Tài sản cố định là cở sở vật chất chủ yếu giúp cho doanh nghiệp đạt được các mục tiêu về hoạt động sản xuất và tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp là phải tăng cường công tác quản lý TSCĐ nhằm đạt hiệu quả cao. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất kinh doanh, TSCĐ vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu nhưng giá trị của nó giảm dần sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh nên trong công tác quản lý TSCĐ, các doanh nghiệp cần theo dõi cả về mặt hiện vật và mặt giá trị của TSCĐ.
Quản lý về mặt giá trị: là xác định đúng nguyên giá và giá trị còn lại của TSCĐ đầu tư, mua sắm, điều chuyển và giá trị hao mòn
Quản lý TSCĐ về mặt giá trị là công việc chủ yếu trong công tác hạch toán kế toán. Công việc này đảm bảo cho ban quản lý có thể biết chính xác, kịp thời và đầy đủ những thông tin về mặt giá trị (Nguyên giá, Giá trị hao mòn và Giá trị còn lại) của từng loại TSCĐ (TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, TSCĐ thuê tài chính) trong doanh nghiệp tại từng thời điểm xác định.
Nguyên tắc xác định nguyên giá tài sản cố định:
- Đối với TSCĐ hữu hình:
Về nguyên giá của TSCĐ hữu hình được xác định trong từng trường hợp như sau:
+ TSCĐ hữu hình loại mua sắm: Nguyên giá TSCĐ hữu hình mua sắm (kể cả mua mới), bao gồm giá mua (trừ các khoản được chiết khấu thương mại, giảm giá); các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các khoản chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như chi phí chuẩn bị mặt bằng, các chi phí vận chuyển và bốc dỡ ban đầu; các chi phí lắp đặt, chạy thử (trừ (-) các khoản thu hồi về sản phẩm, phế liệu do lắp đặt chạy thử), chi phí chuyên gia và các chi phí liên quan trực tiếp khác.
+ TSCĐ hữu hình loại đầu tư xây dựng cơ bản theo phương thức giao thầu: Nguyên giá (cả tự làm và thuê ngoài) là giá quyết toán công trình đầu tư xây dựng, các chi phí liên quan trực tiếp khác và lệ phí trước bạ (nếu có).
+ TSCĐ hữu hình mua trả chậm: Nguyên giá được phản ánh theo giá mua trả ngay tại thời điểm mua. Khoản chênh lệch giữa giá mua trả chậm và giá mua trả tiền ngay được hạch toán vào chi phí theo kỳ hạn thanh toán, trừ đi số chênh lệch đó được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình (vốn hoá) theo quy định trong Chuẩn mực kế toán “Chi phí đi vay”.
+ TSCĐ hữu hình tự xây hoặc tự chế: Nguyên giá là giá thành thực tế của TSCĐ tự xây hoặc tự chế cộng (+) chi phí lắp đặt, chạy thử. Mọi khoản lãi nội bộ và các khoản chi phí không hợp lý (như nguyên vật liệu lãng phí, lao động khác sử dụng vượt quá định mức bình thường trong quá trình xây dựng hoặc tự chế không được tính vào nguyên giá.
+ TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi: Nguyên giá TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ hữu hình không tương tự hoặc tài sản khác được xác định theo giá trị hợp lý của TSCĐ hữu hình nhận về, hoặc giá trị hợp lý của tài sản đem trao đổi, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu về.
Nguyên giá TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ hữu hình tương tự, hoặc có thể hình thành do được bán để đổi lấy quyền sở hữu một tài sản tương tự (tài sản tương tự là tài sản có công dụng tương tự, trong cùng lĩnh vực kinh doanh và có giá trị tương đương). Trong cả hai trường hợp không có bất kỳ khoản lãi hay lỗ nào được ghi nhận trong quá trình trao đổi. Nguyên giá TSCĐ nhận về được tính bằng giá trị còn lại của TSCĐ đem trao đổi.
+ TSCĐ tăng từ các nguồn khác: Nguyên giá TSCĐ hữu hình được tài trợ, được biếu tặng, được ghi nhận theo giá trị hợp lý ban đầu thì doanh nghiệp ghi nhận theo giá trị danh nghĩa cộng (+) các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng.
- Đối với TSCĐ thuê tài chính:
Nguyên giá là giá trị hợp lý (nếu giá trị hiện tại của các khoản thanh to& #225;n tiền thuê tối thiểu nhỏ hơn giá trị hợp lý thì nguyên giá ghi theo giá trị hiện tại của các khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu.
Phần chênh lệch giữa tiền thuê TSCĐ phải trả cho đơn vị cho thuê và Nguyên giá TSCĐ đó được hạch toán vào chi phí kinh doanh phù hợp với thời hạn của hợp đồng thuê tài chính.
* Đối với TSCĐ vô hình:
TSCĐ vô hình là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận là TSCĐ vô hình. Về mặt nguyên giá TSCĐ vô hình được xác định như sau:
- Quyền sử dụng đất: Nguyên giá là toàn bộ các chi phí thực tế đã chi ra có liên quan trực tiếp tới đất sử dụng bao gồm tiền chi ra để có quyền sử dụng đất, chi phí cho đền bù, giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng, lệ phí trước bạ (nếu có) không bao gồm chi phí chi ra để xây dựng các công trình trên mặt đất.
- Quyền phát hành: Nguyên giá là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có quyền phát hành.
- Bản quyền, bằng phát minh sáng chế: Nguyên giá là các chi phí thực tế chi ra để có bản quyền tác giả, bằng phát minh sáng chế.
- Nhãn hiệu hàng hoá: Nguyên giá là các chi phí thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu hàng hoá.
- Phần mềm máy tính: Nguyên giá là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có phần mềm máy tính.
- Giấy phép và Giấy nhượng quyền: Nguyên giá là các khản doanh nghiệp chi ra để doanh nghiệp có được giấy phép và giấy nhượng quyền thực hiện công việc đó, như giấy phép khai thác, giấy phép sản xu& #7845;t loại sản phẩm mới.
- TSCĐ vô hình khác: Nguyên giá là các chi phí thực tế chi ra để có được các TSCĐ loại này.
Nguyên giá TSCĐ trong doang nghiệp chỉ được thay đổi trong các trường hợp sau:
- Đánh giá lại giá trị TSCĐ theo Quyết định kiểm kê và đánh giá lại tài sản của Nhà nước.
- Nâng cấp TSCĐ.
- Tháo dỡ một hay một số bộ phận của TSCĐ.
- Chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu thoả mãn các điều kiện ghi tăng nguyên giá TSCĐ.
Khi thay đổi nguyên giá TSCĐ, doanh nghiệp phải lập biên bản ghi rõ các căn cứ thay đổi và xác định lại các chỉ tiêu nguyên giá, giá trị còn lại trên sổ kế toán, sổ khấu hao luỹ kế của TSCĐ và tiến hành hạch toán theo các quy định hiện hành.
* Giá trị hao mòn:
Khi tham gia vào quá trình sản xuất giá trị của TSCĐ bị hao mòn dần. Để đảm bảo tái đầu tư và mục đích thu hồi vốn, bộ phận kế toán có nhiệm vụ phải tính và phân bổ giá trị hao mòn vào chi phí sản xuất trong kỳ kế toán tương ứng. Đây thực chất là việc tính và trích khấu hao TSCĐ.
- Căn cứ xác định giá trị hao mòn TSCĐ đó là:
Nguyên giá của TSCĐ (đã được trình bày ở trên).
Thời gian hữu ích của TSCĐ (hoặc tỷ lệ % quy định cho từng loại TSCĐ)
Theo Chuẩn mực Kế toán Việt Nam về TSCĐ, thời giẳn dụng hữu ích của TSCĐ là thời gian mà TSCĐ hữu hình phát huy được tác dụng cho sản xuất kinh doanh được tính bằng:
- Thời gian mà doanh nghiệp dự tính sử dụng TSCĐ hữu hình, hoặc
- Số lượng sản phẩm, hoặc các đơn vị tính tương tự mà doanh nghiệp dự tính thu được từ việc sử dụng tài sản.
Khi tiến hành xác định thời gian sử dụng TSCĐ yêu cầu đảm bảo rằng:
Thời gian sử dụng của TSCĐ được xác định thống nhất trong năm tài chính.
Trường hợp có các yếu tố tác động (như việc nâng cấp hay tháo dỡ một số bộ phận của TSCĐ) nhằm kéo dài hoặc rút ngắn thời gian sử dụng của TSCĐ, doanh nghiệp tiến hành xác định lại thời gian sử dụng của TSCĐ theo các quy định trên tại thời điểm hoàn thành nghiệp vụ phát sinh, đồng thời phải lập biên bản nêu rõ các căn cứ làm thay đổi thời gian sử dụng.
Việc xác định thời gian hoạt động của từng loại TSCĐ đã được ghi rõ trong Phụ lục 1 - Khung thời gian sử dụng các loại TSCĐ theo Quyết định số 206/2003/QĐ - BTC.
* Phương pháp trích khấu hao:
Theo Quyết định số 206/2003/QĐ - BTC thì doanh nghiệp có thể tiến hành trích khấu hao TSCĐ theo 3 phương pháp khấu hao chủ yếu: phương pháp khấu hao theo đường thẳng; phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần; phương pháp khấu hao theo số lượng sản phẩm. Tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng từng loại TSCĐ dùng vào hoạt động SXKD mà doanh nghiệp thực hiện trích khấu hao theo phương pháp thích hợp.
Mọi TSCĐ của doanh nghiệp liên quan đến hoạt động SXKD của từng doanh nghiệp đều phải trích khấu hao được hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
Nếu doanh nghiệp trích khấu hao cho từng tháng thì lấy số khấu hao phải trích cả năm chia cho 12 tháng.
Việc trích hoặc thôi khấu hao TSCĐ được thực hiện theo nguyên tắc tròn tháng.
Khi có sự thay đổi nguyên giá hoặc về thời gian sử dụng của TSCĐ thì doanh nghiệp sẽ xác định lại mức khấu hao trung bình cho hàng năm.
Doanh nghiệp cũng không được tính và trích khấu hao cho các TSCĐ đã khấu hao hết và đang chờ quyết định nhượng bán, thanh lý, những TSCĐ dùng vào hoạt động phúc lợi, hoạt động sự nghiệp.
Giá trị còn lại:
Sau khi xác định được chính xác các yếu tố về nguyên giá và giá trị hao mòn (hay số khấu hao luỹ kế), thì về giá trị còn lại được xác định như sau:
Giá trị còn lại = Nguyên giá TSCĐ - Giá trị hao mòn luỹ kế