Khái niệm tiền lương:
Trong thực tế, khái niệm và cơ cấu tiền lương rất đa dạng ở các nước trên thế giới. Tiền lương có thể có nhiều tên gọi khác nhau như tiền công, tiền lương, thù lao lao động, thu nhập lao động...
Ở Pháp, sự trả công hiểu là tiền lương, hoặc lương bổng cơ bản, bình thường hay tối thiểu và mọi thứ lợi ích hay phụ khoản khác, được trả trực tiếp hay gián tiếp bằng tiền hay hiện vật, mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo việc làm của họ. Còn tiền lương ở Đài Loan bao gồm mọi khoản thù lao mà người công nhân nhận được do làm việc, bất luận là dùng tiền lương, lương bổng, phụ cấp có tính lương, tiền thưởng hoặc dùng mọi danh nghĩa khác để trả cho ho theo giờ, ngày tháng, theo sản phẩm…
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: tiền lương là sự trả công thu nhập, bất luận tên gọi hay cách tính thế nào , mà có thể biểu hiện bằng tiền được ấn định bằng thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, hoặc bằng pháp luật, bằng pháp quy quốc gia do người sử dụng lao động phải trả theo hợp đồng lao động được viết ra hay thỏa thuận bằng miệng.
Ở Việt Nam hiện nay có sự phân biệt các yếu tố trong tổng thu nhập của người lao động từ công việc: tiền lương (lương cơ bản), phụ cấp, tiền thưởng và phúc lợi. Theo quan điểm cải cách tiền lương năm 1993: tiền lương là giá cả sức lao động, được hình thành qua sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động phù hợp với quan hệ cung cầu về sức lao động trong nền kinh tế hị trường. Tiền lương của người lao động do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động và trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc.
Bản chất của tiền lương:
Về mặt kinh tế: tiền lương là phần đối trọng của sức lao động mà người lao động đã cung cấp cho người sử dụng lao động. Qua hợp đồng lao động, người lao động và người sử dụng lao động đã cam kết trao đổi hàng hóa sức lao động: người lao động cung cấp sức lao động của mình trong một khoảng thời gian nào đó và sẽ được nhận một khoản tiền lương theo thỏa thuận từ người sử dụng lao động.
Sơ đồ 1.2: Mô hình trao đổi hàng hóa sức lao động:
Tiền lương cơ bản được xác định trên cơ sở tính đủ các nhu cầu về sinh học, về xã hội học, về độ phức tạp công việc và mức độ tiêu hao lao động trong các điều kiện lao động trung bình của ừng ngành nghề. Tiền lương cơ bản được được sử dụng rộng rãi ở các doanh ngiệp nhà nước, ở các khu vực hành chính sự nghiệp và được xác định thông qua hệ thống thang bảng lương do nhà nước quy định. Còn phụ cấp lương là tiền trả công lao động ngoài tiền lương cơ bản, bù đắp thêm cho người lao động khi h ọ phải làm việc trong điều kiện không ổn định hoặc không thuận lợi mà chưa được tính lương cơ bản.
Về mặt xã hội : Tiền lương là khoản thu nhập của người lao động để bù đắp nhu cầu tối thiểu của người lao động ở một thời điểm kih tế – xã hội nhất định. Khoản tiền đó phải được thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động có tính đến mức lương tối thiểu do nhà nước ban hành. Trong đó, mức lương tối thiểu là khoản tiền lương trả cho người lao động ở mức đơn giản nhất, không phải đào tạo, đủ để tái sản xuất sức lao động cho họ và một phần cho gia đình họ. Nói rõ hơn, đó là số tiền bảo đảm cho người lao động này có thể mua được những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động của bản thân và có dành một phần để nuoi con cũng như bảo hiểm lúc hết tuổi lao động. Ngoài tiền lương cơ bản, người lao động còn có phụ cấp lương, tiền thưởng và các loại phúc lợi. Ngày nay, khi xã hội càng phát triển ở trình độ cao, thì cuộc sống con người đã và đang được cải thiện rõ rệt, trình độ văn hóa chuyên môn của người lao động được nâng cao không ngừng, thì ngoài tiền lương cơ bản, phụ cấp, thưởng và phúc lợi, người lao động còn muốn có cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp, được thực sự kính trọng và làm chủ trong công việc… thì tiền lương còn có ý nghĩa như là một khoản đầu tư cho người lao động để không ngừng phát triển con người một cách toàn diện.
Vai trò của tiền lương
- Vai trò tái sản xuất sức lao động: Sau mỗi quá trình lao động sản xuất, sức lao động bị hao mòn, do đó phải có sự bù đắp hao phí sức lao động đã tiêu hao. Bằng tiền lương của mình, người lao động sẽ mua sắm được một khối lượng hàng hóa sinh hoạt và dịch vụ nhất định (ba gồm các hàng hóa thiết yếu như lương thực, thực phẩm, ăn mặc, thuốc men chữa bệnh, đi lại, học hành, giả trí… và các dịch vụ cần thiết khác) bảo đảm cho sự tái sản xuất giản đơn và tái sản sản xuất mở rộng sức lao động của người lao động (để nuôi con và một phần tích lũy).
- Vai trò bảo hiểm cho người lao động: Người lao động trích một phần tiền lương của mình để mua bảo hiểm xã hội và y tế đẻ phòng những khi gặp rủi ro và có lương hưu lúc về già.
- Vai trò điều tiết và kích thích: Mỗi ngành nghề , mỗi công việc có tính chất phức tạp về kỹ thuất khác nhau, do đó người lao động có trình độ lành nghề cao hơn, làm việc với các công việc phức tạp hơn, trong các diều kiện khó khăn và nặng nhọc hơn thì chắc chắn phải được trả công cao hơn. Đối với các công việc khẩn cấp và khó khăn, cũng như cấc công việc cần động viên sức lao động nhiều hơn, nhanh hơn thì tiền lương và tiềng thưởng có tác dụng kích thích có hiệu quả.
Những nguyên tắc chung nhất của công tác tiền lương
Với nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đòi hỏi khi tổ chức chế độ tiền lương cho người lao động cần thiết phải tuân thủ theo những yêu cầu có tính nguyên tắc sau:
- Đảm bảo tính phù hợp của chế độ tiền lương với điều kiện kinh tế đất nước trong từng thời kỳ, phải dựa trên định hướng phát triển kinh tế xã hội có tính chiến lược của đất nước. Tốc độ tăng tiền lương bình quân phải thấp hơn tốc độ tăng năng suất lao động, có như vậy thì mới có khả năng tích lũy tái sản xuất mở rộng đồng thời bảo đảm tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động.
- Đảm bảo quan hệ hợp lý giữa tích luỹ và tiêu dùng, bảo đảm tác dụng kích thích sản xuất, hai vấn đề này phải sốngong đồng nhất để có tỷ lệ thích hợp giữa tích lũy và tiêu dùng đòi hỏi chúng ta phải giả quyết đúng đắn mối quan hệ 3 lợi ích Nhà nước, tập thể và cá nhân.
- Thực hiện tính nguyên tắc phân phối lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiền lương dựa trên cơ sở nguyên tắc phân phối theo lao động là tiền lương tương ứng với sô lượng và chất lượng lao động mà mỗi cá nhân đóng góp, phân phối theo lao động chính là thước đo giá trị lao động của người công nhân và để xác định phần đóng góp cũng như phần hưởng thụ của người lao động.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền công lao động
Các nhân tố ảnh đến việc trả lương rất đa dạng, phong phú, và có thể trình bày theo các nhóm cơ sở dưới đây:
Sơ đồ 1.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới tiền công lao động
Các chế độ tiền lương của nhà nước áp dụng cho các doanh nghiệp:
Chế độ tiền lương theo cấp bậc
Trả lương theo cấp bậc là trả lương cho người lao động thông qua chất lượng công việc thể hiện mức độ phức tạp của công việc và trình độ tay nghề của công nhân. Nhà nước ban hành tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật trong đó xác định độ phức tạp của công việc và trình độ tay nghề của công nhân, các doanh nghiệp dựa trên tiêu chuẩn kỹ thuật xác định độ phức tạp của công việc đơn vị mình mà xắp xếp bậc, công việc và trả lương cho người lao động.
Thang bảng lương là bảng xác định quan hệ về tiền lương giữa công nhân cùng nghề hoặc nhóm nghề giống nhau theo cấp bậc của họ. Mỗi bảng lương gồm một số bậc lương và hệ số lương tương ứng, hệ số lương biểu thị mức độ phức tạp giữa bậc lương công việc do lao động đơn giản nhất:
Mức lương = Hệ số lương x Mức lương tối thiểu
Chế độ lương chức danh
Là hình thức trả lương cho người lao động dựa trên chất lượng lao động của các loại viên chức , là cơ sở để trả lương phù hợp với trình độ chuyên môn và chức danh của công việc
Đối tượng áp dụng: là các cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp cũng như trong cơ quan hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang khi họ đang đảm nhận các chức vụ trong doanh nghiệp đó.
Bảng lương chức danh: là bảng quy định các mức lương cho từng chức danh công tác bao gồm: chức vụ công tác, hệ số bảng lương chức danh và số bậc của bảng lương.
Mức lương chức danh là số tiền lương do Nhà nước quy định để trả lương cho cán bộ công nhân viên theo chức danh công tác trong dơn vị, mức lương chức danh cũng được tính tương tự như mức lương cấp bậc.
LCD =(LTT * HCD)+ PC
LC : mức lương chức danh
LTT : mức lương tối thiểu
HCH : hệ số lương chức danh
PC : phụ cấp
Phụ cấp và thu nhập khác:
Nhà nước ban hành bẩy loại phụ cấp lương
Phụ cấp khu vực: áp dụng cho những nơi xa xôi hẻo lánh, điều kiện khó khăn khí hậu khắc nghiệt gồm 7 mức {0,1 → 0,7} so với mức lương tối thiểu.
Phụ cấp độc hại: nguy hiểm áp dụng với các ngành nghề, công việc làm trong điều kiện độc hại nguy hiểm gồm bốn mức {0,1 → 0,4} so với mức lương tối thiểu.
Phụ cấp trách nhiệm: gồm 3 mức {0,1 → 0,3} so với mức lương tối thiểu.< /p>
Phụ cấp làm đêm: Làm đêm thường xuyên mức 0,4 lương cấp bậc; Làm đêm không thường xuyên mức 0,3 lương cấp bậc.
Phụ cấp thu hút lao động: áp dụng cho những người làm ở khu vực vùng kinh tế mới, đảo xa, có điều kiện địa lý, giao thông khó khăn, cơ sở hạ tầng chưa có, Phụ cấp này chỉ được hưởng trong thời gian từ 3 đến 5 năm gồm 4 mức {0,2 0,3 0,5 0,7} so với mức lương tối thiểu.
Phụ cấp đắt đỏ: áp dụng cho những nơi có chỉ số sinh hoạt cao hơn thu nhập của người lao động gồm 5 mức {0,1 0,15 0,2 0,25 0,3} so với mức lương tối thiểu.
Phụ cấp lưu động: áp dụng cho một số ngành nghề thường xuyên thay đổi địa điểm làm việc và nơi ở gồm 3 mức {0,2 0,4 0,6} so với mức lương tối thiểu. Khi làm thêm giở thì giờ làm thêm được hưởng 150% tiền lương so với ngày thường, làm thêm ngày lễ, ngày chủ nhật hưởng 200% lương cơ bản.
Quỹ tiền lương của doanh nghiệp
Khái niệm về quỹ tiền lương
Quỹ tiền lương: là tổng số tiền dùng để trả lương cho công nhân viên chức do doanh nghiệp (cơ quan) quản lý, sử dụng bao gồm:
- Tiền lương cấp bậc (còn gọi là bộ phận tiền lương cơ bản hay tiền lương cố định)
- Tiền lương biến đổi: bao gồm các khoản phụ cấp và tiền thưởng.
Quỹ lương báo cáo: là tổng số tiền thực tế đã chi trong đó những khoản không được lập trong kế hoạch nhăn phải chi do những thiếu sót trong tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, hoặc do điều kiện sản xuất không bình thường nhưng khi lập kế hoạch chưa tính đến như tiền lương phải trả cho thờigian ngừng việc, làm lại sản phẩm hỏng.
Quỹ lương theo kế hoạch: là tổng số tiền lương dự tính theo lương cấp bậc và các khoản phụ cấp thuộc quỹ tiền lương dùng để trả cho công nhân, viên chức theo số lượng và chất lượng lao động khi hoàn thành kế hoạch sản xuất trong điều kiện bình thường.
Để xây dựng quỹ tiền lương kế hoạch người ta dựa theo một số phương pháp như sau:
Xác địch tổng quỹ lương căn cứ vào kỳ kế hoạch lao động và tiền lương bình quân của kỳ kế hoạch
Công thức:
QLKH : tổng quỹ lương kế hoạch
SKH : số lao động của kỳ kế hoạch
Lbq : lương bình quân của kỳ kế hoạch
Xác định tổng quỹ lương căn cứ vào đơn giá tiền lương và nhiện vụ kế hoạch sản xuất:
Công thức
(đồng)
Lđgi : đơn giá tiền lương của một đơn vị sản phẩm
QLKhi : sản lượng sản xuất kỳ kế hoạch
n : số mặt hàng sản xuất
Để xác định đơn giá tiền lương của một đơn vị sản phẩm ta có công thức sau:
(đồng)
Tđmi : định mức thời gian của bước công việc
Lgi : mức lương giờ của công việc
Phương pháp này để xác định lương của công nhân sản xuất chính và phụ có định mức lao động.
Xác định quỹ lương theo hệ số lao động:
Người ta chia tổg quỹ lương kế hoạch làm hai loại: cố định và biến đổi tỷ lệ với sản phẩm.
- Quỹ lương không thay đổi theo sản lượng:
- Quỹ lương thay đổi theo sản lượng:
QLKH : quỹ lương kế hoạch
QLbc : quỹ lương báo cáo
QSLbc : sản lượng kỳ báo cáo
QSLKH : sản lượng kỳ kế hoạch
Tổng quỹ lương chung của năm kế hoạch được tính để lập lập kế hoạch tổng chi về tiền lương của doanh nghiệp được xác định:
QC = QKH + QPC + Qbs + QThg
QC : tổng quỹ lương chung của năm kế hoạch
QKH : tổng quỹ lương tỷ lệ năm kế hoạch để xây dựng đơn giá tiền lương
Qbs : quỹ tiền lương bổ xung theo kế hoạch. Quỹ này được trả cho thời gian kế hoạch không tham gia sản xuất được hưởng lương theo chế độ quy định.
QPC : Quỹ các khoản phụ cấp lương và các chế độ khác không tính vào đơn giá tiền lương theo quy định
QThg : quỹ lương làm thêm giờ.
Xác định tổng quỹ lương thực hiện theo kết quả sản xuất kinh doanh
Cong thức:
QTH = (VĐG + CSXKD) + QPC + QBS + Q+TG
QTH : tổng quỹ lương thực hiện.
VĐG : đơn giá tiền lương được doanh nghiệp duyệt.
CSXKD : chỉ tiêu sản xuất kinh doanh theo tổng số sản phẩm hàng hoá thực hiện.
Các phương pháp xác định đơn giá tiền lương
Căn cứ vào tính chất, đặc điểm sản xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức và chỉ tiêu kinh tế gắn với việc trả lương sao cho có hiệu quả nhất, doanh nghiệp có thể lựa chọn nhiệm vụ năm kế hoạch bàng các chỉ tiêu sau để xây dựng đơn giá tiền lương.
- Tổng sản phẩm (kể cả sản phẩm quy đổi) bằng hiện vật.
- Tổng doanh thu (tổng doanh số).
- Tổng thu trừ tổng chi.
- Lợi nhuận.
Việc xác định nhiệm vụ năm kế hoạch theo các chỉ tiêu nêu trên cần phải bảo đảm những yêu cầu sau:
- Sát với tình hình thực tế và gắn với việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của năm trức liền kề.
- Tổng sản phẩm bằng hiện vật được quy đổi tương ứng theo phương pháp xây dựng định mức lao động trên một đơn vị sản phẩm hướng dẫn tại thông tư số 14/LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997 của Bộ lao động thương binh xã hội.
- Chỉ tiêu tổng doanh thu (hoặc tổng doanh số), tổng thu trừ tổng chi không có lương hoặc tính theo quy định tại nghị định số 59-CP ngày 30/10.1996 của chính phủ, nghị định số 27/1999 ngày 20/4/1999 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn cụ thể việc thực hiện của bộ tài chính. Chỉ tiêu lợi nhuận kế hoạch được lập trên cơ sở kế hoạch (tổng thu trừ tổng chi) và lợi nhuận thực hiện của năm trước liền kề.
Căn cứ vào quỹ tiền lương của năm kế hoạch để xây dựng đơn giá tiền lương theo công thức:
Vkh : tổng quỹ lương kế hoạch
Lđb : tổng số lao động định biên
TLmin dn : mức lương tối thiểu của doanh nghiệp lựa chọn trong khung quy ……….định
Hcb : hệ số lương cấp bậc công việc bình quân
Hpc : hệ số các khoản phụ cấp lương bình quân được tính trong đơn giá ………tiền lương.
Vc : Quỹ tiền lương của bộ máy gián tiếp mà số lao động này chưa .....…tính trong định mức lao động tổng hợp.
Sau khi xác định được tổng quỹ lương và chỉ tiêu nhiệm vụ năm kế hoạch sản xuất kinh doanh, đơn giá tiền lương của doanh nghiệp được xây dựng theo 4 phương pháp sau:
Đơn giá tiền lương tính trên đơn vị sản phẩm
Ứng với chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh tổng sản phẩm hiện vật:
VĐG = VG * TSP
VĐG : đơn giá tiền lương (đồng/đơn vị hiện vật)
TSP : mức lao động của 1 đơn vị sản phẩm
VG : tiền lương được tính trên cơ sở cấp bậc công việc bình quân và mức lương tối thiểu của doanh nghiệp.
Nhận xét:
Ưu điểm của phương pháp tính đơn giá tiền lương này là: gắn chi phí tiền lương của doanh nghiệp với hiệu suất sử dụng lao động. Phản ánh chính xác chi phí về sức lao động cho mỗi đơn vị sản phẩm.
Nhược điểm của phương pháp là chỉ tính được đơn giá này trong điều kiện chỉ sản xuất một loại sản phẩm dịch vụ, hoặc những sản phẩm dịch vụ khác nhau nhưng có thể quy về một loại sản phẩm thông nhất.
Đơn giá tiền lương tính trên doanh thu
Loại đơn giá tiền lương này ứng với chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh là doanh thu, quỹ lương thay đổi theo sản lượng.
VĐG : đơn giá tiền lương
QKH : tổng quỹ lương năm kế hoạch
DTKH : tổng doanh thu kế hoạch
Nhận xét:
Ưu điểm: Đơn giá tiền lương loại này phản ánh kết quả cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh. Có thể so sánh, đánh giá hiệu quả sử dụng lao động giữa các doanh nghiệp khác nhau.
Nhược điểm: Chịu ảnh hưởng của giá thị trường, do đó có thể phản ánh không đúng hiệu quả sử dụng lao động. Doanh thu chưa phải là hiệu quả cuối cùng nên nên đơn giá này chưa phản ánh đầy đủ mục đích, động cơ của hoạt động đầu tư.
Đơn giá tiền lương tính trên hiệu số giữa doanh thu và chi phí không kể lương
Công thức:
VĐG : đơn giá tiền lương
QKH : tổng quỹ lương năm kế hoạch
DTKH : tổng doanh thu kế hoạch không kể lương
CFKH : tổng chi phí kế hoach không kể lương
*Nhận xét:
Ưu điểm của phương pháp là phản ánh được kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh tỷ trọng tiền lương trong giá trị mới được tạo ra của doanh nghiệp (lương và lợi nhuận) từ đó có thể diều chỉnh hù hợp.
Nhược điểm: không phải doanh nghiệp nào cũng quản lý và xác định được chi phí, do đó loại đơn giá này thường được áp dụng với các doanh nghiệp quản lý được tổng doanh thu và tổng chi phí.
Đơn giá tiền lương tính trên lợi nhuận
Phương pháp này tương ứng với chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh được chọn là lợi nhuận, thường áp dụng đối với các doanh nghiệp quản lý được tổng thu, tổng chi và xác định lợi nhuận kế hoạch sát với thực tế thực hiện. Công thức xác định:
Vđg : Đơn giá tiền lương (Đợn vị tính đồng/1000đ)
Vkh : Tổng quỹ tiền lương năm kế hoạch
Pkh : Lợi nhuận kế hoạch
Các hình thức trả lương:
Hình thức trả lương theo thời gian
Là hình thức trả lương mà tiền lương của người lao động được xác định theo trình độ kỹ thuật nghiệp vụ, chức vụ và theo thời gian làm việc của người lao động.
Đối tượng áp dụng: chủ yếu đối với các nhân viên, viên chức hoặc những công nhân làm những công việc không xác định được định mức lao động hay những công việc yêu cầu chất lượng cao.
Hình thức trả lương theo thời gian giản đơn
* Lương tháng: là tiền lương trả cố định hàng tháng cho người lao động, áp dụng cho các viên chức trong khu vực nhà nước.
Lth = Lcb,cd*tháng
Lth : lương thời gian trả theo tháng
Lcb,cd : lương cấp bậc, chức danh trả theo tháng
* Lương ngày: là tiền lương trả cho người lao động trong một ngày làm việc, áp dụng trong các doanh nghiệp có tổ chấm công và hạch toán ngày công cụ thể hoặc thuê lao động ngắn hạn theo ngày.
Lng : lương thời gian trả theo ngày
Lcb,cd : lương cấp bậc chức danh trả theo tháng
Ttt : số ngày làm việc thức trong tháng
* Lương giờ:
Lgiờ : lương thời gian trả theo giờ
Lcb,cd : lương cấp bậc, chức danh trả theo tháng
Ttt : số giờ làm việc thực tế trong ngày
176 : số giờ làm việc trong tháng theo quy định (22ngày*8giờ)
Hình thức trả lương này thường được áp dụng trong các doanh nghiệp có thuê lao động ngắn hạn theo giờ.
Hình thức trả lương thời gian có thưởng:
Trả lương thời gian có thưởng là hình thức trả lương dựa trên sự kết hợp giữa trả lương theo thời gian giản đơn với hình thức trả lương có thưởng. Khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng hoặc chất lượng quy định, lương thưởng được tính theo tỷ lệ% của lương chính, hình thức trả lương này chủ yếu áp dụng đối với công nhân phụ làm công làm công việc phục vụ như công nhân sửa chữa, điều chỉnh thiết bị… Ngoài ra còn áp dụng với những công nhân chính làm việc ở những khâu sản xuất có trình độ cơ khí hóa cao, tự động hóa hoặc những công việc tuyệt đối phải đảm bảo chất lượng. Tiền lương của công nhân được tính bằng cách lấy lương trả theo thời gian giản đơn (mức lương cấp bậc) nhân với thời gian làm việc thực tế sau đó cộng với tiền thưởng:
Ltg = K1 + Ltggđ * Ttt
Lth : lương thời gian có thưởng
Ltggđ : lương thời gian giản đơn
K1 : hệ số kể đến tiền lương
Ttt : thời gian làm việc thực tế.
Hình thức trả lương sản phẩm:
Là hình thức trả lương cho cá nhân hoặc tập thể người lao động căn sứ và đơn giá tiền lương, số lượng, chất lượng sản phẩm mà họ làm ra, áp dụng đối với người lao động làm việc trong khu vực sản xuất. Trả lương sản phẩm có một số hình thức như sau:
Trả lương sản phẩm cá nhân trực tiếp
Trả lương sản phẩm cá nhân trực tiếp là trả lương căn cứ và số lượng, chất lượng sản phẩm đảm bảo quy định và đơn giá tiền lương cố định. Đặc điểm của cách trả lương này là trả lương có thể được trả theo từng công việc với đơn giá nhất định. Khi đã xác định được định mức, đơn giá nhân công tương ứng cho từng bước công việc. Tiền lương nhiều hay ít phụ thuộc và số lượng thực tế hoàn thành tại mỗi bước cộng việc.
Hình thức trả lương này được áp dụng rộng rãi đối với người trực tiếp sản xuất, trong điều kiện lao động của họ mang tính chất tương đối độc lập, có thể định mức và kiểm tra nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể riêng biệt.
LSPTT : lương sản phẩm trực tiếp cá nhân.
Qtti : số lượng thực tế hoàn thành của sản phẩm i.
Lđg : đơn giá tiền lương cho một đơn vị sản phẩm i.
n : số loại sản phẩm.
Lương sản phẩm trực tiếp cá nhân chia làm hai dạng:
- Lương sản phẩm trực tiếp cá nhân không hạn chế có tác dụng khuyến khích trực tiếp từng cá nhân hoặc tập thể lao động, kích thích người lao động nâng cao tay nghề và trình độ. Tuy nhiên còn một số hạn chế như làm cho người lao động chạy theo số lượng, sử dụng kém hiệu quả chi phí hoặc hình thành thói quen dễ làm khó bỏ.
- Lương sản phẩm trực tiếp cá nhân hạn chế: là mức sản lượng có sự khống chế tối đa. Do có sự hạn chế về số lượng nên cũng bị hạn chế nhiều về tác dụng, nhất là sản lượng tới hạn và thường áp dụng nhiều trong trường hợp các doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Trả lương sản phẩm gián tiếp
Trả lương sản phẩm gián tiếp là trả lương cho công nhân phục vụ căn cứ vào tỷ lệ hoàn thành định mức lao động của công nhân chính mà họ phục vụ. Hình thức này được áp dụng cho các lao động và công nhân phục như: người quản lý phân xưởng, quản đốc hay thợ phụ khi mà công việc của họ ảnh hưởng tới việc đạt và vượt mức của công nhân chính.
LSPGT : lương sản phẩm của lao động gián tiếp.
LSPTP : lương sản phẩm của lao động trực tiếp i.
KGT : hệ số gián tiếp.
LCBGT : lương cấp bậc của lao động gián tiếp.
LTTi : lương của lao động trực tiếp i theo chế độ.
Trả lương tính theo sản phẩm tập thể
Trả lương theo sản phẩm tập thể là hình thức trả lương căn cứ vào số lượng sản phẩm hay công việc do một tập thể công nhân đã hoàn thành. Hình thức này được áp dụng cho những công việc mà sản phẩm do một tập thể công nhân thực hiện như lắp ráp các thiết bị, sản xuất các bộ phận làm việc theo dây chuyền... Ỏ đây tiền lương sản phẩm của từng người được xác định căn cứ vào kết quả sản phẩm chung của cả tổ và đơn giá sản phẩm cá nhân. Công thức xác định lương sản phẩm tập thể như sau:
LSPTT = QTT * LĐG tổ
LSPTT : lương sản phẩm của tập thể
QTT : sản lượng sản phẩm thực tế của cả tổ
LĐG tổ : đơn giá tiền lương của tập thể
TSP : mức lao động của đơn vị sản phẩm
Lgj : mức lương giờ của người thứ i trong tổ
S : số người lao động trong tổ
Việc phân phối tiền lương cho các thành viên được thực hiện theo hai cách sau:
- Căn cứ vào thời gian làm việc thực tế và đơn giá lương:
Lj : lương sản phẩm của người thứ j
LSP t :lương sản phẩm tập thể
TTT j : thờigian làm việc trực tiếp của người thứ j
Lđg j : đơn giá tiền lương / 1 đơn vị sản phẩm của người thứ j
Cách phân phối này có kể đến cấp bậc công việc nên chính xác và có tác dụng kuyến khích người lao động hơn.
- Căn cứ vào điểm chấm công:
Lj : lương sản phẩm tập thể của người thứ j
LSP t : lương sản phẩm tập thể
DCj : điểm chấm cho công nhân trên cơ sở kết quả lao động đóng góp.
Hình thức trả lương theo sản phẩm tập thể có ưu điểm là khuyến khích nhân công trong tổ nhóm nâng cao trách nhiệm trước tập thể, quan tâm đến kết quả cuối cùng của tổ, song nó có nhược điểm là sản phẩm của mỗi công nhân không trực tiếp quyết định tiền lương của họ. Do đó ít khuyến khích công nhân nâng cao năng suất lao động.
Hình thức trả lương khoán
Hình thức trả lương khoán xét về thực chất cũng thuộc hình thức trả lương theo sản phẩm được áp dụng cho những công việc không thể định mức theo từng chi tiết, bộ phận công việc hoặc xét ra những công việc giao từng việc chi tiết không có lợi vềmặt kinh tế nên phải giao toàn bộ khối lượng công việc hoặc nhiều việc cần phải hoàn thành trong một khoảng thời gian nhất định với số lượng và chất lượng xác định trước khi bắt đầu công tác.
Hình thức trả lương khoán có tác dụng khuyến kh& 6a96 #237;ch công nhân hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn, nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng công việc thông qua hợp đông giao khoán. Khi áp dụng tiền lương khoán phải xây dựng chế độ kiểm tra chất lượng và thống kê thời gian làm việc thật chặt chẽ đối với công việc hoàn thành mà chất lượng kém thì đòi hỏi phải làm lại và không trả lương.
Hình thức trả lương này chỉ áp dụng phải hoàn những công việc đột xuất, như sửa chữa, tháo lắp nhanh một số thiết bị để đưa vào sản xuất và cũng có thể áp dụng tính lương cho cá nhân và tập thể.
Các hình thức trả lương khoán
* Xét theo đối tượng công việc
- Khoán việc, khoán theo công đoạn sản xuất: là hình thức khoán cho từng công đoạn, từng công việc riêng lẻ, khi những công việc, công đoạn này kết thúc thì tạo ra những bán thành phẩm , khoán công việc. Khoán công việc công đoạn chỉ yêu cầu xác định được khối lượng trong phạm vi, giới hạn hoàn thành, loại này thường chỉ khoán trực tiếp tới người lao động.
- Khoán sản phẩm cuối cùng: là dạng khoán lương cho các các nhân tập thể người lao động cho tới sản phẩm cuối cùng khi kết thúc quá trình sản xuất, phải đảm bảo các yêu cầu chất lượng, quy cách, hình dáng mẫu mã, màu sắc như thành phẩm tiêu dùng được. Hình thức khoán này yêu cầu phải có một hoặc một bộ phận người làm công tác điều hành, do đó sản phẩm phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất. Nếu tổ chức được quá trình sản xuất hợp lý, trình độ tự sản xuất rõ ràng thì công tác.
- Khoán gọn: là dạng khoán lương đặc biệt do có sự kết hợp trả lương khoán cho tập thể người lao động nhằm hoàn thành sản phẩm cuối cùng đồng thời với việc hạch toán kinh tế nội bộ về công cụ và chi phí khác theo sản phẩm cuối cùng đó.
* Xét mức độ chi phí:
- Khoán một phần chi phí: Khoán chỉ gồm một số loại nhất định. Ví dụ khoán lương kèm theo chi phí nguyên vật liệu, sau khi hoàn thành hợp đồng khoán toàn bộ phần còn lại là lương của công nhân bao gồm tiền lương và các khoản tiết kiệm chi phí.
- Khoán toàn bộ chi phí: là hình thức khoán mà bên giao khoán chỉ gồm một số loại chi phí có liên quan đến quá trình sản xuất ra sản phẩm, thực hiện khoán hiều loại chi phí. Doanh nghiệp nhận khoán hoàn thành hợp đồng sẽ thu đợc tiền lương. Ngoài ra còn nhận được một khoản tiền thưởng tổng hợp là tiền hạ giá thành sản xuất nếu chi phí thực tế làm ra sản phẩm thấp hơn giá thành thanh toán mà doanh nghiệp nhận với giá giao hợp đồng và chịu lỗ trong trường hợp ngược lại.
Các biện pháp phân phối thu nhập từ giao khoán
- Trả lương khoán cho các cá nhân hoặc tập thể, nhóm, tổ công nhân sản xuất: Thành phần đối tượng trả lương chỉ bao gồm lực lượng lao động trực tiếp có tính chất lao động thuần nhất, kho giao khoán thường chỉ giao những công việc có tính chất chuyên môn, phân phối thu nhập chỉ giải quyết mối quan hệ giữa từng cá nhân với nhau. Hình thức áp dụng là khoán việc, khoán sản phẩm hoặc khoán lương. Trong trường hợp nhận khoán là tập thể người lao động thì cách phân chia tiền lương cho từng cá nhân theo dạng lương sản phẩm tập thể. Nếu khoán quỹ lương cho tập thể thì tập thể người lao động ở đây gồm công nhân trực tiếp sản xuất, toàn bộ được gọi chung là khối trực tiếp sản xuất.
- Giao khoán quỹ lương theo khối lượng sản xuất cho tập thể: Theo tính chất lao động, toàn bộ số nhân viên của doanh nghiệp được phân chia thành hai khối chính: khối gián tiếp và khối trực tiếp. Khối gán tiếp bao gồm công nhân trực tiếp điều hành và phục vụ nơi sản xuất. Do đó ngoài việc giải quyết mối quan hệ phân phối kể trên cần giải quyết mối quan hệ cá nhân giữa hai khối với nhau sao cho phù hợp.
Hình thức trả lương theo sản phẩm lũy tiến
Trả lương theo sản phẩm lũy tiến thực chất thực chất là dùng nhiều đơn giá khác nhau tùy theo trình độ hoàn thành vượt mức của công nhân. Nguồn tiền để trả thêm cho chế độ này dựa vào tiền tiết kiệm chi phí sản xuất gián tiếp cố định. Hình thức trả lơng này dùng hai loại đơn giá: cố định và lũy tiến. Số sản phẩm hoàn thành trong định mức sẽ được trả theo đơn giá lũy tiến. Đơn giá này dựa vào đơn giá cố định và có tính đến tỷ lệ tăng đơn giá. Người ta chỉ dùng một số tiết kiệm được về chi phí sản xuất gián tiếp cố định ( thường là 50%) để tăng đơn giá phần còn lại để hạ giá thành.
Tỷ lệ tăng đơn giá hợp lý về kinh tế được tính theo công thức:
K : tỷ lệ tăng đơn giá hợp lý
Dcd : tỷ trọng chí phí sản xuất gián tiếp cố định trong sản phẩm
Tc : tỷ lệ về số tiền tiết kiệm về chi phí sản xuất gián tiếp cố định dùng để tăng dơn giá.
D1 : tỷ trọng của tiền công nhân sản xuất trong quá trình sản phẩm khi hoàn thành vượt mức sản lượng 100% tiền của công nhân nhận được tính theo công thức:
L : tổng số tiền lương của công nhân hươngt heo sản phẩm lũy tiến
Qt : lượng sản phẩm thực tế
P : đơn giá cố định tính theo sản phẩm
K : tỷ lệ đơn giá sản phẩm được nâng cao
Khi áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm lũy tiến phải chú ý:
- Thời gian trả lương không nên quy định quá ngắn (hàng ngày) để tránh tình trạng không hoàn thành định mức hàng tháng, thời gian trả công nên quy định trong tháng.
- Đơn giá được nâng cao nhiều hay ít trong những sản phẩm vượt mức khởi điểm là do mức độ quan trọng của bộ phận sản xuất quyết định.
- Hình thức trả lương này tốc độ tăng tiền lương của công nhân thường cao hơn năng suất lao động của họ. Vì vậy hình thức trả lương này không được áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên hình thức trả lương này cũng khuyến khích mạnh việc tăng năng suất lao động và tăng sản lượng.
Hình thức trả lương theo sản phẩm có thưởng:
Trả lương theo sản phẩm có thưởng thực chất là chế độ trả lương theo sản phẩm kết hợp với tiền thưởng. Khi áp dụng chế độ tiền lương này, toàn bộ sản phẩm được trả theo một dơn giá thống nhất, còn số tiền thưởng sẽ căn cứ vào trình độ hoàn thành tiền lương theo sản phẩm có thưởng (Lth) tính theo công thức:
L : tiền lương sản phẩm với đơn giá cố định
m : % phần tiền thưởng cho cho 1% hoàn thành định mức chỉ tiêu thưởng
n : % hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thưởng
Yêu cầu cơ bản khi áp dụng chế đô trả lương này là phải quy định đúng đắn các chỉ tiêu, mức và nguồn tiền thưởng.
Tiền thưởng
Bản chất của tiền thưởng: Tiền thưởng thực chất là khoản bổ xung cho tiền lương để quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo lao động và gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Tiền thưởng là một trong những biện pháp khuyến khích bằng vật chất đối với người lao động nhằm động viên mọi người phát huy tích cực sáng tạo trong sản xuất để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, sử dụng đầy đủ công suất máy móc thiết bị, tiết kiệm vật tư, hạ giá thành sản phẩm, tăng tích luỹ góp phần hoàn thành toàn diện kế hoạch được giao.
Khi tổ chức các hình thức tiền thưởng cần chú ý các nội dung sau:
- Chỉ tiêu thưởng: là một trong những yếu tố quan trọng nhất của mỗi hình thức tiền thưởng, yêu cầu phải rõ ràng. Việc xác định các chỉ tiêu thưởng phải căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của người lao động (mức tiền thưởng phụ thuộc vào thành tích công tác của bản thân người lao động nhiều hay ít). Những chỉ tiêu về số lượng như hoàn thành vượt mức sản lượng, đạt và vượt các mức lao động. Các chỉ tiêu về chất lượng có thể là tỷ lệ sản phẩm loại một, tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu…
- Điều kiện thưởng để xác định những tiêu đề thực hiện một hình thức tiền thưởng nào đó, đồng thời dùng đẻ kiểm tra việc thực hiện chỉ tiêu xét thưởng.
Nguồn tiền thưởng.
Thông thường mỗi hình thức tiền thưởng chỉ nên quy định một chỉ thiêu xét thưởng chính đồng thời quy định một số điều kiện xét thưởng, nếu không đủ các điều kiện đo sẽ được thưởng với những tỷ lệ thấp hơn.
Mức tiền thưởng là một yếu tố kích thích quan trọng để người lao động quan tâm đến công việc, việc thực hiện các hình thức tiền thưởng cao hay thấp tuỳ thuộc và vào nguồn tiền thưởng và tuy theo yêu cấu khuyến khích của hình thức tiền thưởng đó.