Thứ Tư ngày 23 tháng Sáu, tôi thức dậy vào khoảng giữa trưa. Mùi thơm tuyệt diệu của cà phê và bánh waffle mới làm bay ra từ gian bếp nhỏ của Lorna. Con mèo của nàng, ngài Thomas, đã kéo được một góc của khăn trải giường xuống sàn nhà và giờ đây đang cuộn tròn trên đó, cạnh chân giường. Tôi đi vòng qua nó và đi vào bếp để hôn Lorna. Tờ báo đã mở sẵn trên bàn và tôi coi liếc qua trong khi Lorna rót cà phê. Một chuỗi án mạng với những ký hiệu bí ẩn, tờ Thời báo Oxford loan tin với sự kiêu hãnh địa phương không giấu giếm, đã trở thành tin chính trên các báo ở London. Họ nhắc lại trên trang nhất vài đề mục trang nhất ngày hôm qua của những tờ báo quốc gia. Chỉ có thế, rõ ràng chưa có biến chuyển gì mới cả.
Tôi tìm các trang trong xem có tin gì về buổi thuyết giảng ở Cambridge hay không. Chỉ có một đề mục ngắn ngủi “Con Moby Dick[1] của các nhà toán học”, bao gồm một danh sách dài những ý đồ muốn chứng minh định lý Fermat đã thất bại bao năm qua. Bài báo cho biết là quanh Oxbridge[2], người ta đã đặt cuộc với nhau về kết quả của bài cuối trong số ba bài giảng buổi chiều nay, và tỉ lệ vào lúc này vẫn là sáu ăn một chống lại Wiles.
Lorna đã giữ chỗ một sân quần vợt lúc một giờ. Chúng tôi ghé qua ngõ Cunliffe cho tôi vào lấy vợt rồi chơi rất lâu không gián đoạn, tập trung hoàn toàn vào quả banh bay qua lại trên khung lưới, trong khoảng sân chữ nhật nằm bên ngoài thời gian. Khi chúng tôi rời sân, tôi thấy trên đồng hồ tòa nhà câu lạc bộ là đã gần ba giờ, và hỏi Lorna có thể ngừng một chút ở Viện trên đường về được không. Tòa nhà vắng ngắt và tôi phải bật đèn lên trong khi lên lầu. Trong phòng máy vi tính, cũng hoàn toàn trống trải, tôi mở email ra xem. Có một tin nhắn đang được phát tán ra như một thứ mật khẩu đến các nhà toán học trên toàn thế giới: Wiles đã làm được! Không có chi tiết gì về lời giải sau cùng cả. Chỉ thấy nói rằng phép chứng minh của anh ta đã thuyết phục được các chuyên gia, và nếu viết ra, nó có thể dài đến hơn hai trăm trang giấy.
“Tin mừng à?” Lorna hỏi tôi khi đã trở lại trong xe.
Tôi thuật lại cho nàng, và trong giọng nói thán phục của tôi nàng hẳn đã nắm được nỗi niềm hãnh diện đầy mâu thuẫn tôi cảm thấy về các nhà toán học.
“Có lẽ anh ước mình đã có mặt ở đấy trưa nay nhỉ,” nàng cười, nói tiếp. “Em có thể làm gì đền bù cho anh đây?”
Chúng tôi bỏ hết buổi chiều còn lại làm tình như một đôi thỏ hạnh phúc. Đến bảy giờ, trời đã tối, chúng tôi đang nằm bên nhau trong sự im lặng vì kiệt sức thì điện thoại đổ chuông. Lorna nhoài qua người tôi để trả lời. Vẻ mặt nàng hiện lên một sự hoảng hốt, rồi sau đó là nỗi đau buồn khiếp sợ. Nàng ra dấu cho tôi mở tivi lên, rồi kẹp chiếc điện thoại giữa cằm và vai, nàng bắt đầu mặc quần áo.
“Vừa mới xảy ra một tai nạn trên đường vàoOxford, ở chỗ người ta gọi là “tam giác mù”. Một xe bus cán qua thành cầu rồi rơi xuống bờ sông. Người ta đang dự trù nhiều xe cứu thương chở người bị nạn sẽ về đến Radcliffe - họ cần em vào phòng X-quang ngay.”
Tôi đổi qua các kênh đến khi tìm thấy tin địa phương. Một xướng ngôn viên nữ đang vừa nói vừa tiến lại gần hàng lan can bị gãy nát của cây cầu. Tôi ấn vào nút chiếc điều khiển, nhưng vẫn không thấy âm thanh gì cả.
“Âm thanh hư rồi,” Lorna nói. Đã mặc quần áo đầy đủ, nàng đang tìm kiếm bộ đồng phục trong tủ áo.
“Seldom và một đám đông các nhà toán học đang đi về từ Cambridge hồi trưa nay trên xe bus.” Tôi nói.
Lorna quay phắt lại, như vừa bị một linh cảm kinh hoàng túm lấy, và đi lại chỗ tôi.
“Chúa ơi, nếu về từ đó thì họ đã phải đi qua cây cầu kia.”
Chúng tôi nhìn chăm chăm một cách tuyệt vọng vào màn ảnh. Họ quay cảnh những mảnh kính vỡ vung vãi trên cầu ở chỗ chiếc xe bus đã tông qua lan can. Trong khi người xướng ngôn viên nhìn sang bên kia và chỉ trỏ, chúng tôi thấy, qua kính phóng đại, khối kim loại dúm dó đã từng là chiếc xe bus. Ống kính di chuyển chập chờn, theo sau người xướng ngôn viên khi cô ta lần đường đi xuống con dốc dựng đứng. Một phần khung xe đã gãy rời ra nằm lại chỗ chiếc bus hẳn đã đụng vào mặt đất. Ống kính xoay để chiếu dưới đáy dốc, giờ đã gần lại hơn nhiều. Xe cứu thương đã tìm được cách tiến sát đằng sau chiếc xe bus, và những người cấp cứu đã bắt đầu kéo các hành khách ra. Có một cận cảnh làm cho người ta nhói lòng, chiếu những khung cửa sổ xe câm lặng, vỡ nát và phần thân xe màu cam chìa ra một dấu hiệu tôi không nhận ra. Lorna bóp chặt lấy tay tôi.
“Đấy là xe trường học,” nàng nói. “Trời ơi, có trẻ con trong đó! Anh có nghĩ...” nàng thì thào, nói không hết nổi câu. Nàng nhìn tôi, hoảng sợ, làm như một trò chơi chúng tôi đang chơi đã biến thành hiện thực ác mộng. “Em phải đi vào bệnh viện đây,” nàng nói, hôn tôi thật vội. “Cứ dập cửa lại khi anh đi khỏi nhé.”
Tôi ngồi lại xem sự nối tiếp của những hình ảnh như có sức thôi miên trên màn hình. Máy quay phim đi hết một vòng xe, tập trung vào một cửa sổ nơi nhóm cứu hộ đang tụ tập. Một người cấp cứu đã trèo được vào trong xe bus và cố gắng đưa một đứa trẻ ra. Một cặp chân trần của con nít xuất hiện, treo lủng lẳng như bị lọi cho đến lúc một dãy những cánh tay, làm thành một cái cáng, đỡ lấy chúng. Đứa bé mặc quần đùi thể thao, dính máu ở một bên, và giày tập trắng toát. Khi toàn thể thân mình nó hiện ra, tôi thấy được là nó đã xỏ một cái áo có chữ số rất lớn chạy ngang ngực. Máy quay lại nhằm trở lại vào khung cửa sổ. Một đôi tay đang rất cẩn thận đỡ lấy đầu cậu bé; máu đang rỏ xuống theo cổ tay, chắc là đổ ra từ gáy nó. Máy hình chiếu sát vào mặt cậu bé, và tôi giật mình nhận ra, dưới mái tóc vàng bù xù cắt ngang, những đường nét không thể nào lầm lẫn được của một đứa trẻ bị hội chứng Down. Khuôn mặt của anh chàng bên trong xe bus giờ mới ló ra. Miệng anh ta mấp máy câu gì không rõ, lặp đi lặp lại một cách khẩn thiết, và ra dấu với bàn tay đẫm máu là không còn ai bên trong xe cả.
Máy hình chuyển bước theo đoàn người mang đứa trẻ cuối cùng đi vòng đằng sau xe bus. Rồi có ai đó ngăn người quay phim không cho đi xa hơn nữa, nhưng nó cũng vẫn quay được trong thoáng chốc một dãy thân hình nằm trên cáng phủ vải. Chương trình giờ đây trở lại chỗ phòng phát hình, và chiếu lên tấm hình của một nhóm con trai trước một trận đấu. Chúng chính là đội tuyển bóng rổ của một trường học cho trẻ con bị hội chứng Down, đang trên đường về từ một trận đấu liên trường bênCambridge. Tên của lũ trẻ hiện lên một lúc ngắn ngủi ở dưới cùng màn hình - năm tuyển thủ và năm dự bị - nối tiếp bằng một thông báo ngắn ngủi là cả mười đều đã chết. Rồi một tấm hình khác hiện lên: khuôn mặt một người đàn ông trẻ, mà tôi lơ mơ nhận ra, mặc dù tên tuổi ở dưới hình, Ralph Johhson, thì khá là lạ tai. Anh ta chính là tài xế xe bus. Có vẻ như anh ta đã cố nhảy được ra ngoài trước khi xe đụng, nhưng rồi cũng chết khi chưa về đến bệnh viện. Tấm ảnh rời khỏi màn hình, thay thế bằng một danh sách những thảm kịch đã từng xảy ra cũng tại chỗ này.
Tôi tắt tivi và nằm xuống với một chiếc gối đè trên mắt, cố nhớ lại mình đã thấy mặt người lái xe bus ở đâu. Tấm hình không nghi ngờ gì đã được chụp từ nhiều năm trước. Mái tóc thật ngắn, loăn quăn, gò má sắc, đôi mắt sùm sụp - tôi đã thấy anh ta rồi, không phải như một tài xế xe bus mà ở chỗ khác. Ở đâu kia chứ? Tôi cáu kỉnh ngồi dậy và đi tắm thật lâu, cố nhớ lại mọi khuôn mặt mình đã gặp trong thành phố. Khi tôi đã mặc quần áo xong và đang vào lại buồng ngủ để lấy giày, tôi cố nhớ lại khuôn mặt trên màn hình những lọn tóc quăn nhỏ, dày, dáng vẻ quá khích. Phải rồi, tôi ngồi trên giường, sững sờ vì kinh ngạc, vì bao nhiêu sự suy diễn khác nhau. Nhưng tôi dám chắc mình đã đúng. Nói đến cùng thì tôi đâu có quen nhiều người ở Oxford này đến vậy. Tôi gọi bệnh viện và xin gặp Lorna. Khi nàng đã nhấc máy, tôi hỏi, giọng tự động hạ xuống:
“Người lái xe bus... anh ta là bố của Caitlin, phải không?”
“Phải,” nàng nói sau một chốc, và tôi nhận thấy nàng cũng đang gần như thì thầm.
“Có phải chuyện này đúng như anh đang nghĩ không?” tôi hỏi.
“Em không biết. Em không muốn nói gì cả. Một trong các bộ phổi đã thích hợp. Caitlin mới được đưa vào phòng mổ - người ta nghĩ còn kịp cứu nó.”
[1] Con cá voi trắng mà suốt đời người ta tìm kiếm, trong tác phẩm cùng tên của Herman Melville.
[2] Cách gọi gộp chung cả hai trườngOxford vàCambridge.
Hết chương 23. Mời các bạn đón đọc chương 24!