Các chỉ tiêu đánh giá mức sinh
Trong dân số học, khi đánh giá tình hình sinh đẻ, thông thường người ta sử dụng một số chỉ tiêu sau:
Tỷ số trẻ em so với phụ nữ trong độ tuổi có khả năng sinh đẻ
Tỷ số trẻ em- phụ nữ (CWR) là tỷ số giữa số trẻ em dưới 5 tuổi và số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49)
Tỷ số trẻ em – phụ nữ phản ánh được mức sinh trung bình trong thời kỳ 5 năm hạn chế một phần sai số do báo cáo thiếu về số sinh trong năm đầu
Đây là chỉ tiêu đánh gia mức độ sinh của dân cư mà không cần số liệu chi tiết cụ thể. Nhưng đây là chỉ tiêu có cách đo lường rất thô, mức độ chính xác không cao.
* Tỷ suất sinh thô (CBR)
Đây là chỉ tiêu đo mức sinh đơn giản và thường được sử dụng. Công thức của nó được xác định như sau:
Trong đó:
B là số trẻ em sinh ra trong năm
P là dân số trung bình trong năm
Tỷ suất sinh thôlà số trẻ em sinh sống được trên 1000 dân số trtung bình trong năm.
Đây là chỉ tiêu thô về mức sinh, bởi vì mẫu số bao gồm cả thành phần dân số không tham gia vào quá trình sinh sản : đàn ông trẻ em và những người già. Mộu số cũng bao gồm cả những thành phần không hoạt động tình iục hoặc vô sinh.
+ Ưu đIểm : Đây là chỉ tiêu quan trọng của mức sinh nó được dùng trực tiếp để tính tỷ lệ tăng dân số, tính toán nhanh đơn giản và cần rất ít số liệu.
+ Nhược điểm : không nhạy cảm bởi sự thay đổi của mức sinh, nó bị ảnh hưởng bởi cấu trúc theo giới tuổi của dân số, phân boó mức sinh ở các tuổi
trong các kỳ có khả năng sinh sản, tình trạng hôn nhân.
* Tỷ suất sinh chung (GFR)
Tỷ suất sinh chung là tỷ số giữa số trẻ em sinh ra sống được trong nămvới số phụ nữ trung bình trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) của năm đó nhân với 1000.
+ Ưu điểm: đây là chỉ tiêu dễ tính toán , mẫu số đã dường như loại bỏ hết những người không liên quan trực tiếp đến hành vi sinh sản như: nam giới, trẻ em và người già
+ Nhược điểm: Chỉ tiêu này chưa thật sự hoàn hảo vì tất cả những phụ nữ không có chồng đều có mặt trong mẫu số, hơn thế nữa không tính đến mức độ khác biệt về mức độ sinh ở các độ tuổi khác nhau.
* Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi (ASFRx)
Đối với phụ nữ tần suất sinh khác nhau đáng kể từ độ tuổi này sang độ tuổi khác, nhóm tuổi này sang nhóm tuổi khác. Do vậy để biểu thị mức sinh sản của phụ nữ theo từng độ tuổi, nhóm tuổi khác nhau người ta thường dùng chỉ tiêu tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi hoặc nhóm tuổi “x” nào đó.
ASRFx là số trẻ em sinh ra sống trên 1000 ở độ tuổi x hay nhóm tuổi x nào đó
Chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ tương quan giữa số trẻ em sinh ra trong năm của các bà mẹ ở các độ tuổi hay nhóm tuổi khác nhau so với tổng số phụ nữ ở độ các tuổi đó. ASFRx đòi hỏi số liệu phải chi tiết phải xác định số lượng trẻ em sinh ra trong năm ở độ tuổi của các bà mẹ
Thông thương người tính tỷ suất sinh đặc trưng cho từng nhóm tuổi của phụ nữ. Qua đó, ta có thể thấy được mức độ sinh đẻ của phụ nữ qua từng nhóm tuổi. Tuổi sinh đẻ của phụ nữ bị chi phối bởi yếu tố sinh học. Qua thực tế ta thấ y cường độ sinh cao nhất ở tuổi 25-35 sau đó khác nhau sinh sản giảm và nhiều yếu tố chi phối.
+ Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi được xác định theo công thức sau:
Trong đó: Bfx số trẻ em của phụ nữ ở độ tuổi x sinh ra sống được
Pwx số phụ nữ trung bình ở độ tuổi trong năm
+ ưu điểm:ASFRx loại trừ sự khác biệt về mức sinh của từng nhóm tuổi và mang lại nhiều thông tin về hành vi sinh đẻ hơn bất kỳ một chỉ tiêu đo lường về mức sinh nào khác.
+ Nhược điểm: Khi so sánh mức sinh giữa hai vùng, hai quốc gia và chỉ tiêu này tương đối phức tạp và cần phải có nhiều chỉ số.
* Tổng tỷ suất sinh (TFR)
Đây là thứơc đo mức sinh được các nhà dân số học sử dụng rộng rãi nhất khi đã biết tỷ suấ sinh đặc trưng theo tuổi hoặc nhóm tuổi thì việc xác định tổng tỷ suất sinh là rất đơn giản
Tổng tỷ suất sinh phản ánh số trẻ em trung bình mà một phụ nữ hoặc một thế hệ phụ nữ có thể có trong suốt cuộc đời sinh sản của mình.
Trong đó: n là số độ dài khoảng tuổi khảo sát
+ Ưu điểm: TFR có cách đo đơn giản mà không bị phụ thuộc vào cấu trúc tuổi. Mặc dù, TFR là chỉ tiêu không có thực trong thực tế nhưng qua đó ta có thể thấy được số con trung bình của một năm phụ nữ.
+ Nhược điểm: TFR đòi hỏi phải có số liệu về số trểm sinh ra theo tuổi của các bà mẹ và số phụ nữ theo nhóm tuổi mà những số liệu này chỉ có thể có được từ hệ thông đăng ký hay tổng điêù tra dân số. Hơn nữa nó không cung cấp thông tin giữa các nhóm tuổi.
* Tỷ lệ các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai
Để đánh giá mức độ của việc sử dung các biện pháp kế hoạch hoá gia đình. Người ta thường sử dụng chỉ tiêu các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai.
Trrong đó: Ux những cặp vợ chồng trong độ tuổi x (15-49)
F15-49 số phụ nữ trong độ tuổi từ 15-49 có chồng
CPR dùng để phản ánh số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ hiên đang có chồng áp dụng các biện pháp KHHGĐ. Nó được tính vào thời điểm nào đó cho tất cả các biện pháp tránh thai hoặc chỉ tính riêng cho các BPTT hiện đại. Tuy nhiên chỉ tiêu này thường khó phản ánh chính xác, vì ta chỉ có thể thống kê được số người hiện đang sử dụng các BPTT hiện đại, còn đối với các BPTT truyền thống thì việc thống kê chính xác được số người áp dụng là một điều khó khăn. Tuy nhiên, chỉ tiêu này vẫn được áp dụng phổ biến.
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh
Mức sinh bị ảnh hưởng bởi nhiều biến số trực tiếp hoặc gián tiếp. Bao gồm những biến số sinh học, mức chết trẻ sơ sinh, vai trò của phụ nữ, trình độ học vân, thu nhập và nhiều biến khác. Giải thích mức sinh có thể giới hạn phạm vi một người phụ nữ hoặc phạm vi một tổng thể dân cư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố xã hội và kinh tế.
Mức sinh là biến phụ thuộc, chịu ảnh hưởng của nhiều biến độc lập khác. Hệ thống biến số có vai trò trung gian giữa các biến số hành vi và mức sinh bao gồm:
- Những biến số trung gian
- Những biến sốcó liên quan đến đặc tính gia đình và hoàn cảnh gia đình. Đây là nhóm biên số thứ hai
Trong những biến số này gồm nhiều biến số
+ Tuổi là một trong những biến số quan trọng nhất giải thích mức sinh cuả cái nhân trong phạm vi vi mô. Cơ cấu tuổi là một trong những biến số quan trọng khi giải thích mức sinh trong phạm vi vĩ mô. Trong cả hai phạm vi tuổi liên quan chặt chẽ đến các biến trung gian: tuổi liên quan đến kết hôn, ly hôn, goá, dạy thì, tần suất giao hợp, xác suất thụ thai và mãn kinh
+ Mức chết ảnh hưởng đến mức sinh qua một số cơ chế. Thứ nhất ảnh hưởng đến số người trong độ tuổi sinh đẻ qua cơ cấu tuổi giới tính. Tại phạm vi vi mô số con một cặp vợ chồng đẻ ra có thể chịu ảnh hưởng bởi xác suất sông qua độ tuổi sinh đẻ, không có vợ hoặc chồng chết sớm. Thứ hai, mức chết trẻ sơ sinh và mức chết trẻ em có ảnh hưởngtới mức sinh qua cơ chế sinh học và hành vi.
+ Ngân sách, tài sản, thời gian của một gia đình cũng ảnh hưởng đến mức sinh. Vì khi có con đòi hỏi phải có cả vật chất và thời gian, yêu cầu chi phí và thuận lợi khi có con trong gia đình có thể ảnh hưởng đến mức sinh. Một trong những chi phí quan trọng nhất khi tính chi phí có con là chi phí cơ hộiu của người mẹ
+ Địa vi theo nhiều nhà nghiên cứu là nhân tố quyết định chủ chốt ảnh hưởng đen mức sinh. Địa vị của phụ nữ có thể ảnh hưởng đến mức sinh thông qua tuổi kết hôn, những lựa chọn sinh con trong hôn nhân và mức sinh tự nhiên. Trình độ học vấn, sự tham gia vào lực lượng lao đông, khả năng quyết định trong gia đình và tình trạng sức khoẻlà những yếu tố chủ yếu khi nghiên cứu địa vị của phụ nữ và mức sinh.
+ Thu nhập là một biến số được nghiên cứu trong quan hệ với mức sinh.Thu nhập có thể ảnh hưởng đến mức sinh bằng nhiều cách khác nhau. Nếu coi con cáI như là của cảicho tiêu dùng thì thu nhập càng cao thì số con moang muốn càng cao. Song có những vấn đề khác với giả thiết này là thu nhập càng cao thì bố mẹ càng muốn con có chất lượng (trình độ học vân và sức khoẻ) càng cao, con không phải là một vật chất cho tiêu dùng mà con là khả năng cho sản xuất, đóng góp cho ngân sách của gia đình. Thu nhập cao do có thể có nhiều con làm việc. Thứ ba, khi gộp thu nhập của vợ chông trong tổng nguồn tàI sản gia đình sinh đẻ nuôi dạy còn ảnh hưởng đến công việc của vợ thì mức sinh và thu nhập càng phức tạp.
+ Sở thích cũng ảnh hưởng đến mức sinh
- Biến xã hội gồm 2 loại biên số. Thứ nhất các biến số tình trạng chính trị,chế độ xã hội, chế độ kinh tế. Loại biến số thứ hai là những biến số có liên quan đến chính sách và chương trình có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến dân số hoặc một sốthành phầncủa nó. Có thể nói nhân tố của mức sinh là rất đa dạng và được chia thành ba nhóm: biến số trung gian, biến số gia đìng và biến số hoàn cảnh xã hội. Trong mỗi nhóm có nhiều biến số khác nhau ảnh hưởng theo nhiều hướng. Chính vì thế mà đi sâu vào nghiên cứu một nhântố để hiểu rõ hơn vêg sự tác động của nó tới mức sinh là rất cần thiết.