Tài liệu: Khối tài sản chung

Tài liệu
unknown

Tóm tắt nội dung

-
Khối tài sản chung

Nội dung

Sự đơn giản của luật viết. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ có Điều 27 là điều luật duy nhất nói về thành phần cấu tạo của khối tài sản chung.

Từ điều luật này, có thể nhận thấy rằng khối tài sản chung gồm có các tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, bằng sức lao động hoặc thông qua các hoạt động chuyển nhượng tài sản có đền bù; các thu nhập do lao động hoặc thu nhập không do lao động; các tài sản có được do được chuyển dịch không có đền bù trong những trường hợp đặc thù và các tài sản do vợ và chồng thoả thuận là tài sản chung. Thực ra, còn một loại tài sản chung hình thành từ các phương thức xác lập quyền sở hữu trực tiếp theo luật chung về tài sản: sáp nhập, trộn lẫn, chế biến, xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu,... Mặt khác, trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, quyền sử dụng đất có căn cứ xác lập ban đầu theo quy định của pháp luật đất đai; tính chất chung hay riêng của quyền sử dụng đất được xác định theo các tiêu chí đặc thù, chứ không dựa vào hệ thống tiêu chí áp dụng chung cho các tài sản thông thường.

Tài sản chung do hoạt động tạo thu nhập

Thu nhập do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Khái niệm. Tiền lương, theo nghĩa của luật lao động, nhận được trong thờìi kỳ hôn nhân là loại tài sản chung đầu tiên, là nguồn sống của hầu hết các căp vợ chồng và của gia đình-hộ do vợ chồng đứng đầu. Luơng bao gồm luơng căn bản và các loại phụ cấp (độc hại, chức vụ, trách nhiệm, làm việc tại vùng xa, vùng sâu,...). Cũng là thu nhập do lao động, tiền thù lao khoán việc, tiền nhuận bút, công tác phí, trợ cấp thường xuyên, định kỳ hoặc bất thường, trợ cấp lễ, tết, trợ cấp sinh hoạt theo chức vụ,... Thu nhập do hoạt động sản xuất, kinh doanh thực ra cũng là một loại thu nhập do lao động theo nghĩa rộng nhất, bao gồm cả lợi nhuận ròng (trừ thuế và chi phí) từ việc bán sản phẩm, hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ

Hoạt động sản xuất kinh doanh có thể có đối tượng khai thác là tài sản chung hoặc tài sản riêng.
, cũng như cả các sản vật thu được từ hoạt động nghề nghiệp (săn bắt, đánh bắt,....). Lao động hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh có thể mang tính chất vụ việc, thời vụ hoặc thường xuyên, có thể mang tính chất hoạt động chân tay giản đơn hoặc hoạt động của trí tuệ.

Những thu nhập nào còn có thể coi là thu nhập hợp pháp khác do lao động ? Hẳn không thể lập một danh sách hoàn chỉnh mà chỉ có thể liệt kê ra đây những thu nhập tiêu biểu.

- Trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp hưu trí, trợ cấp một lần khi thôi việc, trợ cấp chính sách, trợ cấp thương tật, mất sức;

- Tiền thưởng gắn liền với huân chương, huy chương, danh hiệu cao quý, với bằng khen, giấy khen; tiền thưởng gắn với các công trình tim óc (tác phẩm, phát minh, sáng chế,...) được thực hiện trong khuôn khổ lao động sáng tạo theo đơn hàng của người khác;

- Học bổng, trợ cấp đào tạo;

- Tiền thưởng ho̒ 3;c hiện vật thưởng do thực hiện xong một công việc theo sự phân công với kết quả tốt (thi đấu thể thao, văn nghệ,...) hoặc do thực hiện tốt một công việc có hứa thưởng (tìm được vật thất lạc, vượt qua một thử thách đối với lòng can đảm, lòng kiên nhẫn hoặc sức bền, lập một kỷ lục guiness, trả lời đúng các câu hỏi đố vui, dự đoán đúng các kết quả thi đấu thể thao,...);

- Tiền thưởng đột xuất và bất ngờ do thực hiện tốt một công việc làm hài lòng người thưởng, dù người sau này không hứa thưởng trước đó (chặn bắt trộm, cướp; chữa cháy; cứu người bị nạn, cứu tài sản trong một thiên tai;...);

Trường hợp thu nhập không do lao động

Thu nhập hợp pháp khác. Đứng đầu trong danh sách thu nhập hợp pháp khác không do lao động là các hoa lợi, lợi tức từ tài sản, do việc khai thác tự nhiên hoặc khai thác pháp lý: cây con sinh ra từ cây mẹ, gia súc con sinh ra từ gia súc mẹ, cá con, trứng, tiền cho thuê nhà, tiền lãi tiết kiệm, lợi tức cổ phiếu, trái phiếu, tiền thu được từ việc cho phép sử dụng tác phẩm,... Bất kể tài sản gốc là của riêng hay của chung, hoa lợi, lợi tức phát sinh tư ìtài sản đều là của chung.

Thu nhập do trúng thưởng. Cụm từ “thu nhập hợp pháp khác” có ý nghĩa rất rộng và có vẻ như bao hàm cả thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Bởi vậy, trong khung cảnh của luật thực định, thu nhập do trúng thưởng trong thời kỳ hôn nhân cũng thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Thực tiễn có xu hướng chấp nhận giải pháp này trong mọi trường hợp mà không phân biệt mối lợi gọi là trúng thưởng đó gắn liền với tài sản chung hay tài sản riêng

Xem Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, 3 a. Khi nói về trúng thưởng, Nghị quyết chỉ quan tâm đến trúng thưởng xổ số. Tuy nhiên, có thể mở rộng giải pháp cho tất cả các trường hợp trúng thưởng, nhờ nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật.
. Người chồng dùng một phần tiền lương đang bỏ túi để mua một lon bia; tình cờ, lon bia mua được có mang dấïu hiệu trúng thưởng một chiếc xe máy; xe trúng thưởng phải là tài sản chung. Cha mẹ chồng cho riêng chồng một sổ tiết kiệm ngoại tệ; tất nhiên, số ngoại tệ gốc được ghi nhận trong sổ tiết kiệm đó là tài sản riêng của chồng; nhưng nếu do kết quả của một cuộc xổ số mà số của sổ tiết kiệm trùng khớp với số trúng thưởng một căn nhà, thì căn nhà ấy là tài sản chung của vợ chồng
Trong chừng mực nào đó, có thể coi trúng thưởng như một trường hợp phát sinh hoa lợi đột biến, bất thường của tài sản gốc. Thế nhưng, nếu vậy thì tài sản gốc phải không bị giảm sút chất liệu hoặc biến mất sau khi khối tài sản trúng thưởng xuất hiện. Trong một giả thiết khác, một người mua một tờ vé số và trúng thưởng.Ở một thời điểm nào đó sau khi xổ số và trước khi lĩnh thưởng, không thể thiết lập được sự khác biệt giữa giá trị của tờ vé số và giá trị của giải thưởng. Tờ vé số trúng thưởng tự nó là một tài sản có giá trị thực ngang với giá trị của giải thưởng; tài sản đó thậm chí chuyển nhượng được theo giá trị thực. Ta nói rằng trong trường hợp này giá trị của giải thưởng là hình thức biểu hiện giá trị của tờ vé số sau khi xổ số. Bởi vậy: 1. nếu tờ vé số nguyên là tài sản riêng (ví dụ, do được tặng cho riêng), thì giải thưởng là tài sản riêng; 2. ngược lại, nếu tờ vé số là tài sản chung (chẳng hạn, do được mua bằng tiền lương), thì giải thưởng là tài sản chung. Phân tích trên đây dựa vào logique của học thuyết. Từ câu chữ của khoản a, điểm 3 Nghị quyết số 02, dẫn trên, có thể nghĩ rằng theo Toà án, tiền trúng thưởng xổ số có được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng bất kể tờ vé số là tài sản chung hay tài sản riê ;ng. Vấn đề có thể sẽ rất rắc rối đối với thẩm phán trong trong trường tờ vé số trúng thưởng nguyên là tài sản được tặng cho riêng.
.

Tài sản chung do được chuyển dịch không có đền bù

Ta phân biệt các trường hợp chuyển dịch tài sản không có đền bù tuỳ theo sự chuyển dịch mang hoặc không mang tính chất gia đình. Gọi là chuyển dịch không đền bù mang tính chất gia đình, sự di chuyển tài sản không có đền bù giữa những người có thể được gọi để nhận di sản của nhau với tư cách người thừa kế theo pháp luật theo quy định của pháp luật hiện hành.

Các chuyển dịch mang tính chất gia đình

Tài sản được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung. Không có vấn đề gì đặc biệt trong trường hợp tài sản được tặng cho chung cả vợ và chồng. Chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản theo ý mình và trong khuôn khổ pháp luật. Việc tặng cho một tài sản chung cho cả vợ và chồng rất thường được ghi nhận trong thực tiễn Việt Nam. Người tặng cho thường là cha mẹ của vợ hoặc chồng và việc tặng cho được thực hiện như một biện pháp khích lệ đối với cả vợ và chồng trong việc duy trì và củng cố cuộc sống chung. Nếu tặng cho được xác lập vào thời điểm kết hôn, thì được coi như một biện pháp hỗ trợ vật chất cho cặp vợ chồng trẻ trong thời kỳ đầu xây dựng cuộc sống chung.

Nhưng, thế nào là thừa kế chung ? Vợ và chồng có thể là người thừa kế của cùng một người ? Ví dụ điển hình nhất là trường hợp cha và mẹ cùng được gọi để nhận di sản do con chết để lại, với tư cách là người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thứ nhất. Mặt khác, trong điều kiện luật không cấm con nuôi kết hôn với con ruột của người nuôi, hoàn toàn có khả năng vợ và chồng cùng được gọi để nhận di sản khi người nuôi của vợ hoặc chồng (đồng thời là cha hoặc mẹ ruột của chồng hoặc vợ) chết. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp cùng được gọi theo pháp luật để nhận di sản của một người, vợ và chồng có phần quyền thừa kế của riêng mình, như mỗi người thừa kế theo pháp luật khác. Tài sản mà họ có được do cùng được gọi để nhận thừa kế theo pháp luật là tài sản thuộc sở hữu chung theo phần chứ không phải là sở hữu chung của vợ chồng

Có vẻ như trong suy nghĩ của người soạn thảo Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, tài sản vợ chồng có được do được thừa kế chung theo pháp luật lại đi vào khối tài sản chung của vợ chồng chứ không phải là tài sản thuộc sở hữu chung theo phần. Thế nhưng, nếu vậy, thì quyền lợi của chủ nợ của người chết có nguy cơ bị hy sinh, bởi khi nghiên cứu thành phần của tài sản nợ, ta sẽ thấy rằng chủ nợ của người chết không có quyền kê biên tài sản chung của người thừa kế.
. Khái niệm thừa kế chung chỉ sử dụng được như là căn cứ tạo lập một tài sản chung, một khi vợ và chồng cùng được hưởng di sản theo di chúc và di chúc quy định rằng tài sản được chuyển giao chung cho cả vợ và chồng; nếu không có quy định rõ ràng trong di chúc, vợ, chồng vẫn hưởng di sản theo di chúc với tư cách cá nhân và phần di sản mỗi người nhận được là của riêng mỗi người.

Các chuyển dịch không mang tính chất gia đình

Trường hợp tặng cho mang tính chất quà biếu của đối tác trong giao dịch. Giao dịch ở đây được hiểu theo nghĩa rộng nhất: đó là sự bày tỏ ý chí nhằm tạo ra các hệ quả pháp lý. Theo cách hiểu đó, hoạt động của một công chức, viên chức Nhà nước trong khuôn khổ công tác cũng được coi là giao dịch. Bên cạnh đó, ta có những giao dịch theo nghĩa của luật dân sự: hợp đồng và hành vi dân sự đơn phương.

Trong mọi trường hợp mà quà biếu được thừa nh&# 7853;n không trái pháp luật, khó có thể coi đó là tài sản riêng do được tặng cho riêng. Tại sao ? Bởi:

- Hoặc, việc tặng cho có mối liên hệ mật thiết với một công việc nào đó đã, đang hoặc sẽ được thực hiện và công việc đó là một phần công tác của người được tặng cho. Trong chừng mực đó, tặng cho có thể được đồng hoá với một loại thu nhập bất thường do lao động và là tài sản chung.

- Hoặc, việc tặng cho được thực hiện nhằm mục đích thưởng cho đối tác vì đã chấp nhận giao dịch với mình. Đối với người được tặng cho, giao dịch đó có thể không được thực hiện một cách thuờng xuyên; nhưng nó là một phần trong hoạt động nghề nghiệp hoặc trong sinh hoạt của người này

Có những tặng cho được thực hiện một khi có đủ những yếu tố cần thiết: 1. có giao dịch được xác lập; 2. giao dịch trùng hợp với một sự kiện nào đó đáng chú ý đối với người tặng cho. Ví dụ điển hình là tặng cho của một công ty thương mại nhân dịp đón người khách thứ một triệu, hai triệu,...
. Do vậy, cũng có thể coi tặng cho loại này là một loại thu nhập bất thường do lao động.

Trường hợp tặng cho mang tính chất xã giao. Tặng cho mang tính chất xã giao thường được thực hiện không phải nhân dịp xác lập một quan hệ đối tác trong giao dịch mà nhân một dịp lễ, tết hoặc nhân một sự kiện nào đó đáng chú ý trong cuộc sống của người được tặng cho (sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới, ngày giỗ người thân, tân gia, đỗ đạt, thăng chức,...), thậm chí, nhân một sự kiện đáng chú ý trong cuộc sống... của người tặng cho

Ví dụ, nhân dịp về nước sau một chuyến công tác, học tập, lao động hoặc sau một thời gian định cư sinh sống ở nước ngoài.
.

Giả sử tặng cho xã giao được thừa nhận là có giá trị, thì trên nguyên tắc, luật chung về quan hệ tài sản giữa vợ chồng được áp dụng để xác định tính chất chung hay riêng: nếu là tặng cho chung thì đó là tài sản chung; nếu là tặng cho riêng, thì là tài sản riêng. Tính chất của tặng cho có thể được xác định, trong nhiều trường hợp, dựa vào tính chất của sự kiện mà nhân sự kiện đó, việc tặng cho được thực hiện: tặng cho nhân ngày cưới, tân gia, tết là tặng cho chung; tặng cho nhân dịp sinh nhật, thăng chức là tặng cho riêng. Có trường hợp việc dựa vào tính chất của sự kiện tỏ ra không hiệu quả đối với việc xác định tính chất của tặng cho

Ví dụ, tặng cho một số tiền, nhưng lại nhân dịp lễ giỗ người thân của người được tặng cho.
, khi đó, có lẽ nên suy đoán rằng tài sản được tặng cho là tài sản chung cho đến khi có bằng chứng ngược lại.

Tài sản chung do áp dụng luật chung về xác lập quyền sở hữu theo các phương thức trực tiếp

Xác lập quyền sở hữu theo các phương thức trực tiếp là việc xác lập quyền sở hữu không cần đến vai trò của một người chuyển nhượng. Các trường hợp xác lập quyền sở hữu theo phương thức trực tiếp được ghi nhận trong BLDS 2005 các Điều từ 236 đến 244 và Điều 247

Xem Tài sản, nxb Trẻ-TPHCM, 1999, số 124 và kế tiếp. Nghị quyết số 02 của Toà án nhân dân tối cao, đã dẫn, khi giải quyết vấn đề này, chỉ nhắc đến các Điều từ 247 đến 252.
. Ở góc độ pháp luật về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, vấn đề đặt ra là: một tài sản do vợ hoặc chồng xác lập quyền sở hữu trong thời kỳ hôn nhân theo một phương thức trực tiếp, là tài sản riêng hay tài sản chung ?

Nhặt của rơi, của vô chủ. Đào được tài sản. Bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc

Thu nhập bất thường bằng hiện vật ? Một trong các giả thiết được hình dung như sau: chồng bắt được một con b 42; đi lạc mà không rõ ai là chủ sở hữu và báo với UBND xã; UBND tiến hành thông báo công khai; sau một năm kể từ ngày thông báo công khai vẫn không có ai đến nhận; theo BLDS 2005 Điều 242, tài sản đó thuộc về người bắt được và theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 27 khoản 1, tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ và chồng, do được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Thực ra, câu chữ của Luật hôn nhân và gia đình Điều 27 khoản 1 không hẳn cho phép rút ra được kết luận này một cách dễ dàng trong trường hợp vừa nêu; song, tập quán không ghi nhận giải pháp nào khác.

Có thể dùng cùng một phương pháp phân tích kết hợp các điều luật liên quan, để có được các kết luận khác: tài sản vô chủ nhặt được trong thời kỳ hôn nhân, tài sản đào được trong thời kỳ hôn nhân,... là tài sản chung của vợ và chồng. Cũng như vậy, các tài sản đánh bắt, săn bắt được do hoạt động không chuyên nghiệp trong thời kỳ hôn nhân. Trong chừng mực nào đó, ta nói rằng những tài sản loại này là các thu nhập bất thường bằng hiện vật do lao động của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Sáp nhập. Trộn lẫn. Chế biến

Luật chung về xác lập quyền sở hữu. Mặt khác, nếu tài sản chung được đem chế biến, thì tài sản mới được chế biến cũng là của chung. Nếu tài sản chung của vợ chồng được đem trộn lẫn vào tài sản của môt người khác, thì phần quyền sở hữu đối với tài sản mới thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Cũng như vậy trong trường hợp tài sản chung được đem sáp nhập vào một tài sản của một người khác mà không biết được tài sản được sáp nhập nào là vật chính. Nếu tài sản chung được sáp nhập vào một tài sản khác mà trong cơ cấu của tài sản mới tài sản chung đóng vai trò của vật chính, thì tài sản mới cũng thuộc khối tài sản chung của vợ chồng; giải pháp này phải được chấp nhận, ngay nếu như việc sáp nhập được thực hiện giữa một tài sản chung và một tài sản riêng của vợ hoặc chồng.

Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu

Thời hiệu “tạo ra” tài sản. Giả thiết được hình dung như sau: người chồng chiếm hữu ngay tình đối với một động sản (ví dụ, do mua lại của một người không phải là chủ sở hữu, mà không biết). Mười năm sau, quyền sở hữu đối với tài sản mua được xác lập theo thời hiệu. Tài sản liên quan rơi vào khối tài sản chung với tư cách tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Thực ra, giải pháp không có gì đặc sắc trong trường hợp tài sản rơi vào tay đương sự do hiệu lực của một giao dịch có đền bù: nếu không có chế định xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, thì tài sản vẫn là của chung do được mua sắm trong thời kỳ hôn nhân. Trái lại, câu chuyện sẽ rất thú vị một khi giải pháp được chấp nhận cả trong trường hợp đương sự trở thành người chiếm hữu ngay tình do được chuyển giao tài sản bằng con đường thừa kế. Trong một giả thiết đặc thù, người chồng được gọi để nhận di sản với tư cách là em ruột của người chết; 11 năm sau, chú ruột của người chết đột nhiên lên tiếng, cho rằng người được gọi để nhận di sản thực ra chỉ là con nuôi của cha mẹ ruột của người chết và do đó không phải là em ruột của người chết. Toà án thừa nhận điều người chú ruột nói là đúng sự thật, nhưng không đồng ý thụ lý một vụ kiện về quyền thừa kế, do thời hiệu khởi kiện đã hết. Thế thì, trong trường hợp này, người chồng mà được gọi để nhận di sản vẫn là chủ sở hữu đối với các tài sản liên quan, nhưng không phải do được thừa kế mà do xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Tài sản liên quan không còn là tài sản được thừa kế riêng mà là tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn 62ad nhân, do đó, phải rơi vào khối tài sản chung của vợ và chồng.

Tài sản do vợ, chồng tạo ra theo nghĩa đích thực

Chuyển nhượng tài sản có đền bù

Dùng tiền riêng để mua tài sản. Do không có lý thuyết tài sản thay thế, tài sản mua bằng tiền riêng cũng trở thành tài sản chung của vợ và chồng, do được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Đặc biệt, trong trường hợp vợ (chồng) giao kết hợp đồng mua tài sản và đã trả tiền mua tài sản trước khi kết hôn, nhưng quyền sở hữu đối với tài sản chỉ được chuyển cho người mua sau khi kết hôn, thì tài sản mua được cũng là tài sản chung. Tất nhiên, một khi tài sản có nguồn gốc riêng trở thành tài sản chung, thì người có tài sản riêng được coi như có công sức đóng góp tích cực vào sự phát triển của khối tài sản chung, nhưng đó là chuyện khác.

Bán, trao đổi tài sản riêng. Do hiệu lực của hợp đồng mua bán, chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu đối với tài sản vốn là của mình và nhận lại một số tiền; do hiệu lực của hợp đồng trao đổi, chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu đối với tài sản vốn là của mình và nhận quyền sở hữu đối với một tài sản vốn thuộc về người khác. Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, khái niệm tài sản thay thế không được xây dựng; bởi vậy, tiền bán một tài sản riêng, tài sản được trao đổi với một tài sản riêng, một khi được tiếp nhận trong thời kỳ hôn nhân, là tài sản chung của vợ chồng

Thậm chí, ngay trong thời gian tiền bán tài sản chưa được trả, thì quyền yêu cầu trả tiền, tương ứng với nghĩa vụ trả tiền của người mua tài sản, cũng đã rơi vào khối tài sản chung. Kết luận có thể gây sốc; tuy nhiên, về mặt pháp lý, có thể nói gì khác khi quyền yêu cầu trả tiền không phải là tài sản cụ thể đã từng được coi là của riêng ?
. Cùng giải pháp cho trường hợp góp vốn vào công ty: đưa tiền riêng hoặc một tài sản riêng bằng hiện vật vào một công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc một công ty cổ phần, người có tài sản riêng có một phần hùn hoặc một số cổ phần trong công ty đó và, nếu người này đã có gia đình, thì phần hùn hoặc số cổ phần đó là tài sản chung của vợ và chồng.

Quyền sử dụng đất tạo ra trong thời kỳ hôn nhân

Áp dụng luật chung về quan hệ tài sản. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 27 khoản 1, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Suy cho cùng, rất khó tìm cách lý giải sự tồn tại của một quy định đặc biệt chi phối quyền sử dụng đất trong luật viết về quan hệ tài sản của vợ chồng. Nếu quyền sử dụng đất có được do hiệu lực của một giao dịch chuyển nhượng có đền bù, thì theo luật chung, quyền sử dụng đất ấy là tài sản chung do được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Nếu quyền sử dụng đất được giao có hoặc không có thu tiền sử dụng đất hoặc được cho thuê, thì đó cũng là một loại tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân và cũng là tài sản chung. Có lẽ, người làm luật cho rằng trong một số trường hợp, cơ quan giao đất hoặc cho thuê đất chỉ tính đến khả năng, điều kiện sử dụng đất của cá nhân người xin giao đất, xin thuê đất và chỉ quyết định giao đất cho cá nhân người đó hoặc chỉ giao kết hợp đồng thuê đất với cá nhân người đó: trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ có tên người đó mà không có tên vợ hoặc chồng của người đó. Dẫu sao, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là bằng chứng tuyệt đối về quyền sử dụng đất của người có tên trên giấy đó.

Nói chung, giao quyền sử dụng đất, dù là không có thu tiền sử dụng đất, không phải là một giao dịch mang tính chất tặng cho trong khung cảnh của luật thực định: quyền sử dụng đất được giao trong thời kỳ hôn nhân phải là tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp việc giao đất có tính đến năng lực, phẩm chất chuyên môn của người được giao, thì nên phân biệt giữa giá trị tài sản của quyền sử dụng đất và tư cách người có quyền sử dụng đất: giá trị tài sản của quyền sử dụng đất rơi vào khối tài sản chung, còn tư cách người có quyền sử dụng đất là của riêng người được giao đất.

Việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có đền bù và việc thuê đất, về phần mình, có tác dụng tạo ra một tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, do áp dụng luật chung về quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Ta còn lại trường hợp quyền sử dụng đất do vợ chồng có được do được tặng cho hoặc thừa kế: nếu vợ chồng được tặng cho hoặc thừa kế chung, thì đó là tài sản chung, cũng do áp dụng luật chung về thành phần cấu tạo các khối tài sản; còn nếu vợ, chồng được tặng cho hoặc thừa kế riêng, thì chắc chắn đó là tài sản riêng. Trong các chừng mực đó, Điều 27 khoản 1, đã dẫn, chỉ nhắc lại các quy tắc sẵn có, như một cách khẳng định các giải pháp của luật chung đối với vấn đề chung hay riêng của quyền sử dụng đất.

Tài sản chung do ý chí của vợ và chồng

Thoả thuận của vợ chồng về việc coi một tài sản nào đó là của chung. Sự việc thực ra không đơn giản. Thoả thuận giữa vợ và chồng về tính chất chung hay riêng của một tài sản không chỉ là chuyện của vợ và chồng: lợi ích của người thứ ba, đặc biệt là của chủ nợ của một trong hai người cũng được đưa vào cuộc. Cha vợ chết; phân chia di sản, vợ nhận được một căn nhà; vợ và chồng thoả thuận rằng căn nhà ấy là của chung; ít lâu sau, chủ nợ của cha xuất hiện và yêu cầu vợ trả một món nợ lớn, với tư cách là người thừa kế của người chết. Theo luật, nợ ấy thuộc trách nhiệm riêng của người vợ; giả sử vợ không có tài sản riêng, thì chủ nợ có thể làm gì trong điều kiện căn nhà trước đây của cha nay đã thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ và chồng ? Trong luật Việt Nam hiện hành, chủ nợ của một chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán; tuy nhiên, giả sử tài sản chung của vợ chồng chỉ có căn nhà ấy là đáng kể, việc phân chia chỉ có tác dụng thu hồi một phần tài sản cho khối tài sản riêng của người vợ. Điều không hợp lý là: nếu người vợ không kết hôn, thì chủ nợ có quyền kê biên đối với trọn căn nhà. Việc kết hôn của người vợ cộng với việc người vợ thoả thuận với chồng về việc đưa một tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng đã gây thiệt hại cho chủ nợ của người cha vợ. Việc phân tích câu chữ của Điều 27 khoản 1 dẫn đến kết luận kỳ lạ này.

Nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 32 khoản 2, vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Thoạt trông, có vẻ như người làm luật muốn dự kiến một cách tạo ra tài sản chung theo ý chí khác với việc tạo ra tài sản chung bằng cách xây dựng một thoả thuận của vợ chồng về việc coi một tài sản riêng nào đó là của chung, đã được phân tích ở trên. Nói rõ hơn, nếu sự thoả thuận của vợ chồng có tác dụng tạo ra tài sản chung theo ý chí của hai người, thì việc nhập một tài sản riêng vào khối tài sản chung có tác dụng tạo ra một tài sản chung theo ý chí của một người.

Thế nhưng, theo Nghị định số 70-CP ngày 03/10/2001 Điều 13 khoản 1, thì việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng vào tài sản chung phải được ghi nhận bằng văn bản có chữ ký của cả vợ và chồng. Việc đòi hỏi chữ ký của cả vợ và chồng cho phép nghĩ rằng việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung phải được sự đồng thuận giữa vợ và chồng. Quy định đó, cùng với việc không có điều luật nào nói rõ hơn về sự thoả thuận coi một tài sản nào đó là của chung, cho phép nghĩ rằng nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung chỉ là một cách diễn đạt khác của sự thoả thuận của vợ chồng coi một tài sản nào đó là của chung.

Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam - Tập 2: Các quan hệ tài sản giữa vợ chồng



Nguồn: voer.edu.vn/m/khoi-tai-san-chung/d244498e


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận