Tên sách: Kỷ yếu 2009 - Tập 2
150 năm thuyết tiến hoá & Charles Darwin
Chủ biên: Chu Hảo, Nguyễn Quang Riệu, Trịnh Xuân Thuận, Nguyễn Xuân Xanh, Phạm Xuân Yêm
Khổ sách: 14x20,5 cm
Số trang: 480
Giá bìa: 82.000 đồng
Loại bìa: Mềm, tay gập
Xuất bản tháng 01/2010
Lời nói đầu
KỶ YẾU TIẾN HÓA 2009
Sự sáng tạo của Thượng Đế không bao giờ hoàn tất. Nó tuy chỉ bắt đầu một lần, nhưng sẽ không bao giờ chấm dứt. Nó luôn luôn tất tả để khai sinh nhiều cảnh tượng trong tự nhiên, nhiều vật thể mới và thế giới mới.
Immanuel Kant
Bạn đọc quý mến,
Những năm qua, thế giới liên tiếp kỷ niệm một chuỗi sự kiện quan trọng trong khoa học: 100 năm ra đời thuyết lượng tử (2000), 100 năm thần kỳ của Einstein và 50 năm ngày mất của ông (2005), sinh nhật thứ 150 của Max Planck, người khai sáng thuyết lượng tử (2008).
Cộng đồng khoa học Việt Nam rất vui mừng trước những sự kiện này và cố gắng tham gia đóng góp để tôn vinh các nhà khoa học và các lý thuyết khoa học đã góp phần soi sáng thế giới và đem lại sự phồn vinh cho nhân loại.
Năm nay, 2009, có nhiều sự kiện lịch sử, đặc biệt nó được Liên Hiệp Quốc công bố là “Năm Thiên văn Quốc tế” để kỷ niệm 400 năm Galileo dùng kính thiên văn thám hiểm vũ trụ, 2009 cũng là năm sinh nhật thứ 200 của Darwin cũng như 150 năm thuyết Tiến hóa của ông.
Nhân dịp này, UNESCO phối hợp với Hội Thiên văn Quốc tế IAU (International Astronomical Union) để tổ chức những hoạt động phổ biến thiên văn học trên toàn cầu. Đối với UNESCO, công việc giáo dục trong lĩnh vực khoa học là một động cơ thúc đẩy sự phát triển bền vững và sự tăng trưởng kinh tế. UNESCO nhấn mạnh tầm quan trọng của thiên văn học, không những trong lĩnh vực khoa học cơ bản mà còn cả trong công việc thiết lập quan hệ giữa những quốc gia, nhằm bảo tồn những nền văn hóa rất đa dạng và duy trì hòa bình trên thế giới. Những nền văn minh trên Trái đất thường mang dấu ấn của thiên văn học. Di tích của những công trình kiến trúc cổ xưa đã được xây trên quy luật thiên văn.
Hưởng ứng Năm Quốc tế Thiên văn và Sinh học, với sự đóng góp của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc bộ Kỷ yếu 2009 gồm hai tập cho hai đề tài nói trên, Kỷ yếu thiên văn học và Kỷ yếu tiến hóa, nói về lịch sử và sự tiến hoá của hai ngành khoa học này, và cũng để kỷ niệm hai nhà khoa học khai sáng vĩ đại của nhân loại là Galilei và Darwin.
Bạn đọc quý mến,
Năm 1809, Charles Darwin chào đời ngày 12 tháng 2 tại Shrewsbury, một thành phố nhỏ của nước Anh, là con thứ năm trong gia đình có sáu người con. Ông từ nhỏ vốn không quan tâm lắm đến việc học, học ngành y tại Edinburgh rồi thần học tại Cambridge đều không làm ông thấy thú vị. Ông chỉ hứng thú với việc sưu tầm động vật và săn bắn. Năm 1831, ông thực hiện một chuyến đi thám hiểm phiêu lưu gần năm năm trên chiếc tàu có nhiệm vụ đo đạc mang tên Beagle của Hoàng gia Anh. Những gì quan sát và thu thập được tại những vùng đất Nam Mỹ mà ông đã đi qua đã đặt ra những câu hỏi cho ông: Sự sống trên Quả đất là gì? Con người là gì?
Khúc quanh trong nhận thức của ông được đánh dấu bằng một biểu đồ nổi tiếng biểu thị một cái cây nhiều nhánh có tên “I think” (Tôi nghĩ) mà ông, lúc đó 28 tuổi, vẽ trong quyển Sổ tay B mùa hè năm 1837. Đó là quá trình hình thành ý tưởng về sự phát triển của các loài. Năm 1859, sau hơn 20 năm, tác phẩm Nguồn gốc các loài (On the origin) chính thức ra mắt công chúng, đúng 150 năm trước đây. Đó chính là thuyết tiến hóa.
Nhà cổ sinh vật học Stephen J. Gould đã nhận xét về tác phẩm này như sau: “Lý thuyết này gần gũi với chúng ta hơn thuyết lượng tử và cơ học thiên thể. Nó cho chúng ta một câu trả lời cho những câu hỏi về nguồn gốc của chúng ta.”
Theo Darwin, không phải các loài là những sản phẩm không thay đổi hay đã được tạo ra độc lập với nhau; không phải nhờ bàn tay Thượng Đế nào mà chính tác dụng qua lại của đột biến và chọn lọc tự nhiên trong tự nhiên kéo dài hàng triệu, tỉ năm đã đem lại sự đa dạng của các loài mà chúng ta đang thấy. Tất cả mọi loài đều có “họ hàng” với nhau từ một gốc rễ, kể cả con người. Con người không phải có vị trí đặc biệt hay ưu việt, tách biệt khỏi tiến hóa. Con người không phải là “vương miện” của sự sáng tạo của Thượng Đế mà cũng là một sản phẩm ngẫu nhiên của sự tiến hóa ấy. Con người cũng không phải là “sản phẩm chất lượng hoàn hảo” của Thượng Đế, thậm chí nó còn là “hàng kém chất lượng”, với những khiếm khuyết của nó, hệ quả của sự tiến hóa mang nhiều tính ngẫu nhiên và sự thích nghi. Thiên nhiên giống như một người làm công việc lắp ghép, xây dựng mới lại từ các bánh xe, lò xo, thanh sắt… giống như Picasso lắp ghép hình tượng nghệ thuật từ những vật dụng phế thải ông thu nhặt được.
Darwin tuy làm thất vọng những người tin vào Chúa trời, nhưng đã đem con người và sinh vật đến gần nhau hơn, làm cho con người thân thiện với sinh vật hơn.
Darwin trích dẫn nhà khoa học Đức Hermann Helmholtz khi ông này cho rằng mắt của con người là một loại “hàng rất kém chất lượng” và nếu có người làm kính đem bán một sản phẩm như thế cho ông, thì ông sẽ từ chối. Darwin nói: “Chúng ta không thể lý luận nữa, rằng, chẳng hạn, một vật thể tuyệt đẹp như con sò hai mảnh phải được tạo ra bởi một sinh vật thông minh cũng giống như cái bản lề cửa đã được làm từ con người. Đối với chúng ta hầu như không có một kế hoạch nào nữa trong tính thay đổi đa dạng của các sinh vật hữu cơ và trong diễn biến của chọn lọc tự nhiên, mà đó chỉ là một chiều hướng mà ngọn gió thổi đi”. Thiên nhiên là không hoàn hảo, biến đổi, diễn ra trong một quá trình liên tục, không định hướng của sinh và tử. Cũng không có hệ hình “tiến hóa từ thấp đến cao”, như quan điểm của một số nhà tự nhiên học cuối thế kỷ 19, mà chỉ có việc các loài ngày càng phức hợp hơn do quá trình tiến hóa và thích nghi.
Nếu Copernicus đã đánh ngã sự tự cao của con người khi cho rằng Trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ mà ngược lại chỉ là một vệ tinh quay xung quanh Mặt trời, thì Darwin đã đánh ngã sự tự cao, tính “bá chủ” và “độc nhất vô nhị” của con người bằng việc đưa con người trở lại đại gia đình của các sinh vật, có cùng chung một thủy tổ, tất cả đều xuất phát từ một cái mầm nguyên thủy rồi dần dần phân nhánh ra như một cái cây. Các hình thái của sự sống được định dạng bằng lịch sử, chứ không phải bằng một trí tuệ siêu việt giám sát nào.
Với những khám phá của Galilei và Darwin, “Đất và Trời” như tách ra. Nếu Galilei nhắc lại lời của Đức Hồng y Cesare Baronius “Dụng ý của Thánh linh là dạy cho chúng ta cách lên Trời, chứ không dạy Trời vận hành ra sao”, thì ở đây người ta cũng có thể nói, Nhà thờ hay tôn giáo chỉ đưa ra con đường cho người ta lên Thượng Đế chứ không nói Thượng Đế tạo ra các chủng loài như thế nào.
Thuyết tiến hóa cũng không phải là một định luật cố định như những định luật khoa học thấy, mà phức tạp hơn nhiều, mang nhiều tính chất ngẫu nhiên và các cơ chế nội tại mà con người vốn vẫn chưa hiểu hết. Nó càng nói lên một điều: sự sống là vô cùng phức tạp. Darwin chưa bao giờ tin rằng sự phát triển của sự sống có thể được quy về một định luật bất biến nào cả. Nhưng nhà sinh học tiến hóa nổi tiếng Theodore Dobzhansky đã nhận xét rằng: “Không gì trong sinh học có ý nghĩa, ngoại trừ dưới ánh sáng của thuyết tiến hóa.”
Cuộc cách mạng của Darwin thực ra là một sự phát triển đến cao điểm của quan niệm “thời gian hóa”, “lịch sử hóa” thiên nhiên mà nhân chứng chính là địa chất học đã bắt đầu từ khoảng cuối thế kỷ 18 (Alfred Dove). Quan niệm về một hệ thống thế giới đứng yên được thay bằng quan niệm về một sự hình thành dần dần, nghĩa là có một sự “tiến hóa”: Trái đất đã trở thành một hình dáng hôm nay với núi non, sông hồ và bờ biển, những thứ đều là sản phẩm của một quá trình lịch sử chứ không phải được Thượng Đế tạo ra ngay như thế. Và đến một lúc nào đó, quan niệm đó sẽ được áp dụng sang thế giới cây cỏ và sinh vật. Thật vậy, trong thời gian ở trên tàu Beagle, Darwin đã đọc say sưa các tác phẩm địa chất học của nhà địa chất học Charles Lyell, trong đó ông mô tả bề mặt của Quả đất được hình thành như một quá trình chầm chậm, ở đó nhiều nguyên nhân nhỏ đã dẫn đến hệ quả lớn, như sự xói mòn đất hằng ngày, kéo dài hàng ngàn năm sẽ dẫn đến sự tạo hình mới cho các vùng đất. Darwin đã chuyển tư duy này sang giới tự nhiên hữu cơ. Trong một bức thư viết sau này, ông đã cảm ơn Lyell về những tư duy của ông: “Tôi thấy dường như phân nửa các quyển sách của tôi đều xuất phát từ cái đầu của Lyell.”
Sau cuộc cách mạng của Darwin, phải đợi ngót 100 năm mới đến cuộc cách mạng thứ hai trong sinh học. Tháng Tư năm 1953, từ Cambridge của nước Anh, được sự giúp đỡ của nhà nữ vật lý Rosaline Franklin, hai nhà nghiên cứu trẻ chưa tên tuổi Mỹ Francis Crick và Anh James Watson nộp một báo cáo vỏn vẹn 900 chữ đánh máy cho tạp chí Nature mà nội dung của nó đã trở thành một cuộc cách mạng: họ đã khám phá ra cấu trúc đường xoắn kép (double helix) của phân tử di truyền DNA, và có thể giải thích thông tin di truyền được chuyển tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác ở đó. Thông tin về di truyền được lưu trữ dưới dạng hàng triệu “cặp base” trong phân tử DNA mà các gen được làm thành từ đó. Sự tiến hóa phải bắt đầu từ đây. Các gen nằm như những chuỗi ngọc trên các dây xoắn của DNA. Cái làm phân biệt giữa con người và các con vi khuẩn, cá, côn trùng hay chuột được mã hóa trong chuỗi này.
“Chúng ta thường nghĩ tương lai của chúng ta nằm ở các vì sao. Nhưng bây giờ chúng ta biết nó nằm trong các gen của chúng ta” - James Watson đã tuyên bố như vậy, còn Crick thì nói rằng: “Chúng ta đã khám phá được bí mật của sự sống”. Khám phá DNA này là cuộc cách mạng nóng bỏng không kém cuộc cách mạng lượng tử trong những năm 1920. Chín năm sau, vào năm 1962, Watson và Crick được trao giải Nobel về Y khoa cho khám phá đường xoắn kép DNA.
Vâng, đúng như Darwin viết trong những trang cuối của cuốn Origin (Nguồn gốc các loài), “Rất nhiều ánh sáng sẽ rọi vào nguồn gốc con người và lịch sử của nó”, ánh sáng đang tiếp tục rọi vào nguồn gốc của con người. Chúng ta thử lấy một bảng so sánh gen của người và động vật dưới đây:
Bảng này cho thấy sự đúng đắn của thuyết tiến hóa của Darwin đến độ giật mình. Những “vết xưa” của con người vẫn còn đó trong các sinh vật khác, và trong chính bản thân chúng ta. Sự giải mã bộ di truyền (genom) của nhiều loài sinh vật bùng nổ, được thúc đẩy bởi sự phát triển của tự động hóa máy móc, đặc biệt là việc vẽ “bản đồ” của bộ di truyền con người (human genome), tức tất cả các DNA chứa trong cơ thể với một số gen khoảng 22.000 gen (lúc đầu được cho là 100.000) nằm giấu trong 23 cặp chromosom trong các tế bào của chúng ta.
Khám phá DNA của Watson và Crick có nguồn gốc sâu xa từ cuốn sách What is life? (Sự sống là gì?), được Schrödinger viết năm 1944. Schrödinger khẳng định rằng sự sống của các sinh vật có thể được hiểu bằng thuyết lượng tử của nguyên tử, và rằng sự sống được điều khiển bởi một “mã di truyền”, một từ do Schrödinger đặt ra. Các phân tử không chỉ là những viên đá xây dựng thuần túy mà còn là những nơi lưu trữ của “mã sự sống”. Cuốn sách đã truyền cảm hứng cho thế hệ vật lý gia trẻ (Gamov, Crick, Pauling, Gilbert, Delbrück). Cuốn sách cũng đã thay đổi cuộc đời của sinh viên trẻ mảnh khảnh James Watson. Ông nói: “Từ giờ phút đọc What is life? của Schrödinger, tôi như bị thôi miên trong việc đi tìm bí mật của gen”. Tại Cambridge, Watson chung sức với Crick để đi tìm cái “mã di truyền của Schrödinger”. Việc khám phá DNA đã sử dụng rất nhiều đến thuyết lượng tử, một công việc khó nhọc được Crick vốn là nhà vật lý đảm nhiệm.
Tháng 4 năm 2003, tức đúng sau 50 năm từ lúc Watson và Crick khám phá hình xoắn kép DNA, đề án Human Genome của Hoa Kỳ, đã xác lập xong bản đồ gen của Homo sapiens chúng ta. Tổng thống Bill Clinton lúc đó công bố trước thế giới về “bản đồ quan trọng nhất và huyền bí nhất mà loài người đã thực hiện được”. Chuỗi di truyền của con người được giải mã. Người ta có thể đọc những bí mật của mình. Đề án tốn kém 3 tỉ đô la và kéo dài 10 năm liền, dưới sự hợp tác quốc tế của nhiều nước.
Đầu năm 2009, nhà cổ sinh vật học Svante Pääbo, người chủ trì đề án “Nhân chủng học tiến hóa” tại Viện Max Planck ở Leipzig, sau ba năm làm việc khó khăn đã công bố bản thảo đầu tiên của bộ mã di truyền của người Neandertal từ 38.000 năm trước. Những chuỗi này có thể được so sánh với các chuỗi của bộ di truyền đã được thực hiện của con người và chimpanzee (tinh tinh), để xác định xem ở những chỗ nào các gen của người Neandertal đã tuyệt chủng khác với các gen của con người hôm nay.
Nhưng cái đích để hiểu được sự tiến hóa con người về mặt sinh học không phải là gần, tuy đã có những tiến bộ vượt bậc. Liệu có phải là các gen đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tiến hóa hay không? Các gen nào, và làm sao từ vây cá để bơi ta có được tay hay chân, hay cánh, hay từ đâu con người có bộ não lớn nhất trong các loài sinh vật (nặng 1.500 gr). Có phải chỉ một số gen thay đổi là có thể làm nên sự thay đổi lớn đó không? Cơ chế thay đổi là thế nào?
Người ta chú ý đến một “bộ xây dựng” có trong bộ di truyền của mỗi sinh vật. Bộ này gồm vài trăm gen thôi, đã có tuổi 600 triệu năm, nhưng không hề thay đổi, mỗi nhóm có nhiệm vụ làm tăng các bộ phận trong phôi. Chỉ có cách thức, bao giờ và ở đâu trong cơ thể chúng được mở. Giống như từ một số miếng lego giới hạn chúng ta có thể xếp thành một số gần như không giới hạn máy bay, nhà cửa, thú vật,… thì tự nhiên cũng để cho các sinh vật hình thành bằng cách đóng mở, điều tiết và liên kết một ít gen của “bộ xây dựng” qua nhiều kiểu cách khác nhau. Các nhà khoa học đang tìm cách gỡ rối mạng điều tiết phức tạp này.
Nhưng cái gì là bộ điều khiển thật sự đằng sau đó? Người ta tin rằng có một trung tâm điều khiển cực kỳ phức tạp của sự tiến hóa gồm các “cầu giao” di truyền (Carroll, Harvard). Nó nằm trong bộ di truyền tại các vùng rộng lớn không mã hóa mà các nhà khoa học từ lâu cho là “rác thải của DNA”. Chính những cầu giao này mới quan trọng hơn gen, như các nhà khoa học tin tưởng. Thí dụ, người ta tìm thấy trong những vùng không mã hóa đó một loại tế bào nhỏ có chức năng điều khiển có tên gọi miRNA, có ảnh hưởng đến việc điều tiết sự trao đổi chất của tế bào. Có 677 tế bào như thế trong con người và 491 trong con chuột. Một điều khiến cho các nhà khoa học bứt rứt là tại sao con người lại có ít gen (22.000) hơn con chuột (23.000). Nhưng giờ người ta thấy gen không phản ánh đúng mức độ phức tạp của cơ thể mà là miRNA. Tương tự, một vài lệnh điều khiển để hình thành mỏ chim đã được “bẻ khóa”. Bằng cách biến đổi đi hoạt động các “cầu giao” kia, con người hy vọng sẽ tạo ra được sự tiến hóa như tự nhiên đã làm.
Nhưng còn rất nhiều bí mật ở phía trước. Các phòng thí nghiệm tại các quốc gia phát triển hoạt động suốt ngày đêm để hiểu được với cơ chế nào con người đã hình thành từ con sâu!
Con người đứng trước những cơ hội chưa từng có, kèm theo những vấn đề cũng chưa từng có. Các căn bệnh hiểm nghèo có thể sẽ được giải mã và điều trị. Các nhà khoa học đang rất tự tin để tìm hiểu rõ cơ chế hoạt động và phát triển của ung thư ở cấp phân tử. Căn bản, ung thư được hiểu là “bệnh di truyền” (genetic diseases); chuỗi từ bốn đến sáu đột biến dẫn đến ung thư đã được xác định cho phần lớn các loại ung thư. Không chỉ những gen chính liên đới đã được nhận dạng. Các nhà khoa học còn nắm được những bước cơ bản mà một tế bào bình thường bất chợt trở thành ung thư. “Đây là thời đại hứng khởi nhất mà người ta có thể tưởng tượng được!”. Gen của chúng ta có thể được “sửa chữa”. Cây cỏ có thể được thay đổi gen để phục vụ yêu cầu của con người.
Khoảng năm 2020, cuộc cách mạng sinh học phân tử cũng có thể sẽ kiểm soát được một loại bệnh lâu đời và phổ biến khác: bệnh di truyền (hereditary diseases) đã hình thành xuyên suốt lịch sử, chẳng hạn như các bệnh amyotrophic lateral sclorosis (ALS, teo cơ xơ cứng bên) của Stephen Hawking, cystic fibrosis (xơ hóa nang) của Friedrich Chopin, rối loạn chuyển hóa porphyria của Vincent van Gogh. Có khoảng 5.000 bệnh di truyền ở người. Chúng gây đau khổ cho 15% dân số thế giới. Thuốc men đã bất lực hàng ngàn năm, nhưng y tế sinh học phân tử hứa hẹn các liệu pháp mới và chiến lược chống lại chúng, và cả khả năng chữa lành bệnh.
Nhưng cuộc chiến đấu này sẽ không bao giờ chấm dứt bởi những hiệu ứng đối kháng của tiến hóa (loại bỏ đáng kể các gen có hại này bằng chọn lọc tự nhiên) và đột biến (được cung cấp thêm lỗi ngẫu nhiên, tia vũ trụ, chất độc, ô nhiễm môi trường, v.v). Ở mỗi thế hệ, có vài trăm đột biến xảy ra trong DNA của mỗi chúng ta, trong đó sẽ có một số ít gen có hại len lỏi vào cơ thể chúng ta. Như vậy sẽ có hàng tỉ các gen có hại sẽ đi vào bể chứa gen của chúng ta. Do đó, cuộc chiến đấu không bao giờ chấm dứt.
Thế kỷ 21 đứng trước một cuộc cách mạng lớn trong ngành phân tử sinh học. Con người sẽ thay đổi tự nhiên xung quanh ta, và trong ta. Con người có thể sinh đàn con khỏe mạnh, và có thể sống đến 150 tuổi hoặc hơn? Những thay đổi đó tốt có, nhưng không phải không có những hệ quả sinh học, đạo đức nghiêm trọng lâu dài cho nhân loại.
150 năm thuyết tiến hóa, người ta không thể không tự hỏi rằng cuộc tiến hóa của con người hôm nay, Homo sapiens sapiens, đã dừng lại hay chưa. Nó chưa chấm dứt chút nào. Cái “cối xay” của sự chọn lọc tự nhiên sẽ tiếp tục nghiền nát chất liệu trong đó, không trừ chính chúng ta. Hai triệu năm trước, Trái đất đã có giống người Hominid xuất hiện tại châu Phi mà các chuyên gia khoa học gọi họ là Homo erectus, vì họ đứng thẳng, sử dụng hai tay. Họ đã phát triển thành xã hội như chúng ta. Nhưng cách đây 500.000 năm họ bị biến mất, và thay vào đó là sự xuất hiện của người Neandertal cách đây 200.000 năm. Người Neandertal có tính nhân đạo, và biết tạo ra văn hóa, thẩm mỹ như chúng ta. Nhưng rồi họ cũng lại biến mất khỏi Trái đất mà khoa học chưa giải thích được.
Câu hỏi đặt ra nhân 150 năm thuyết tiến hóa là con người hiện đại hôm nay, được gọi là Homo sapiens sapiens, rồi đây có biến mất như người Neandertal chăng? Ích kỷ, xa hoa, phung phí, bạo lực, uy quyền, sex đang thống trị xuyên suốt thế giới. Trái đất không thể chịu đựng nổi cuộc sống và sự tăng trưởng như thế này nữa. Trái đất đang bị “ung thư” nặng nề. Nói như Richard Dawkins: “Chúng ta là những cỗ máy (chỉ biết) lo sinh tồn (cho mình) - các cỗ máy tự động, được lập trình một cách mù quáng nhằm bảo toàn các phân tử ích kỷ được gọi là gen.” Chính sự ích kỷ đó sẽ biến đổi cả Trái đất lẫn con người trong những thập kỷ tới.
Chúng ta nhớ lại những lời của Nietzsche: “Các ngươi đã tiến hóa từ con sâu đến con người làm sao! Và rất nhiều thứ trong các ngươi vẫn còn là sâu bọ, và là một ký ức của con đường của các ngươi”. Để tránh số phận của người Neandertal, con người phải được “khắc phục”, “vượt qua” (überwunden) chính nó, như lời của Nietzsche.
Chúng ta nên lấy những lời sau đây của Stephen J. Gould, nhà động vật học và địa chất học tên tuổi của Harvard làm câu tâm niệm hằng ngày:
Con người không phải là sản phẩm cuối cùng của một sự tiến bộ có thể nhìn thấy trước được của sự tiến hóa, mà là một kẻ đến sau ngẫu nhiên của vũ trụ, một nhánh nhỏ xíu của cái bụi rậm sum sê không thể tưởng được của sự sống, mà, nếu mọc lại một lần thứ hai từ hạt giống, thì gần như chắc chắn rằng bụi rậm ấy sẽ không cho ra nhánh này một lần nữa, hay nói chung, chẳng cho nhánh nào với một tính chất chúng ta gọi là ý thức.
Như thế, để biết rằng sự sống của chúng ta là chỉ có một lần trên Quả đất, để gìn giữ và trân trọng nó cùng với môi trường sống một cách bền vững mãi mãi cho các thế hệ mai sau. Bền vững là thước đo và thử nghiệm cho khả năng của con người biết thích nghi theo nghĩa tiến hóa, không phải bằng một sự chọn lựa mù quáng, mà bằng quyết định khôn ngoan và có ý thức. Phải phát triển kinh tế bền vững, chứ không theo tăng trưởng mù quáng, phải phát triển thế nào để các thế hệ đời sau mãi mãi cùng có những điều kiện phát triển như chúng ta hôm nay. Phải chứng minh rằng chúng ta đã hơn và đoạn tuyệt với con khỉ, con sâu trong ta.
Bạn đọc quý mến,
Thiên văn và tiến hóa đều có chung một ý nghĩa: đi tìm nguồn gốc sâu xa của con người trong vũ trụ và trên mặt đất, nối liền quá khứ và tương lai của vũ trụ mà những cái huyền bí của nó, tuy nghiên cứu khoa học đã có những bước tiến vược bậc, nhưng vẫn chưa được hiểu hết. Kỷ yếu 2009 muốn gợi lên cho thanh niên và cộng đồng sự quan tâm đặc biệt đến các vấn đề của con người và vũ trụ, và có ý thức bảo tồn hơn sự sống trên Trái đất. Con người là sản phẩm tuy không hoàn hảo của tạo hóa, nhưng rất độc đáo và vô giá. Chúng ta mang trong người không những các “vết xưa” của cuộc tiến hóa trên mặt đất, mà còn mang những dấu vết của tiến hóa vũ trụ hàng tỉ năm trước. Từ đâu có các nguyên tố sắt trong cơ thể chúng ta, nếu không phải từ các vụ nổ supernova? Làm sao để có một hành tinh như Trái đất của chúng ta, có những điều kiện thuận lợi cho sự nảy nở và phát triển của sự sống: ở một khoảng cách vừa phải đối với Mặt trời, để khỏi bị nóng cháy hay giá buốt; có một trọng lượng vừa phải để giữ được bầu khí quyển bền vững; quay với tốc độ vừa phải xung quanh trục của nó để bề mặt không bị nóng cháy hay băng giá bởi ánh sáng Mặt trời? Cho nên chúng ta lại càng trân trọng sự sống trên Trái đất, càng góp phần cho nó phát triển không phải theo tăng trưởng thuần túy, mà phải bền vững. Chỉ có phát triển bền vững mới giúp con người và các chủng loài thoát khỏi những thảm họa ghê gớm trong tương lai.
Tiếp theo Galilei, Darwin đã làm một cuộc khai sáng vĩ đại cho nhân loại, dĩ nhiên ông không bị tù đày, nhục mạ, bị buộc thề bỏ lý thuyết của mình từ phía quyền uy nào cả như Galilei, nhưng không phải là ông không bị làm đối tượng của sự đả phá và châm biếm cay độc từ dư luận bảo thủ vẫn luôn nghĩ rằng con người là sản phẩm duy nhất của Chúa đứng trên mọi giống loài. Nếu Darwin mà sống vào thời của Galilei chắc ông đã bị hỏa thiêu tức khắc, vì sẽ bị khép vào tội “thóa mạ” sản phẩm của Chúa là con người, hoặc tội biến con người xuống thành con vật tiến hóa. Chúng ta còn nhớ vào năm 1822, tòa án dị giáo của nhà thờ La Mã đã cho phép xuất bản quyển sách dạy rằng Trái đất quay quanh Mặt trời, và năm 1835 chính thức gạch tên các quyển sách của Galilei, Kepler ra khỏi Danh mục sách cấm của Tòa thánh, thì năm 1831 người thanh niên Charles Darwin hăng hái bước lên tàu Beagle để thực hiện cuộc khám phá lịch sử. Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là bóng đêm của quyền uy như thời Galilei đã biến mất hẳn trên Trái đất này.
Chúng tôi xin cảm ơn tất cả đóng góp quý báu của Anh Chị gần xa để làm nên hai số Kỷ yếu đượm chất khoa học và nhân văn. Đặc biệt xin cảm ơn thiền sư Matthieu Ricard đã tham gia Kỷ yếu với chúng tôi. Xin chân thành cảm ơn Đài Thiên văn Paris đã có nhã ý tài trợ cho công việc ý nghĩa này. Và mong bạn đọc đón nhận Kỷ yếu trong sự cảm thông cho những gì còn thiếu sót.
Nguyễn Xuân Xanh và Ban Chủ biên
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Nguyễn Xuân Xanh và Ban Chủ biên
Tiến hóa như một sơ đồ lý giải
Bùi Văn Nam Sơn
Một số thông tin từ các quan điểm chung của vật lý về vấn đề vật chất sống và không sống
Cao Chi
Cái mũi của Darwin
Cao Huy Thuần
Sinh vật lạ giữa chúng ta
Paul Davies
Khởi đầu là sự ngẫu nhiên
Hà Dương Tuấn
Lượng tử của sự chọn lọc tự nhiên
Seth Lloyd
Ảnh hưởng của Darwin đến tư tưởng hiện đại
Ernst Mayr
150 năm thuyết tiến hóa – Từ Darwin đến ngày nay
Nguyễn Đức Hiệp
150 năm thuyết tiến hóa
Trang Quan Sen
Thuyết tiến hóa sau Darwin
Nguyễn Ngọc Hải
Darwin thời thanh thiếu niên
Nguyễn Xuân Xanh
Đôi điều suy ngẫm về cuộc đời, sự nghiệp của Darwin
Phạm Thành Hổ
Vốn là thú, ta...
Phan Huy Đường
Khoa học thần kinh và thiền định
Matthieu Ricard
Khoa học thần kinh và đạo Phật
Trịnh Nguyên Phước
Nguồn gốc đơn giản hơn của sự sống
Robert Shapiro
Mô phỏng sinh học: biến phân tử thành động cơ
Trương Văn Tân
Charles Darwin, người thầy vĩ đại của nhiều thế hệ các nhà sinh vật học
Võ Quý
Đồng tiến hóa ở côn trùng trong điều kiện nhiệt đới Việt Nam dưới ánh sáng của học thuyết Darwin Vũ Quang Côn
Nhìn lại quá trình giảng dạy học thuyết tiến hóa ở bậc trung học phổ thông ở Việt Nam
Phạm Văn Lập
Hơi thở của sự sống
Peter Ward
Chọn lọc tự nhiên và bệnh ung thư
Carl Zimmer