưng anh không có bằng chứng. Lúc đó thì chưa.

- Và sau này, hắn đã thú tội à?

- Không. Trừ phi có thể xem bản viết tay này là những lời thú tội.

Marie nhăn mặt.

- Nếu như em đã đọc kỹ thì hắn chưa bao giờ nói là hắn đã giết người. Hắn nói về những người chết, thế thôi... Vả lại, theo những gì hắn nói, còn có những cái chết khác, ngoài ông thầy và Carmona ra.

- Và gia đình Mazeau nữa, em đừng quên điều đó. Gia đình đã nhận Florence làm con nuôi.

- Vụ hỏa hoạn à? Anh chắc chắn là hắn chứ?

- Trong tất cả những tội ác của hắn, đó thậm chí là tội duy nhất mà anh gần như có thể chứng minh.

- Tất cả có bao nhiêu án mạng, anh có biết không?

Tôi đứng dậy rồi bước vài bước.

- Khó nói lắm. Để biết chính xác có bao nhiêu nạn nhân và danh tính của họ, nhẽ ra anh đã phải tìm danh sách tất cả các khách hàng của Florence. Những khách quen cũng như khách vãng lai. Đồng thời công nhận là Édouard Dayms chỉ mới lục lọi trong ao cá đó. Chẳng hạn như chưa tính đến gia đình Mazeau. Nhưng anh nghĩ đó chỉ là ngoại lệ.

- "Anh mà đòi yêu em, anh mà đòi làm cho em thỏa mãn à"...

- Đúng thế! Ít nhất là về điểm đó, anh đã không nhầm: Édouard Dayms tấn công những kẻ, bằng cách này hay cách khác, làm khổ người mà hắn che chở. "Em gái" của hắn, như hắn thường gọi.

- Như vậy danh sách khá dài.

- Đồng thời, nhẽ ra anh phải tham khảo các tư liệu liên quan đến những vụ án chưa được sáng tỏ, chẳng hạn như những án mạng hay những vụ mất tích đáng nghi. Kể cả các vụ tai nạn nữa. Và cuối cùng, nhẽ ra anh phải so sánh hai danh sách này bằng cách tìm kiếm những cái tên trùng nhau. Với một ít may mắn... Suy cho cùng, có lẽ đó không phải là một việc gì to tát lắm, nhưng mà....

- Nhưng mà anh đã không làm thế, Marie nói thêm, giọng nhẹ nhàng.

Quá nhẹ nhàng.

Hai tay tôi đặt bộ hồ sơ xuống tràng kỷ rồi nhìn thẳng vào mắt Marie.

- Anh thật sự muốn tóm thằng đểu đó, Marie ạ! Ít khi anh bao dung đối với những kẻ giết người, dù đó là ai. Và anh biết mình đang nói gì!

Marie nhìn xuống một lát.

- Đó không phải điều mà...

- Nhưng anh đã nghĩ vẫn còn những người chết sau này. Anh có việc phải lo với năm cái chết đó. Thế nên anh đã chọn một phương án điều tra khác. Phương án hợp với anh nhất. Anh đã làm với Édouard Dayms đúng như hắn đã làm với Florence Mazeau : anh đã đào sâu.

Những ngón tay tôi móc vào tấm da bọc tràng kỷ.

Tôi duỗi tay ra từ từ.

- Em không nghi ngờ gì về những ý định của anh, anh Alexandre ạ.

Tôi tiến sát cửa sổ và nhìn bâng quơ vào bóng đêm trước khi trả lời:

- Em không sai khi nghi ngờ anh. Bởi vì thực tế mà nói, những ý định của anh không được rõ ràng cho lắm... Thậm chí anh nghĩ là khi ấy anh chỉ có một và duy nhất một ý định, đó là đi đến tận cùng, có thế thôi.

- Tận cùng cái gì? Marie thận trọng hỏi.

Tôi gí trán mình vào cửa kính. Mặt kính rất lạnh.

Một giọng nói thầm thì trong đầu tôi: "Những thiên thần nhỏ bé của bố, những cao bồi nhỏ bé đáng yêu của bố..."

- Tận cùng cái gì, anh Alex?

Một ánh đèn màu da cam nhấp nháy trên một đại lộ xa xa. Thế thôi. Không thấy bất cứ đèn pha nào. Tôi quay lại, ngồi xuống.

- Hôm đó, khi Édouard Dayms rời phòng rồi, anh tự nhủ hắn chính là người mà anh chờ đợi.

- Sao lại thế được?

- Bàn tay. Bàn tay cầm một khúc gỗ. Cái bàn tay cứu rỗi nện cho anh một cú định mệnh. Đó là bàn tay hắn. Cái bàn tay sẽ kết liễu đời anh. Đúng hơn là sẽ giải phóng đời anh!

Marie nhìn tôi một lúc, vẻ khinh bỉ. Rồi em cúi xuống cầm lấy chai rượu. Rồi cổ áo của em lại trễ xuống. Da thịt trắng như sữa của một cô gái miền Đông. Cho đến tối hôm đó và trong vòng nửa thế kỷ đã qua, tôi chỉ thoáng thấy ngực em một lần duy nhất. Mặc dù thế, sau lần nhìn ấy, tôi đã nuôi rất nhiều mộng mơ.

- Thế nào? Em hỏi.

- Thế nào cái gì?

- Anh có đạt được những gì mình đang tìm hay không?

Marie rót thêm một ly rượu whisky nữa. Một cơn sóng ngầm. Em uống một mạch cạn ly. Dường như tôi cảm thấy bỏng rát ở cổ của chính mình.

- Có, theo một cách nào đó, tôi nói. Nhưng không hoàn toàn.

- Thật không may, Marie nói, giọng chua cay.

Em ngửa đầu ra lưng ghế. Giờ tôi như vẫn thấy em lúc đó, như đang lặp lại tất cả những lần mà em đã nâng tôi dậy, đỡ lấy tôi, dìu tôi đi. Tất cả những lần mà em đỡ tôi trên vai hay ôm tôi vào lòng.

Cái nòi đàn ông là cái nòi ngu xuẩn nhất, bạc tình nhất trần gian, anh đồng ý như vậy, Maria ạ.

Marie cầm cái lý rỗng trên tay, tôi không thể không rình lúc em cúi xuống đặt ly xuống bàn.

- Sao lại là anh? Bỗng Marie hỏi tôi.

Tôi nhìn em không hiểu.

- Sao thằng cha ấy lại bám riết anh?

- Trước hết là bởi vì anh là người chịu trách nhiệm điều tra. Sau đó, bởi vì anh đã tìm đúng người, như anh vừa nói với em ấy. Rồi, do hoàn cảnh đưa đẩy, có lẽ anh đã trở thành một con mồi ngoan ngoãn.

- Đó không phải là những lý do đầy đủ. Trời ạ! Nhưng hắn đã thẳng thừng ăn tươi nuốt sống anh. Hắn đã ăn sống anh. Anh đã đọc lại những gì hắn viết, như em. Hắn đã... bắt con của anh, Alex ạ! Étienne và Mattéo. Rồi Nathan nữa. Hắn đã thuần phục các con anh. Gần như thế, nhưng hắn đã biến con của anh thành con của hắn! Chưa kể những người khác. Có vẻ như hắn đã chiếm lấy một phần đời anh. Có vẻ như hắn đã đội lốt anh!

- Còn sâu xa hơn thế, Marie ạ.

- Và trước hết, sao lại có thể thế được? Sao mà hắn đã biết? Những điều thầm kín ấy. Những chi tiết ấy. Những chi tiết mà chính em, em cũng không biết nữa. Do đâu mà hắn biết được? Cho dù có tất cả những "quyền lực" mà anh truyền sang cho hắn, em cũng không thể tin được là hắn đã đoán biết tất cả nhờ vào mỗi một bức ảnh!

Rượu bắt đầu tác động. Và tình trạng mất ngủ nữa. Rồi những cú sốc liên tục. Mặt Marie từ từ chuyển sang màu đỏ, gân nổi trên cổ em.

- Những gì mà tự hắn không tìm ra, tôi nói, chính anh là người cho hắn biết.

- Anh ư?

Marie há hốc miệng một lúc.

Tôi đứng bật dậy.

- Chưa phải lúc, tôi nói. Anh sẽ giải thích cho em tất cả, anh hứa đấy. Nhưng không phải tối hôm nay. Chuyện còn dài nhưng em cần được nghỉ ngơi.

Marie hiểu là lần này tôi sẽ không nhượng bộ. Em không còn phản đối nữa, đầu em lại ngửa ra lưng ghế.

Tôi đưa mắt nhìn quanh như để tìm hành lý. Không có gì khác ngoài cái túi bị xé. Tôi định dọn bàn nhưng Marie nói: "Anh để đấy".

Sau đó, em hỏi:

- Đúng ra thì anh chờ đợi gì ở em?

Tôi hít sâu, rồi nói:

- Ta bắt đầu từ đầu đi. Một cái gì đó thật cụ thể: Tại sao lại nói về điều này chẳng hạn. Câu bằng tiếng Anh này do đâu mà có? Câu đó có nghĩa gì? Anh chắc chắn là nó phải có một ý nghĩa đặc biệt nào đó, và anh tin vào những hiểu biết về văn hóa của em, sự tài tình của em để cho anh biết điều đó.

- Thế thôi à?

- Sau đó sẽ tính sau. Từ điều này sang điều khác.

- Em có thể giữ lại bản chép tay này được không? Ít nhất là cho đến lần tới.

- Làm con tin à?

- Vật bảo lãnh.

- Ừ, em có thể.

- Em sẽ cố gắng hết mình, anh Alex ạ.

- Anh biết.

Marie đứng dậy trong khi tôi khoác áo vào. Em tiễn tôi ra cửa:

- Khi nào anh em mình gặp lại nhau? Marie hỏi tôi.

- Ngày mai, nếu em muốn. Hay là hôm nay luôn... Hoặc anh đến đón em ở trường, hoặc ta hẹn nhau đâu đó.

- Hẹn nhau ư?

- Ừ. Đúng thế. Hẹn nhau.

- Ở đâu?

Sau năm giây. Giọng nói của chúng tôi cùng cất lên. Đồng bộ. Âm đối âm.

- Ở Thời gian đã mất!

Một điều hiển nhiên. Môi em thoáng nở một nụ cười.

- Sáu giờ chiều có mặt ở đó nhé, tôi nói. Được không?

- Được, anh ạ.

Đứng đối diện với khung cửa, trong bộ áo choàng màu xanh da trời, em nói thêm:

- Anh sẽ đến chứ, anh Alex?

Tôi trả lời:

- Anh sẽ đến, Maria ạ.

Rồi tôi bước ra vào cái giờ rất quen với mình: giờ hoa cà. Đó là giờ đầu tiên của ngày hay giờ cuối cùng của đêm?

Khí trời buốt giá. Tôi biết chắc chắn mình muốn đi đâu. Tôi lấy xe và chạy qua thành phố đang thức giấc. Tôi chạy một lúc trên sườn treo rồi cho xe đậu sát bờ biển. Ngồi trong xe, tôi chờ mặt trời mọc sau mũi Estié. Một vầng dương nhạt xanh và lạnh lẽo. Tôi nghĩ là đã miêu tả nó một cách chính xác. Rồi tôi nổ máy và về nhà.

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/85252


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận