Theo quy định tại khoản 1 Điều 131 Luật Đất đai năm 2003 thì “Hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của Công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất” và quy định này được hướng dẫn một cách cụ thể hơn tại điểm 2.1 khoản 1 Mục I Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT/BTP-BTNMT như sau: “hợp đồng, văn bản về bất động sản mà bên có bất động sản là tổ chức trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài thì công chứng tại Phòng Công chứng”.
Như vậy, theo quy định trên có thể thấy yêu cầu chứng thực hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất của Công ty X không thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân thị trấn nơi có đất mà thuộc thẩm quyền của Phòng Công chứng. Vì vậy, khi đại diện của Công ty X đến yêu cầu chứng thực, cán bộ tư pháp - hộ tịch của Uỷ ban nhân dân thị trấn cần từ chối yêu cầu đó và giải thích rõ lý do cho người yêu cầu, đồng thời hướng dẫn họ đến tổ chức hành nghề công chứng để được giải quyết công việc của mình theo Luật Công chứng năm 2006.