Lương tuần = Tiền lương ngày x số ngày làm việc/tuần
Lương ngày: Là lương trả cho người lao động theo mức lương ngày và số ngày làm việc thực tế của họ.
Lương công nhật: Là tiền lương thoả thuận giữa người sử dụng lao động với người lao động, làm việc ngày nào hưởng lương ngày ấy theo quy định đối với từng loại công việc.
Hình thức trả lương theo thời gian có ưu điểm, để tính toán giản đơn.
Nhưng mang tính bình quân, thường không khuyến khích được tính tích cực của người lao động, ít quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động.
- Trả lương theo thời gian có thưởng:
Thực chất là sự kết hợp trả lương theo thời gian giản đơn với tiền thưởng, khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng hoặc chất lượng và điều kiện thưởng quy định.
Hình thức này không những phản ánh được trình độ thành thạo, thời gian thực tế mà còn gắn liền với những thành tích công tác của từng người thông qua chỉ tiêu xét thưởng đã đạt được. Do đó nó là biện pháp khuyến khích vật chất đối với người lao động, tạo cho họ tinh thần trách nhiệm cao với công việc.
Trả lương sản phẩm:
Đây là hình thức trả lương cho người lao động theo số lượng và chất lượng công việc hoàn thành. Là hình thức trả lương khá phổ biến hiện nay trong các đơn vị sản xuất kinh doanh. Tiền lương của công nhân phụ thuộc vào đơn giá tiền lương của đơn vị sản phẩm và số sản phẩm hợp quy cách đã được sản xuất ra.
Hình thức trả lương theo sản phẩm khá phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn thu nhập với người lao động với kết quả sản xuất kinh doanh, khuyến khích người lao động hăng say lao động. Hình thức trả lương này tỏ ra hiệu quả hơn so với việc trả lương theo thời gian.
Công thức tính:
Trong đó:
LSP: Tiền lương theo sản phẩm
qi : Số lượng sản phẩm loại i sản xuất ra
gi: Đơn giá tiền lương một sản phẩm loại i
I : Số loại sản phẩm.
Hình thức này bao gồm:
+ Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân: Là hình thức mà số tiền thưởng phải trả cho người lao động bằng đơn giá tiền lương trên một đơn vị sản phẩm nhân với số lượng sản phẩm hoàn thành.
Cách áp dụng đối với người trực tiếp sản xuất trong điều kiện quá trình lao động của họ mang tính tương đối độc lập, có thể tính mức kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm một cách cụ thể riêng biệt.
Tiền lương sản phẩm trực tiếp cá nhân được tính đơn giản dễ hiểu, khuyến khích người lao động nâng cao trình độ lành nghề, nâng cao năng xuất lao động nhằm tăng thu nhập. Tuy nhiên chế đọ lương này làm cho người lao động ít quan tâm đến máy móc thiết bị, chỉ chạy theo số lượng, không chú ý đến chất lượng, tiết kiệm nguyên vật liệu và không chú ý đến tập thể.
+Trả lương theo sản phẩm tập thể: Hình thức tiền lương này áp dụng đối với công việc yêu cầu một nhóm người phối hợp thực hiện như lắp ráp thiết bị, sản xuất các bộ phận, làm việc theo dây chuyền, sửa chữa cơ khí.
Trường hợp công việc đa dạng có thể tiến hành theo mức lao động trên cơ sở khoa học, nhưng thực tiễn tiền lương dựa trên cơ sở kinh nghiệm đơn giá tiền lương. Cách tính như sau:
Nếu tổ chức sản xuất hoàn thành nhiều sản phẩm trong kỳ:
Đg = LCB x Qo
Nếu tổ hoàn thành sản phẩm trong kỳ:
Đg = LCB x To
Trong đó:
Đg : Đơn giá tiền lương sản phẩm trả theo tổ
LCB: Tiền lương cấp bậc của công nhân
Qo : Mức lương của cả tổ
To : Mức thời gian của cả tổ
Tiền lương thực tế nhận được cả tổ:
L1 = Q1 x T1
Trong đó:
L1: Tiền lương thực tế nhận được cả tổ nhận được.
Q1: Số lượng thực tế tổ hoàn thành.
T1: Mức thời gian thực tế của tổ.
Vấn đề quan trọng đặt ra với hình thức tiền lương trả theo sản phẩm là xây dựng quy chế, phương thức phân phối tiền lương đến từng người trong nhóm.
Tiền lương theo sản phẩm tập thể có tác dụng khuyến khích mỗi người lao động trong nhóm nâng cao trách nhiệm với tập thể, quan tâm kết quả cuối cùng của nhóm, khuyến khích các tổ làm việc theo mô hình tổ chức lao động tự quản. Nhưng sản phẩm của mỗi lao động không trực tiếp quyết định đến tiền lương của họ, nên ít kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân. Mặt khác chưa tính được tình hình của từng người lao động cũng như cố gắng của mỗi người nên chưa thể hiện được đầy đủ phân phối theo số lượng và chất lượng lao động.
+ Trả lương theo sản phẩm gián tiếp: Áp dụng tiền lương cho những người làm công việc phục vụ, cho hoạt động công nhân chính.
- Tiền lương của công nhân phụ được tính bằng cách nhân đơn giá tiền với lương cấp bậc của công nhân phục vụ với tỷ lệ % hoàn thành định mức sản lượng bình quân của công nhân chính.
- Hình thức tiền lương được tính bằng công thức:
Lp = LCB x TC
Trong đó:
Lp : Tiền lương của công nhân phục vụ
LCB : Mức lương phụ cấp của công nhân
TC : Tỉ lệ % hoàn thành định mức sản lượng của công nhân chính.
Cách tính tiền lương này kích thích công nhân phục vụ tốt hơn cho công nhân chính nâng cao năng suất lao động. Nhưng vì tiền lương phụ thuộc vào kết quả của công nhân chính, do đó việc trả lương chưa được chính xác, chưa được đảm bảo đúng hao phí mà công nhân phụ bỏ ra.
+ Tiền lương sản phẩm có thưởng:
Là tiền lương trả theo sản phẩm kết hợp với tiền thưởng khi công nhân thực hiện được các chỉ tiêu trên.
Trả lương theo sản phẩm có thưởng gồm:
- Phần trả theo sản phẩm cố định là số lượng sản phẩm hoàn thành.
- Phần tiền thưởng được tính dựa vào mức độ hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu (thời gian, số lượng, chất lượng)
Tiền lương sản phẩm có thưởng được tính theo công thức:
Trong đó:
L : Tiền lương sản phẩm có thưởng.
L : Tiền lương trả theo đơn giá cố định.
M : Tỉ lệ % tiền lương (tính theo lương sản phẩm với đơn giá cố định)
H: Tỉ lệ % hoàn thành kế hoạch vượt mức được tính thưởng.
Chế độ tiền lương này kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, rút ngắn thời gian hoàn thành các mức lao động. Tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất.
+ Tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến.
Là hình thức trả lương dùng bằng hai loại đơn giá.
Đơn giá cố định dùng để trả cho những sản phẩm thực tế đã hoàn thành.
Đơn giá luỹ tiến dùng để tính tiền lương cho những sản phẩm vượt định mức đơn giá cố định nhân với tỉ lệ tăng đơn giá. Tỉ lệ đánh giá được quy định.
Khi tổ chức tiền lương theo đơn giá luỹ tiến phải tuân theo nguyên tắc sau:
Xác định đúng đắn tỉ lệ tăng đơn giá tiền lương đảm bảo chi phí cố định.
Phải giảm nhiều hơn hoặc bằng mức lương tăng lên.
Số lượng sản phẩm vượt mức luỹ tiến phải tính theo kết quả cả tháng tránh tình trạng có ngày vượt định mức được hưởng lương luỹ tiến, ngày không ổn định mức hưởng lương cố định, do vậy mỗi tháng cộng lại vẫn không hoàn thành định mức.
Hình thức này áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp cần hoàn thành gấp một số công việc trong một khoảng thời gian nhất định (ví dụ để kịp giao sản phẩm cho khách hàng). Với cách trả lương này, tốc độ tăng tiền lương có thể vượt trên tốc độ tăng sản phẩm và tạo ra tình hình vượt chi quỹ lương.
Trả lương khoán:
Hình thức này áp dụng với các công việc nếu giao từng chi tiết, bộ phận sẽ không có lợi mà phải giao toàn bộ khối lượng công việc cho cả nhóm nhân viên hoàn thành trong một thời gian nhất định. Tiền lương khoán áp dụng cho công việc đơn giản, có tính chất đột xuất mà xét không có vụ lợi về mặt kinh tế khi chúng ta tính theo tiền lương sản phẩm cá nhân. Hình thức khoán gọn áp dụng cho những doanh nghiệp mà quy trình sản xuất trải qua nhiều giai đoạn công nghệ nhằm khuyến khích người công nhân quan tâm đến sản phẩm cuối cùng.
Hình thức lương khoán áp dụng trong xây dựng cơ bản, trong nông nghiệp và sửa chữa cơ khí.
Tiền lương khi nào được tính:
L 1 = Đ g x Q 1
Trong đó:
L1: Tiền lương thực tế của công nhân được nhận
Đg: Đơn giá khoán cho một sản phẩm hoặc công việc.
Q1: Số lượng sản phẩm hoàn thành.
Giống như trả lương theo sản phẩm tập thể. Sau khi nhận được tiền công do hoàn thành công việc, việc chia tiền lương cho các thành viên trong nhóm thường căn cứ vào mức lương của từng thành viên và mức độ tham gia đóng góp của người đó đối với công việc hoàn thành chung của cả nhóm cách tính tiền lương này làm cho người lao động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để tối ưu hoá quá trình sản xuất, giảm bớt thời gian lao động, hoàn thành công việc được giao khoán. Mà còn quan tâm nhắc nhở các thành viên khác tích cực trong sản xuất, hoàn thành công việc thông qua hợp đồng khoán.