Tài liệu: Kinh nghiệm của một số nước về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn

Tài liệu
Đỗ Xuân Nghĩa

Tóm tắt nội dung

Kinh nghiệm của một số nước về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn
Kinh nghiệm của một số nước về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn

Nội dung

Thực tế phát triển kinh tế thế giới trong vòng 2- 3 thập niên vừa qua đã chỉ rõ, tất cả các nước có nền kinh tế phát triển nhanh đều đề ra chủ trương phát triển hệ thông cơ sở hạ tầng đi trước một bước đặc biệt chú trọng đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn. Có thể nói hầu hết các nước có tốc độ phát triển nhanh nhiều năm qua đều là những nước đã hoàn thành cơ bản dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, trong đó có giao thông nông thôn. Có thể thấy rõ điều này qua tình hình thực hiện đầu tư và chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn của một số nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Bangladesh và một số nước trong khu vực Đông Nam Á có điều kiện tự nhiên và đặc điểm sản xuất nông nghiệp như nước ta.

Malaysia

Trong cuốn “Malaysia- kế hoạchtriểnvọng lần thứ hai, 1991-2000 do cục xuất bản quốc gia Malaysia ấn hành, phần cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn đã đưa ra những kết luận quan trọng về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn trong sự phát triển nông nghiệp nông thôn. Các kết luận hầu hết cũng được các nước khác trong khu vực và thế giới ghi nhận. Các kết luận đã ghi:

  • Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là cần thiết. Việc xây dựng và nâng cao đường xá nông thôn sẽ tiếp tục nâng cao khả năng tiếp cận của những khu vực nông thôn và bổ sung những nỗ lực xoá đói giảm nghèo của Chính phủ. Các phương tiện cơ sở hạ tầng sẽ được mở rộng đến các trung tâm tăng trưởng mới và những vùng kém phát triển hơn nhằm nâng cao khả năng tiếp cận, phù hợp với mục tiêu cân đối tổng thể sự phát triển kinh tế-xã hội.
  • Việc cung cấp một hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn rộng rãi hơn và hiệu quả hơn trong một mạng lưới giao thông nông thôn ngày càng phức tạp với chất lượng ngày một nâng cao sẽ đòi hỏi những nguồn lực phức tạp. Trong khi khu vực Nhà nước sẽ tiếp tục huy động các nguồn ngân sách để đáp ứng những nhu cầu này, thì sự tham gia mạnh mẽ hơn của khu vực tư nhân sẽ trở lên ngày càng quan trọng. Để thực hiện phương châm này chính phủ cần giải quyết những vàn đề mà khu vực tư nhân gặp phải như: Khuyến khích đầu tư, định giá, thu hồi phí…

Thái Lan

Thái Lan là một trong những nước lớn cả về diện tích và dân số trong khu vực Đông Nam Á, là nước nông nghiệp xuất khẩu gạo đứng thứ ba thế giới sau Mỹ và Việt Nam, xuất khẩu cao su tự nhiên hàng đầu thế giới. Chính sách kinh tế của Thái Lan là ưu tiên phát triển giao thông đặc biệt là giao thông đường bộ.

Năm 1992 tổng chiều dài đường bộ cả nước là 167.448 km, trong đó 107.300 Km đường nông thôn. Từ kế hoạch 5 năm lần ba (1972-1976) mạng lưới giao thông nông thôn đã được quan tâm phát triển , đặc biệt là các đường nối liền khu sản xuất với các thị trường chế biến, tiêu thụ. Tính đến năm 1976, năm cuối cùng của kế hoạch đã xây dựng mới và nâng cấp 16569 km đường nông thôn, phần lớn tập trung vào các vùng có tiềm năng sản xuất.

Đường giao thông nông thôn được đưa vào kế hoạch xây dựng với mục đích phát triển các khu vực có tiềm năng chưa được khai thác và phục vụ nhu cầu quốc phòng. Mục đích chung của việc phát triển mạng lưới đường giao thông nông thôn là:

+ Bảo đảm khoảng cách từ các làng xóm đến bất cứ tuyến đường ô tô nào cũng không được lớn hơn 5 km.

+ Hoàn thiện mạng lưới giao thông nông thôn kết hợp với biên giới hành chính của các tỉnh, huyện, xã.

+ Bảo đảm đầu tư các tuyến đường phục vụ cho quyền lợi của dân làng.

Mặc dù đã phát triển hệ thống giao thông nông thôn trên toàn quốc và đã thu được nhiều kết quả đáng kể trong việc mở mang sản xuất, nhưng sự cách biệt giàu nghèo ở nông thôn ngày càng lớn, đây là một vấn đề mà Thái Lan đang gặp phải.

Bangladesh

Bangladesh là nước thuộc vào nhóm nước chậm phát triển song Chính phủ Bangladesh coi đường xá nông thôn là đầu vào quan trọng nhất để phát triển nông thôn. Nhà nước dành ưu tiên cho việc mở mang đường nông thôn ở những nơi nào nối được nhiều trung tâm dịch vụ nông nghiệp và phải tính toán sao cho người nông dân ở nơi xa nhất có thể dễ dàng đến giao dịch, đi về trong cùng một ngày.

Các dự án đường nông thôn phải kết hợp chặt chẽ với kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội nông nghiệp. Việc tham gia trực tiếp của các cộng đồng dân cư địa phương được coi là động lực phát triển giao thông nông thôn. Mục tiêu phát triển đường xá nông thôn phải chú ý tạo thêm việc làm cho nông dân vào lúc nông n.

Trung Quốc

Trung Quốc là nước nông nghiệp, đất rộng người đông, dân số trên 1,2 tỷ người trong đó nông đân chiếm 80%. Với cơ sở nông thôn là làng hành chính mỗi làng có từ 80- 900 dân, do đó công nghiệp nông thôn phát triển nên mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông ở Trung Quốc có tác dụng rất lớn. Nhưng do vốn đầu tư cơ bản có hạn, nưóc đã phát động phong trào toàn dân làm đường giao thông nông thôn. quan điểm chủ đạo của Chính phủ Trung Quốc là “thà làm nhiều đường tiêu chuẩn cấp thấp để liên hệ với những xóm làng hơn là đường tốt mà nối đưọc ít làng xóm. Bước đầu có đi tạm, sau đó nâng cấp cũng chưa muộn”.

Với phương châm này, sử dụng một cách khoa học các loại vật liệu địa phương như đất và các vật liệu cấp thấp để xây dựng đường giao thông sử dụng kịp thời. Sau đó phân loại để lần lượt nâng cấp và đặc biệt chú ý công tác bảo dưỡng nền đường. Nhờ đó tạm thời đáp ứng được nhu cầu vận tải trước mắt, tiết kiệm vốn đầu tư ban đầu.

Hàn Quốc

Nhà nước hỗ trợ, nhân dân đóng góp công của, nhân dân tự quyêt định loại công trình nào cần ưu tiên xây dựng và chịu trách nhiệm, quyết định tất cả về thiết kế, chỉ đạo thi công, nghiệm thu công ttrình. Nhà nước bỏ ra 1 (chủ yếu là vật tư, xi măng, sắt thép…) thì nhân dân bỏ ra 5 - 10 ( công sức và tiền của). Sự giúp đỡ đó của Nhà nước trong năm đầu chiếm tỷ trọng cao, dần dần các năm sau tỷ trọng hỗ trợ của Nhà nước giảm trong khi quy mô địa phương và nhân dân tham gia tăng dần. Nhân dân thực hiện và bước đầu đã đạt được kêt quả khả quan. Và bước đi của chương trình này diễn ra như sau:

- Phát huy nội lực của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn. Nông dân ở mỗi làng dưới sự tổ chức của Uỷ ban phát triển nông thôn tiến hành dân chủ lựa chọn các dự án phát triển . Bước đầu là các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng thôn xã. Có khoảng 16 loại dự án chi tiết đáp ứng yêu cầu như làm đường, làm cầu… Qua hệ thống hành chính địa phương, mỗi làng báo cáo và liệt kê các dự án theo thứ tự ưu tiên cho các văn phòng huyện.

- Để kích cầu tiêu thụ bớt xi măng sản xuất ứ đọng, Chính phủ phân phối xi măng hỗ trợ các làng làm chương trình. 1600 làng được chọn tiến hành đự án bước đầu Chính phủ cấp cho mỗi làng 300 bao phân phối qua các kênh hành chính địa phương, từ TƯ - tỉnh - tới làng không phân biệt quy mô và vị trí của làng, không phân biệt làng giàu làng nghèo. Trợ giúp khiêm tốn này được coi như chất xúc tác thúc đẩy phát triển đi lên. Đến năm 1978, các dự án phát triển giao thông nông thôn cơ bản được hoàn thành, tổng chiều đài con đường mới được xây dựng mới và mở rộng từ làng tới các trục đường chính lên tới 43631 km. Các con đường trong xã được mở rộng và xây mới lên tới 42220 km. Khoảng 70000 các cây cầu kênh nhỏ cá loại được sửa chữa và xây mới.

- Mở rộng phong trào xây dựng giao thông nông thôn sang các hợp tác xã và doanh nghiệp

Trong những năm 50 - 60, hệ thống hợp tác xã được tổ chức song song với hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước nhằm phục vụ tốt cho các mục tiêu của Chính phủ. Phần lớn các khoản thu nhập của hợp tác xã được trả cho nhân viên của hệ thống tổ chức xây dựng giao thông.

Qua nghiên cứu tình hình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn của một số nước Châu Á có chế độ chính trị khác nhau, ta thấy rằng muốn phát triển nông thôn nhất thiết phải xây dựng cơ sở hạ tầng và trên hết phải có một mạng lưới đường giao thông phát triển hợp lý mới có khả năng đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội và qua đó đưa đất nước đi lên. Qua đây xin rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với quá trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn ở Việt Nam:

Thứ nhất, muốn phát triển nông thôn nhất định phải xây dựng cơ sở hạ tầng và trên hết phải có một hệ thống mạng lưới đường giao thông phát triển hợp lý với khả năng phát triển của từng vùng, từng địa phương.

Thứ hai, phát huy nội lực của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, dưới sự tổ chức của UBND xã, huyện, nhân dân mỗi làng xã góp sức và vật chất, tiền của để xây dựng giao thông.

Thứ ba, trong điều kiện kinh tế còn khó khăn thì việc đầu tư xây dựng nhiều đường tiêu chuẩn cấp thấp phục vụ đi lại sản xuất sau đó sẽ nâng cấp, bảo dưỡng. Mở rộng phong trào phát triển cơ sở giao thông sang tất cả các thành phần kinh tế, chủ thể trong xã hội.




Nguồn: voer.edu.vn/m/kinh-nghiem-cua-mot-so-nuoc-ve-dau-tu-phat-trien-co-so-ha-tang-giao-thong-nong-thon/36...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận