Trong lịch sử nước ta thuế đất đã được áp dụng từ thời Pháp thuộc với tên gọi là thuế " điền thổ " thu vào đất ở, đất vườn của các chủ đất. Sau cách mạng tháng tám năm 1945, thuế đất ở vùng tự do đã bị bãi bỏ. Năm 1956 Nhà nước ban hành thuế thổ trạch đánh vào đất ở và nhà ở trong các thành phố, thị xã. Khi thực hiện xong công cuộc cải tạo, ở thành phố, thị xã không còn đất thuộc sở hữu riêng nên từ năm 1961 nguồn thu của thuế thổ trạch còn lại không đáng kể.
Trong cải cách thuế bước 1 năm 1990, thuế nhà đất đã được nghiên cứu và ngày 31/7/1992 Pháp lệnh thuế nhà đất chính thức được ban hành. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau nên trong tình hình hiện nay mới chỉ thực hiện phần thuế đất, tạm thời chưa thu thuế nhà và chưa có quy định vế thuế nhà. Ngày 19/5/1994 Nhà nước tiếp tục ban hành Pháp lệnh sửa đổi thuế nhà đất.
Như vậy: Thuế đất hiện nay ở nước ta là thuế thu vào việc sử dụng đất vào việc xây dựng công trình để ở và các công trình không sản xuất kinh doanh.
Mục đích của việc áp dụng thuế đất:
Pháp lệnh thuế nhà đất hiện hành quy định: các tổ chức, cá nhân sử dụng đất để làm nhà ở và xây dựng công trình đều là đối tượng nộp thuế đất, cho dù đất đó có giấy chứng nhận hay không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong đó có một số trường hợp cá biệt được quy định như sau:
Theo Pháp lệnh thuế đất hiện hành, những đối tượng đang thực tể sử dụng đất thuộc diện không thu thuế đất thì không phải nộp thuế đất, cụ thể các đối tượng sử dụng đất sau đây không phải là đối tượng nộp thuế đất:
Ðối tượng chịu thuế đất là đất ở, đất xây dựng công trình không phân biệt là đã xây dựng hay chưa xây dựng, có giấy chứng nhận hay không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Căn cứ tính thuế là diện tích đất, hạng đất và mức thuế sử dụng đất nông nghiệp của một đơn vị diện tích.
Diện tích làm căn cứ tính thuế là toàn bộ diện tích thuộc khuôn viên đất thực tế đang sử dụng (trừ phần diện tích thuộc diện thu thuế sử dụng đất nông nghiệp nằm trong khuôn viên đó) .
Thuế đất thực tế là thuế đánh vào khả năng sinh lời của đất dùng vào việc xây dựng nhà ở và xây dựng công trình. Khả năng sinh lời của đất lại phụ thuộc vào vị trí của đất và những điều kiện hưởng thụ các phúc lợi xã hội. Những điều kiện đó càng tốt thì khả năng sinh lời của đất càng cao. Chỉ số đánh giá khả năng sinh lời của đất là giá cả quyền sử dụng đất hình thành trên thị trường thông qua việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong điều kiện nước ta hiện nay, để thuận tiện khi tính thuế, Pháp lệnh thuế nhà đất quy định lấy hạng đất nông nghiệp và định suất thuế của hạng đất nông nghiệp làm căn cứ tính thuế đất.
Hạng đất nông nghiệp làm căn cứ tính thuế đất được quy định khác nhau cho từng vùng.
Ðể hạn chế việc chuyển diện tích đất nông nghiệp sang làm nhà ở, Pháp lệnh thuế đất quy định hệ số tính thuế nhằm mục đích nâng mức động viên thông qua thuế đối với đất ở, đất xây dựng công trình cao hơn mức động viên thông qua thuế sử dụng đất nông nghiệp.
+ Ðối với đất ở, đất xây dựng công trình thuộc thành phố, thị xã, thị trấn là toàn bộ diện tích đất thuộc nội thành, nội thị theo địa giới hành chính.
Mức thuế đất được quy định cho một đơn vị diện tích tại từng vị trí, từng loại đường phố của từng loại đô thị.
Việc phân loại đô thị, loại đường phố, vị trí để xác định mức thuế căn cứ vào các quy định hiện hành của Chính phủ.
Mức thuế đất được quy định như sau:
+ Ðối với đất ở, đất xây dựng công trình thuộc vùng ven đô thị, ven đầu mối giao thông và ven trục giao thông chính, mức thuế quy định như sau:
+ Thuế đất đối với nhà nhiều tầng và khu tập thể thuộc nhiều tổ chức, cá nhân quản lý sử dụng được quy định như sau:
Quản lý đối tượng nộp thuế là vấn đề phức tạp, liên quan đến hàng chục triệu hộ gia đình thuộc nhiều tầng lớp dân cư. Thuế đất lại gắn với một loại tài sản rất đa dạng về vị trí, diện tích. Vì vậy cần phải tổ chức chặt chẽ công tác quản lý thuế để tránh thất thu thuế. Những vấn đề trọng tâm trong quản lý thuế đất:
Thuế môn bài là một loại thuế thu vào khai trương nghề nghiệp trong một năm, được tínhvào đầu năm đN 89;i với các thể nhân, pháp nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực ra đây là một khoản thu lệ phí có tính chất thuế, một loại lệ phí nghế nghiệp mà các thể nhân và pháp nhân phải nộp trước khi bắt đầu hành nghề. Sở dĩ gọi tên là thuế môn bài vì khi đóng thuế, các cơ sở được cấp một thẻ để treo ở cửa tiệm, nên người dân quen gọi theo chử Hán " môn là cửa", " bài" là thẻ, lâu ngày quen gọi là thuế môn bài vì loại thuế này có từ lâu. Thuế môn bài là một loại thuế trực thu.
Tất cả các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế có hoạt động sản xuất kinh doanh không phân biệt hạch toán độc lập, hạch toán phụ thuộc hay hạch toán báo sổ đều là đối tượng nộp thuế môn bài.
Trường hợp một cơ sở kinh doanh hạch toán phụ thuộc hay báo sổ còn có các cửa hàng, quầy hàng, cửa hiệu cùng hoạt động kinh doanh trên địa bàn một quận, huyện thì chỉ nộp thuế môn bài tại cơ sở chính.
Các cá nhân kinh doanh bao gồm các hộ cá thể, cá nhân và nhóm kinh doanh, kể cả cán bộ công nhân viên, nhóm cán bộ công nhân viên nhận khóan tự chịu trách nhiệm về vốn, tổ chức sản xuất kinh doanh, phải đăng ký kinh doanh đều là đối tượng nộp thuế môn bài.
Căn cứ tính thuế môn bài là thu nhập bình quân tháng, năng lực và kết qủa kinh doanh của cơ sở.
Aùp dụng một biểu thuế và mức thuế do Bộ tài chính quy định. Biểu thuế và mức thuế này có thể được bộ tài chính quy định lại hàng năm tùy theo tốc độ phát triễn kinh tế, nhu cầu ngân sách Nhà nước và mức trượt giá.
Mức thuế và biểu thuế hiện hành được quy định như sau:
Các cơ sở đã được cấp thẻ môn bài và đang hoạt động, hàng năm phải khai báo với cơ quan thuế trong thời hạn và theo mẫu của Bộ tài chính, kèm theo giấy phép đăng ký kinh doanh.
Các trường hợp kinh doanh không có giấy phép, không đăng ký nộp thuế môn bài, trốn tránh hoặc gian lận trong việc khai báo, dây dưa trong việc nộp thuế, cản trở việc thi hành của nhân viên thuế v.v tuỳ theo mức độ nặng, nhẹ mà bị xử phạt như sau:
Thuế tài nguyên là một khoản thu bắt buộc đối với các tổ chức và cá nhân có hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên không phụ thuộc vào cách thức tổ chức và hiệu qủa sản xuất kinh doanh của người khai thác.
Ơớ hầu hết các nước trên thế giới, vai trò của thuế đánh vào hoạt động khai thác tài nguyên được đặc biệt coi trọng. Ơớ nước ta trước năm 1990 chưa áp dụng thuế tài nguyên nhưng đã áp dụng một số hình thức thu mang tính chất của thuế tài nguyên như chế độ thu tiền nuôi rừng, chế thu đối với vàng sa khoáng...
Năm 1990 những mục tiêu và yêu cầu quan trọng của công cuộc cải cách thuế bước I đã đòi hỏi hệ thống thuế đã bao quát đầy đủ các nguồn thu trong nước và có tác động tích cực đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy Pháp lệnh thuế tài nguyên đã được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1991. Qua 06 năm thực hiện, Pháp lệnh thuế tài nguyên đã bộc lộ một số nhược điểm về phạm vi và phương pháp xác định.
Ngày 16/4/1998, Pháp lệnh thuế tài nguyên (sửa đổi) đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X thông qua và có hiệu lực thi hành từ 01/6/1998. Chính phủ đã có Nghị định số 68/1998/NÐ-CP ngày 03/9/1998 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh thuế tài nguyên (sửa đổi). Bộ tài chính đã ra thông tư 153/1998/TT-BTC ngày 26/11/1998 hướng dẫn thi hành Nghị định số 68/1998/NÐ-CP của Chính phủ.
Tất cả các tổ chức, cá nhân được phép khai thác tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam đều là đối tượng phải nộp thuế tài nguyên ( trừ đối tượng được miễn, giảm theo quy định của Pháp lệnh thuế tài nguyên và các văn bản hướng dẫn thi hành).
· Trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng đang trả tiền tài nguyên hay nộp thuế tài nguyên theo mức cụ thể quy định trong giấy phép đầu tư cấp trước ngày01/6/1998 thì tiếp tục được nộp tiền tài nguyên hay nộp thuế tài nguyên theo mức quy định đó cho đến hết thời hạn của giấy phép được cấp. Sau đó phải thực hiện theo Pháp lệnh thuế tài nguyên này nếu được gia hạn giấy phép đầu tư.
· Trường hợp doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hoạt độnng theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà bên Việt Nam góp vốn pháp định bằng các nguồn tài nguyên được ghi trong giấp phép đầu tư thì doanh nghiệp liên doanh không phải nộp thuế tài nguyên mà bên Việt Nam dùng để góp vốn pháp định. bên Việt Nam phải kê khai số tài nguyên phát sinh đã góp vốn, báo cáo Bộ tài chính để ghi vốn ngân sách Nhà nước và quản lý vốn theo chế độ hiện hành.
· Trường hợp doanh nghiệp khai thác tài nguyên nguyên được thành lập trên cơ sở liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh và hợp đồng chia sản phẩm thì thuế tài nguyên phải nộp của doanh nghiệp liên doanh hay bên nước ngoài phải được xác định trong hợp đồng liên doanh và tính vào phần sản phẩm chia cho bên Việt Nam. Khi chia sản phẩm bên Việt Nam có trách nhiệm nộp thuế tài nguyên cho ngân sách Nhà nước theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước.
Ðối tượng thuộc diện chịu thuế tài nguyên là các tài nguyên thiên nhiên trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền của nước Cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đều thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý. Bao gồm:
· Khoáng sản kim loại.
· Khoáng sản không kim loại, kể cả khoáng sản dùng làm vật liệu xây dựng thông thường; đất được khai thác; nước khoáng, nước nóng thiên nhiên thuộc đối tượng được quy định tại Luật khoáng sản.
· Dầu mỏ.
· Khí đốt.
· Sản phẩm của rừng tự nhiên.
· Thủy sản tự nhiên.
· Nước thiên nhiên ( trừ nước khoáng, nước nóng thiên nhiên đã nêu ở phần trên.)
· Tài nguyên thiên nhiên khác.
Căn cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác, giá tính thuế và thuế suất.
Số lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác dùng làm căn cứ tính thuế tài nguyên được quy định là số lượng, trọng lượng hay khối lượng của tài nguyên khai thác thực tế trong kỳ nộp thuế, không phụ thuộc vào hiện trạng và mục đích khai thác tài nguyên.
· Ðối với loại tài nguyên không xác định được số lượng, trọng lượng hay khối lượng thực tế khai thác do nhiều chất khác nhau, hàm lượng tạp chất lớn thì thuế tài nguyên được tính trên số lượng, trọng lượng hay khối lượng từng chất thu được do sàng tuyển, phân loại.
· Trường hợp khai thác thủ công, phân tán hoặc khai thác lưu động, không thường xuyên, khó khăn trong công tác quản lý thì có thể khoán số lượng tài nguyên khác theo mùa vụ hoặc định kỳ.
Gía tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên tại nơi khai thác và được xác định cụ thể trong từng trường hợp sau:
· Loại tài nguyên xác định được sản lượng ở khâu khai thác và có thể bán ra ngay sau khi khai thác thì giá tính thuế tài nguyên là giá thực tế bán ra tại nơi khai thác chưa bao gồm thuế giaẽ trị gia tăng (nếu có) phải nộp. Nếu phát sinh chi phí vận chuyển, bốc xếp, lưu kho bãi từ nơi khai thác đến nơi tiêu thụ thì các chi phí đó được trừ khi xác định giá tính thuế tài nguyên. Trường hợp này nếu không bán ra (đưa vào quy trình sản xuất tiếp theo) thì áp dụng giá tính thuế do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định.
· Loại tài nguyên xác định được sản lượng ở khâu khai thác nhưng chưa thể bán ra được mà phải qua sàng tuyển, chọn lọc...mới bán ra thì giá tính thuế tài nguyên là giá bán của sản phẩm đã qua sàng tuyển, phân loại trừ đi các chi phí phát sinh từ nơi khai thác đến nơi tiêu thụ và quy đổi theo hàm lượng hay tỷ trọng để xác định giá tính thuế là giá bán của tài nguyên thực tế khai thác không bao gồm thuế giá trị gia tăng.
· Loại tài nguyên không xác định được số lượng ở khâu khai thác tạp chất lớn, có nhiều chất khác nhau thì giá tính thuế là giá bán thực tế của từng chất tại nơi khai thác không bao gồm thuế giá trị gia tăng.
· Loại tài nguyên khai thác và được sử dụng làm nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm thì giá tính thuế tài nguyên là giá bán sản phẩm cuối cùng trừ đi các chi phí sản xuất ra sản phẩm đó (bao gồm cả thuế giá trị gia tăng phải nộp nhưng không bao gồm chi phí khai thác tài nguyên) nhưng mức tối thiểu không thấp hơn gía tính thuế do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định.
· Gía tính thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên sản xuất thủy điện là giá bán điện thương phẩm.
· Riêng đối với dầu mỏ, khí đốt, giá tính thuế tài nguyên được thực hiện theo quy định tại luật dầu khí và văn bản hướng dẫn thi hành Luật dầu khí..
Thuế suất thuế tài nguyên được thực hiện theo biểu thuế ban hành kèm theo Nghị định số 68/1998/NÐ-CP ngày 3/9/1998 cuả Chính phủ. Tùy theo loại tài nguyên khác nhau mà thuế suất thuế tài nguyên được quy định là từ 1% đến 40%.
· Miễn thuế tài nguyên đối với sản phẩm rừng tự nhiên do dân cư trên địa bàn xã có rừng được phép khai thác như gỗ cành, củi, tre, nứa ...phục vụ trực tiếp cho sinh hoạt hằng ngày.
· Miễn thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng vào sản xuất thủy điện đối với trường hợp sản xuất thủy điện không hòa vào mạng điện quốc gia.
· Miễn thuế tài nguyên đối với đất được khai thác để sử dụng vào các mục đích sau:
- San lấp, xây dựng các công trình phục vụ an ninh quốc phòng.
- San lấp, xây dựng các công trình đê điều, thủy lợi trực tiếp phục vụ nông, lâm, ngư, nghiệp, làm đường giao thông.
- San lấp, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng ở miền núi phục vụ cho phát triễn đời sống kinh tế xã hội trong vùng.
- San lấp, xây dựng các công trình mang ý nghĩa nhân đạo, từ thiện hoặc dành ưu đãi đối với người có công với cách mạng.
- Khai thác trong phạm vi đất được giao, được thuê để san lấp, đắp, xây dựng tại chổ trong phạm vi diện tích đó.
- San lấp, xây dựng các công trình trọng điểm của quốc gia theo quyết định của Chính phủ cho từng trường hợp cụ thể.
· Các dự án đầu tư thuộc đối tượng ưu đãi đầu tư theo quy định tại Luật khuyến khính đầu tư trong nước có khai thác tài nguyên (trừ dầu khí) thì được giảm tối đa 50% thuế tài nguyên trong 03 năm đầu kể từ khi bắt đầu khai thác.
· Tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên gặp thiên tai, địch họa, tai nạn bất ngờ gây tổn thất đến số tài nguyên khai thác đã kê khai nộp thuế thì được xét miễn thuế đối với số tài nguyên đã bị tổn thất.
· Tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác thủy sản ở vùng biển xa bờ bằng phương tiện có công suất lớn được miễn thuế tài nguyên trong 05 năm đầu kể từ khi được cấp giấy phép khai thác và giảm 50% thuế tài nguyên trong 05 năm tiếp theo.
Sau thời gian miễn và giảm thuế tài nguyên nêu trên (10 năm), nếu tổ chức, cá nhân khai thác thủy sản ở vùng biển xa bờ còn bị lỗ thì sẽ được xét giảm thuế tài nguyên tương ứng với với số lỗ của từng năm trong thời gian không qúa 05 năm liên tục tiếp theo.
Việc áp dụng thuế tài nguyên góp phần quan trọng vào việc thực hiện chính sách quản lý, kiểm soát, hướng dẫn, điều tiết các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên của đất nước.
Ðồng thời việc thực hiện tốt thuế tài nguyên sẽ phát huy được các tác dụng quan trọng của nó trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay.
Vấn đề đặt ra là phải thực hiện như thế nào để đạt được hiệu qủa cao nhất. Ðây là yêu cầu cơ bản đặt ra cho công tác tổ chức, quản lý thuế tài nguyên.
Quản lý thuế tài nguyên được hiểu là việc tổ chức thực hiện những nội dung công việc liên quan đến thuế tài nguyên của chủ thể quản lý (cơ quan quản lý thuế) và đối tượng quản lý (các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng nộp thuế tài nguyên ) để đạt được hiệu qủa cao nhất của việc áp dụng thuế tài nguyên.
Ðế thực hiện tốt các nội dung công tác kể trên, đảm bảo thực hiện pháp lệnh thuế tài nguyên đạt hiệu qủa cao nhất, yêu cầu cơ bản nhất là các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình theo đúng quy định của pháp lệnh thuế tài nguyên.
Bảng đăng ký phải lập thành 02 bản, một bản gửi cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý thu thuế, một bản lưu giữ tại cơ sở khai thác tài nguyên.
Tờ khai dược lập thành 02 bản, có xác nhận của cán bộ trực tiếp quản lý thu thuế, một bản gửi cho cơ quan thu thuế, một bản lưu tại cơ sở.
Trường hợp khai thác khoáng sản không có điều kiện kê khai hàng tháng thì thời gian kê khai có thể dài hơn, phù hợp với đặc thù hoạt động khai thác theo hướng dẫn bằng văn bản của Cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Trường hợp tổ chức, cá nhân khai thác thủ công, phân tán, hoạt động không thường xuyên...được cơ quan thuế chấp thuận nộp thuế theo phương thức khoán thì cơ quan thuế phải căn cứ vào tờ khai của cơ sở khai thác tài nguyên kết hợp với tài liệu điều tra thực tế về nguồn tài nguyên, vốn, lao động, phương tiện khai thác, giá cả tài nguyên để xác định đúng sản lượng tài nguyên khai thác thực tế và số thuế thi công tài nguyên phải nộp. Việc ấn định mức khoán phải đảm bảo công khai, dân chủ, đúng với khả năng hoạt động khai thác tài nguyên. Việc khoán thuế tài nguyên có thể được tính toán để gắn liền với việc gắn liền với việc khoán thu các loại thuế khác.
Thuế tài nguyên là khoản thu của ngân sách Nhà nước được nộp vào Kho bạc Nhà nước tại địa phương nơi khai thác tài nguyên. Trường hợp cơ sở khai thác nhỏ, phân tán, số thuế tài nguyên nhỏ và ở nơi xa Kho bạc Nhà nước thì cơ quan thuế có thể trực tiếp thu thuế để chuyển nộp vào kho bạc. Căn cứ vào tình hình thực tế, cơ quan thuế phải quy định rõ lịch nộp tiền theo số ngày và số tiền thuế thu được.
Mọi tổ chức, cá nhân khi vận chuyển tài nguyên thiên nhiên đều phải có hóa đơn bán hàng hoặc chứng từ chứng minh đã thực hiện chính sách thuế tài nguyên.
· Cơ sở khai thác tài nguyên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chế độ hoá đơn, chứng từ.
· Không kê khai hoặc qúa thời hạn quy định gửi tờ khai mà đã được thông báo nhắc nhở nhưng vẫn không thực hiện đúng, đã nộp tờ kê khai thuế nhưng kê khai không đúng các căn cứ xác định số thuế tài nguyên.
· Từ chối việc xuất trình sổ kế toán, hóa đơn, chứng từ và các tài liệu cần thiết liên quan tới việc tính thuế tài nguyên.
· Có hoạt động khai thác tài nguyên nhưng không đăng ký mà bị phát hiện.
Cơ quan căn cứ vào tài liệu điều tra về tình hình hoạt động khai thác tài nguyên của cơ sở hoặc căn cứ vào số thuế tài nguyên phải nộp của cơ sở khai thác cùng loại tài nguyên, có quy mô khai thác tương đương để ấn định thuế tài nguyên phải nộp đối với từng cơ sở khai thác trong các trường hợp nêu trên đây.
Trong trường hợp cơ sở khai thác không đồng ý với số thuế tài nguyên phải nộp được ấn định thì có quyền khiếu nại tới cơ quan ấn định thuế hoặc cơ quan thuế cấp trên trực tiếp của cơ quan ấn định thuế. Trong khi chờ giải quyết, cơ sở khai thác vẫn phải nộp theo mức thuế đã được ấn định.
Việc duy trì chế độ bao cấp về vốn của ngân sách Nhà nước đối với khu vực kinh tế quốc doanh đã tạo nên tình trạng nhiều doanh nghiệp Nhà nước ỷ lại vào vốn ngân sách Nhà nước, xin vốn Nhà nước càng nhiều càng tốt, không tính kỹ đến nhu cầu và khả năng, sử dụng lãng phí vốn và kèm hiệu qủa.
Việc sử dụng vốn ngân sách Nhà nước không phải nộp khoản thu nào cho ngân sách Nhà nước Nhà nước đã gây nên tình trạng thiếu công bằng hợp lý về giá thành sản phẩm, không bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
Trước yêu cầu đổi mới về quản lý kinh tế, nhằm đảm bảo công bằng trong việc sử dụng các nguồn vốn, thúc đẩy các tổ chức kinh tế sử dụng có hiệu qủa nguồn vốn ngân sách cấp. HÐBT đã ban hành Nghị định số 22 -HÐBT ngày 24/1/1991 chế độ thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước.
Như vậy, khoản thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước là một khoản thu vào yếu tố sản xuất, kinh doanh tính trên số vốn ngân sách Nhà nước cấp và có nguồn gốc tư ngân sách Nhà nước bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động.
Do tính chất của khoản thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước là một khoản nộp bắt buộc không phụ thuộc vào kết qủa sản xuất kinh doanh trong kỳ, nên nó có những tác dụng sau đây:
Các tổ chức sản xuất kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập có sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, bao gồm:
Khoản thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước tính trên số vốn của ngân sách Nhà nước cấp trực tiếp và vốn có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước.
a. Vốn ngân sách Nhà nước cấp bao gồm:
b. Vốn có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước hình thành từ các nguồn:
Các khoản vốn nói trên đều thuộc đối tượng tính tiền thu vế sử dụng vố ngân sách Nhà nước cấp, không phân biệt vốn đó đang sử dụng tại doanh nghiệp hay đưa đi liên doanh, liên kết với các tổ chức khác trong và ngoài nước.
+ Giảm thu:
+ Miễn thu:
Ðể có cơ sở xem xét miễn, giảm mức thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước đơn vị phải làm đấy đủ thủ tục xin miễn, giảm thu gửi cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý doanh nghiệp.
Hồ sơ xin miễn, giảm gồm: văn bản đề nghị miễn, giảm, nêu rõ nguyên nhân và thời gian miễn, giảm.
Tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc diện nộp tiền về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước phải thực hiện tốt các quy định sau đây:
Trong qúa trình sản xuất và phân phối sản phẩm xã hội, nhiều sản phẩm có giá trị đã trở thành tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của mọi tổ chức và cá nhân dưới hình thức mua, bán, nhượng, tặng, thừa kế...Mỗi lần chuyển dịch tài sản như vậy cần phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận để đảm bảo về mặt pháp lý xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của pháp nhân hoặc thể nhân.
Xác nhận việc sang tên quyền sở hữu tài sản như vậy gọi là trước bạ. Mỗi lần sang tên như vậy thể nhân hoặc pháp nhân phải nộp cho cơ quan trước bạ một khoản tiền gọi là lệ phí trước bạ.
Như vậy, lệ phí trước bạ là một khoản thu của ngân sách Nhà nước do người có tài sản chuyển dịch quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của mình trả cho Nhà nước để được công nhận tính hợp pháp của hành vi chuyển dịch.
Việc thu lệ phí trước bạ không chỉ có tác dụng góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước mà quan trọng là để Nhà nước tăng cường quản lý, kiểm soát hành vi chuyển dịch tài sản trong đời sống xã hội, tạo cơ sở pháp lý cho đối tượng có tài sản chuyển dịch.
Cho đến nay, việc thu lệ phí trước bạ được thực hiện theo Thông tư số 28/2000/TT-BCT ngày 18/4/2000 của Bộ tài chính về hướng dẫn thi hành NÐ176/1999/NÐ-CP của Chính phủ vể lệ phí trước bạ và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2000.
Theo quy định, các tài sản thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng với cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật đều là đối tượng chịu lệ phí trước bạ. Các tài sản sau đây phải chịu lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền:
· Nhà gồm : nhà ở, nhà làm việc, nhà xuởng, nhà kho, cửa hàng, cửa hiệu và các công trình kiến trúc khác.
· Ðất gồm: đất nông nghiệp, lâm nghiệp, khu dân cư nông thôn, đô thị, chuyên dùng (không phân biệt đã xây dựng công trình hay chưa xây dựng công trình).
· Tàu thủy, kể cả sà lan, ca nô, tàu kéo, tàu đẩy, vỏ, tổng thành máy tàu thủy.
· Thuyền trừ những thuyền không gắn máy và không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng theo quy định của pháp luật).
· Ô tô, khung và tổng thành máy ô tô; trừ các máy, thiết bị không phải là phương tiện vận tải, như xe lu, cần cẩu, máy xúc, máy ủi, máy kéo...
· Xe máy (bao gồm các xe gắn máy 02 bánh, 03 bánh, kể cả xe lam), khung và tổng thành máy xe máy.
· Súng săn, súng thể thao.
Các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có tài sản ở Việt Nam thuộc diện chịu lệ phí trước bạ đều là đối tượng nộp lệ phí trước bạ mỗi khi đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác.
Nói chung tài sản thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đều là đối tượng chịu lệ phí trước bạ, song theo quy định có một số tài sản trong các trường hợp sau đây không thuộc diện chịu lệ phí trước bạ:
· Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế thuộc hệ thống Liên hợp quốc.
· Viên chức ngoại giao, viên chức lãnh sự, nhân viên hành chính kỹ thuật của cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan lãnh sự nước ngoài, thành viên cơ quan các tổ chức quốc tế thuộc hệ thống Liên hợp quốc và thành viên của gia đình họ không phải là công dân Việt Nam hoặc không thường trú tại Việt Nam được bộ Ngoại giao Việt Nam hoặc cơ quan ngoại vụ địa phương được Bộ Ngoại giao ủy quyền cấp chứng minh thư ngoại giao hoặc chứng minh thư công vụ.
· Tổ chức, cá nhân nước ngoài khác không thuộc đối tượng nêu trên nhưng được miễn nộp hoặc không nộp lệ phí trước bạ theo điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, tham gia hoặc thỏa thuận.
· Ðất được Nhà nước giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng vào các mục đích sau:
+ Xây dựng các công trình công cộng.
+ Thăm do,ỡ khai thác khoáng sản, nghiên cứu khoa học theo giấy phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
+ Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối.
+ Xây dựng nhà để kinh doanh mà tổ chức, cá nhân được phép hoạt động kinh doanh nhà đã nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
+ Ðất thuê của Nhà nước hoặc thuê của tổ chức, cá nhân đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Tài sản chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh.
+ Nhà đất thuộc tài sản Nhà nước hoặc tài sản của Ðảng Cộng sản Việt Nam dùng làm trụ sở cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan tư pháp, cơ quan hành chính sự nghiệp của các tổ chức chính trị -xã hội , tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -nghề nghiệp.
+ Nhà, đất được đền bù khi Nhà nước thu hồi nhà, đất mà tổ chức, cá nhân bị thu hồi đất đã nộp lệ phí trước bạ đối với nhà, đất bị thu hồi.
+ Tài sản của tổ chức, cá nhân đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng khi đăng ký lại quyền sở hữu, quyền sử dụng không phải nộp lệ phí trước bạ đối với những trường hợp sau đây:
* Chủ tài sản đã được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã 769b hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của chế độ cũ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, nay đổi giấy chứng nhận sở hữu, sử dụng mới mà không thay đổi chủ tài sản.
* Tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của doanh nghiệp được cổ phần hóa thành sở hữu công ty cổ phần.
* Tài sản đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng chung của hộ gia đình khi phân chia tài sản đó cho những người trong hộ gia đình thì người được chia tài sản không phải nộp lệ phí trước bạ.
· Tài sản của tổ chức, cá nhân đã nộp lệ phí trước bạ trừ trường hợp không phải nộp hoặc được miễn nộp theo chính sách hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền sau đó chuyển cho tổ chức, cá nhân khác đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì không phải nộp lệ phí trước bạ trong những trường hợp sau đây:
* Tổ chức, cá nhân đem tài sản của mình góp vốn vào tổ chức liên doanh, hợp doanh có tư cách pháp nhân; Xã viên hợp tác xã góp vốn và hợp tác xã thì tổ chức nhận tài sản không phải nộp lệ phí trước bạ đối với tài sản góp vốn; hoặc khi các tổ chức này giải thể phân chia tài sản của mình cho các tổ chức, cá nhân thành viên đăng ký quyền sở hữu, sử dụng.
* Tổng công ty, công ty, doanh nghiệp điều động tài sản của mình cho các đơn vị thành viên hoặc điều động tài sản giữa các đơn vị thành viên với nhau theo hình thức ghi tăng, ghi giảm vốn.
* Tài sản được chia hay góp do chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể, đổi tên tổ chức theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
* Tài sản chuyển đến địa phương nơi sử dụng mà không thay đổi chủ sở hữu tài sản.
· Nhà tình nghĩa, kể cả đất kèm theo nhà đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tên người được tặng.
· Xe chuyên dùng, gồm: xe cứu hỏa, cứu thương; xe chở rác, xe tưới nước rửa đường; xe chuyên dùng cho thương binh, bệnh binh, người tàn tật đăng ký quyền sở hữu tên thương binh, bệnh binh, người tàn tật.
· Vỏ tàu và tổng thành máy tàu thủy, khung ô tô và tổng thành máy ô tô, khung xe máy và tổng thành máy xe gắn máy thay thế phải đăng ký lại trong thời hạn bảo hành.
Căn cứ tính lệ phí trước bạ là giá tính lệ phí trước bạ và tỷ lệ (%) lệ phí trước bạ, được xác định như sau:
Số tiền lệ phí trước bạ phải nộp = giá tính lệ phí trước bạ nhân (X) tỷ lệ (%) lệ phí trước bạ.
Giá tính lệ phí trước bạ đối với một số trường hợp cụ thể được quy định như sau:
Giá đất tính lệ phí trước bạ = diện tích đất chịu lệ phí trước bạ nhân (X) giá đất mỗi mét vuông.
· Diện tích đất chịu lệ phí trước bạ là toàn bộ diện tích trong khuôn viên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức, cá nhân đăng ký sử dụng với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
· Giá đất mỗi mét vuông là giá do uỷ ban nhân dân tỉnh quy định áp dụng tại địa phương và hệ số phân bổ đối với từng tầng theo khung giá các loại đất của Chính phủ quy định. Một số trường hợp cụ thể được áp dụng như sau:
+ Ðối với đất kèm theo nhà thuộc sở hữu nhà nước bán cho người đanh thuê theo Nghị định 61/CP ngày 15/7/1994 của chính phủ, giá tính lệ phí trước bạ là giá bán thực tế ghi trên hoá đơn bán nhà đất theo quyết định của ủy ban nhân dân tỉnh.
+ Ðối với đất được Nhà nước giao theo hình thức đấu thầu, đấu giá thì giá tính lệ phí trước bạ là giá trúng đấu thầu, đấu giá thực tế ghi trên hoá đơn.
· Ðối với các tài sản khác, giá tính lệ phí trước bạ là giá trị thực tế theo giá thị trường tại thời điểm tính lệ phí trước bạ.
Tỷ lệ % lệ phí trước bạ được quy định như sau:
Tổ chức, cá nhân có tài sản thuộc đối tượng chịu lệ phí trước bạ (không phân biệt đối tượng thuộc diện phải nộp hay không phải nộp) có trách nhiệm:
· Thời hạn quy định phải kê khai lệ phí trước bạ chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày hoàn thành thủ tục giấy tờ chuyển giao tài sản hợp pháp giữa hai bên hoặc ngày nhận được xác nhận " hồ sơ tài sản hợp pháp" của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
· Không thực hiện đúng các thủ tục kê khai lệ phí trước bạ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.
· Nộp chậm tiền lệ phí trước bạ , tiền phạt so với ngày quy định phải nộp ghi trên thông báo của cơ quan thuế hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan có thẩm quyền thì ngoài việc phải nộp đủ số tiền lệ phí trước bạ, số tiền phạt phải nộp, mỗi ngày nộp chậm còn phải nộp phạt bằng 0,1% (một phần nghìn) số tiền nộp chậm.
· Không nộp đủ số tiền lệ phí trước bạ theo quy định thì không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản. Nếu khai man, trốn nộp lệ phí trước bạ để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản thì ngoài việc phải nộp đủ số tiền lệ phí trước bạ theo quy định của pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm còn bị phạt tiền từ 1 đến 3 lần số tiền lệ phí trước bạ khai man, trốn nộp; các trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
· Cán bộ thuế do thiếu tinh thần trách nhiệm, lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ thì tùy theo mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.