Tài liệu: Năm 5.000 - 1.200 trước CN: những nền văn minh đầu tiên

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

NĂM 5.000 - 1.200 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN: NHỮNG NỀN VĂN MINH ĐẦU TIÊN v 5.000 - 12000 TRƯỚC CN - THẾ GIỚI Vào những năm 5.000 trước CN, đa số dân chúng trê
Năm 5.000 - 1.200 trước CN: những nền văn minh đầu tiên

Nội dung

NĂM 5.000 - 1.200 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN:

NHỮNG NỀN VĂN MINH ĐẦU TIÊN

v     5.000 - 12000 TRƯỚC CN - THẾ GIỚI

Vào những năm 5.000 trước CN, đa số dân chúng trên thế giới sống bằng săn bắn hoặc thu lượm lương thực. Một số ngôi làng định cư của nông dân cũng đã xuất hiện tại các vùng Trung Quốc, Ấn Độ. Thung lũng sông Nil Đông Địa Trung Hải, một số nơi bên châu Âu và miền Trung của Nam Mỹ, nhưng đa số dân chúng trên thế giới, về căn bản, vẫn là những cư dân du mục. Trên 3.000 năm sau đó, một sự thay đổi lớn đã xảy ra. Sự phát triển nông nghiệp cho phép nhiều người hơn có thể định cư trong các thị trấn và thành phố. Kết quả là những nền văn minh tiên khởi của thế giới được hình thành. Nền văn minh thứ nhất tại Sumer phát triển trong vùng đất phì nhiêu giữa những dòng sông Tigris và Euphrates. Không lâu sau đó, những người nông dân sống dọc theo bờ sông Nil xây dựng những thành phố nhỏ  và cuối cùng hội nhập với nhau vào khoảng 3.100 trước C.N để tạo thành vương quốc Ai Cập.

Một thế giới định cư. Vào những năm 1.200 trước CN, những nền văn minh lớn cũng xuất hiện ở Trung Quốc, dọc theo sông Indus và ở Hy Lạp. Mặc dầu rất khác nhau về đặc tính, những nền văn hóa này cũng có nhiều nét chung. Tất cả đều xây dựng những công trình kiến trúc to lớn và những ngôi mộ được trang trí rất tốn kém, đặc biệt là ở Ai Cập. Và tất cả đều giao thương với những người lân cận của mình. Điều đó dẫn tới việc phát triển tại Sumer một hệ thống chữ viết được nhiều người biết đến trên thế giới. Nhưng vào cuối giai đoạn này không phải mọi người đều sống trong cảnh định cư ở những vùng châu Mỹ, phần lớn châu Phi, châu Âu, và châu Á và toàn bộ châu Úc, truyền thống sống du mục vẫn liên tục không gián đoạn.

Chữ viết của người Ai Cập. Những người Ai Cập học được chữ viết từ Sumer là bắt đầu khai triển mẫu tự tượng hình riêng của họ. Các từ được cấu tạo bằng những bức tranh với những dấu hiệu thêm vào để làm cho rõ nghĩa.

v     KHOẢNG 4000 TRƯỚC CN: NHỮNG CỘNG ĐỒNG NÔNG NGHIỆP VÙNG SAHARA

Giữa khoảng 4000 trước CN và khoảng 2000 trước CN vùng Sahara ở mạn Bắc Phi không phải là một sa mạc như bây giờ: Phần lớn khu vực có một thời tiết ẩm ướt và có những vùng cỏ rộng lớn, ở đó người ta chăn thả trâu bò và súc vật. Nông nghiệp phồn thịnh và có lẽ sinh lợi và có hiệu quả không kém gì vùng nông nghiệp dọc theo hai bờ sông Nil. Rồi vào một thời điểm trước 2000 trước CN có sự thay đổi về thời tiết. Những đợt mưa thường xuyên hằng năm trở nên ngắn hơn dẫn tới kết quả là đất trở nên khó trồng trọt hơn, cho đến lúc các cộng đồng không còn có thể sống theo lối sống cũ. Nhiều nông dân dời đi nơi khác, một số về Ai Cập, một số đi xa hơn về mạn Đông Châu Á, trong khi một số khác đi sâu hơn xuống miền Nam.

v     KHOẢNG 3100 TRƯỚC CN - MENES HỢP NHẤT AI CẬP

Vùng thung lũng sông Nil là địa điểm thứ 2 trên quả đất, sau vùng Sumer, ở đó dân chúng bắt đầu tụ tập thành cộng đồng. Con sông lớn cung cấp mọi thứ cần thiết cho sự định cư: lương thực, nước, giao thông và vận chuyển. Từ khoảng 5000 trước CN những thành phố nhỏ đã mọc lên ở hai bờ sông và những kênh được đào để đưa nước vào tưới những cánh đồng. Sau nhiều thế kỷ chia cắt, hai vương quốc của Ai Cập vùng thượng và hạ thống nhất với nhau vào khoảng 3100 trước CN dưới quyền Pharaon Ménès, người đã xây thành Memphis. Hai triều đại Ai Cập kéo dài từ khoảng 3100 - 2686 trước CN. Suốt triều đại thứ 3 (tới 2612 trước CN) các vua chúa bắt đầu được chôn cất trong những Kim Tự Tháp.

Cuộc sống mai hậu ở Ai Cập cổ đại. Những người Ai Cập cổ xưa tin vào cuộc sống mai hậu và muốn cho linh hồn họ được tồn tại đời đời. Do đó họ đã tìm ra một phương pháp để duy trì người chết, bằng cách xức dầu hoặc ướp xác. Xác xức dầu được đặt trong những quan tài để bảo quản và giữ linh hồn ở lại bên trong, ban đầu chỉ có những Pharaon mới được ướp xác, nhưng khoảng 2300 trước CN quyền ưu tiên này triển khai cho tất cả những ai có khả năng thực hiện. Cũng vào thời gian này, những xác chết được đặt trong một quan tài có hai lớp, lớp trong theo hình của xác chết, lớp ngoài chỉ là một cái hộp vuông. Những Kim Tự Tháp đầu tiên được xây theo một loạt những bậc thềm biểu tượng cho một cầu thang vĩ đại cho vị Pharaon trèo lên để kết hợp với Thần Mặt trời ở trên trời. Những Kim Tự Tháp sau này tuần tự phát triển thành những cạnh bằng và thoải xõng. Quan tài của các Pharaon được đặt trong các hộp bằng đá (Salcophagi) và được chôn sâu trong lòng Kim Tự Tháp.

Ngôi mộ hoàng gia ở Giza. Những Kim Tự Tháp ở Giza được xây khoảng 2550 và 2470 trước CN. Tháp nổi tiếng nhất là của vua Khufu cao 148m và được coi là chứa 2.300.000 khối đá nhỏ.

Nghệ thuật ướp xác cổ xưa. Từ ướp xác (mummy) phát xuất từ nguồn gốc Ả Rập có nghĩa là ''giữ xác trong hố''. Tất cả những bộ phận bên trong đều được lôi ra khỏi người chết, trừ trái tim được coi là bộ phận kiểm soát tư tưởng và hành vi, cả hai thứ đều cần trong cuộc sống mai hậu. Sau đó thân xác được rửa với ngũ hương và rượu thơm và được phủ bằng một lớp muối diêm (một tác nhân làm cho khô và chống nhiễm trùng) và được đem phơi khô. Sau đó thân xác được gói trong tấm vải cùng với ngũ hương để tái tạo lại hình thể ban đầu, và được phủ một lớp nhựa trong để chống nước. Cuối cùng xác chết được bọc trong một băng vải lanh dài rồi đặt vào trong quan tài. Toàn bộ qui trình này có thể mất đến hai tháng mới xong.

v     KHOẢNG 1550 TRƯỚC CN - AHMOSE I ĐUỔI NGƯỜI HYKSOS RA KHỎI AI CẬP

Khoảng 1785 trước CN Ai Cập ở trong một tình trạng hỗn loạn với một Pharaon người Thebes đang bị các lãnh tụ khác thách thức, tiêu biểu là những người Hyksos, một sắc dân Á Đông đã lập nghiệp ở vùng châu thổ sông Nil. Họ dựng nên một triều đại Pharaon từ khoảng 1650 trước CN và thách thức những Pharaon người Thebes. Khoảng 1550 trước CN một vị vua Pharaon Thebes, Ahmose I đánh bại những người Hyksos và đuổi họ ra khỏi Ai Cập. Ahmose tiếp tục mở mang bờ cõi đế quốc xuống tận Nubia phía Nam và Canaan (Israel) ở phía Đông. Ông ta dựng lên một chính quyền vững mạnh ở Ai Cập và xây dựng những đền thờ cho các thần Ai Cập ở Thebes và các nơi khác. Vào khoảng 1353 trước CN Amenhotep IV lên ngôi. Là một nhà cải tổ tôn giáo, ông ta cố gắng thay đổi tín ngưỡng đa thần của người Ai Cập bằng niềm tin vào một thần duy thất - Thần Mặt trời: Aton. Ông ta đổi tên mình thành Akhenaton và thiết lập một thành phố Akhenaton, giữa Thebes và Memphis. Sau cái chết của ông vào khoảng 1335 trước CN việc thờ nhiều thần lại được phục hồi, và Thebes được phục hưng thành thủ đô Ai Cập.

v     KHOẢNG 1290 TRƯỚC CN  RAMESES II CỦNG CỐ LẠI QUYỀN HÀNH CỦA AI CẬP

Akhenaton bị ám ảnh bởi việc thay đổi tôn giáo cho Ai Cập đến nỗi quên cả việc cai trị, và đã có lúc tình hình trở thành một nguy cơ lớn trước đợt tấn công từ bên ngoài. Cuộc suy vong tiếp tục sau cái chết của ông, nhưng đến khoảng 1290 trước CN một Pharon mới, Rameses II, củng cố lại được quyền hành Ai Cập. Ông chiến đấu với Syria và Palestine và thách thức cả người Hittite từ Anatolia (Thổ). Khoảng 1285 trước CN lực lượng của Rameses II chiến đấu một trận kịch liệt với người Hittite dưới triều vua Muwattalis bên Syria. Trận chiến kết thúc bế tắc và vua Muwattalis tiếp tục nắm giữ quyền hành mạn Bắc Syria.

Rameses khởi đầu cho nhiều chương trình xây cất dưới triều đại của ông. Được minh họa ở đây là một trong hai đền thờ được khoét vào trong đá mà ông đã xây dựng ở Abu Simbel.

v     KHOẢNG 5000 - 1200 TRƯỚC CN - CHÂU Á

Nền văn minh đầu tiên Sumer, phát triển ở miền Tây Châu Á vào khoảng 5000 trước CN. Sau năm 3000 trước CN, những nền văn minh khác nổi lên trong vùng như Babylonia, Đế quốc Hittite, nơi khai sáng ra nghề luyện sắt, cùng với những thành phố thương mại bên bờ Đông Địa Trung Hải. Vào khoảng 2500 trước CN, Vương triều nhà Thương cai trị một nền văn minh vùng thung lũng sông Hoàng Hà (Yellow River) bên Trung Quốc.

Khoảng 5000 trước CN - Những thành phố đầu tiên được thiết lập ở Sumer. Vào khoảng 5000 trước CN nhiều nông dân định cư ở vùng đất phì nhiêu giữa sông Tigris và Euphrates miền Nam Mesopotamia (Iraq), được biết dưới tên Sumer. Họ đào những hệ thống kênh rạch toả ra từ những con sông để tưới lúa mạch, cây lanh và những cây công nghiệp khác và nuôi heo, bò và cừu. Người Sumer trao đổi lương thực thặng dư để lấy kim loại, dụng cụ và thuyền bè với những dân tộc ở xa xôi như Afghanistan và Pakistan ngày nay. Họ xây dựng các làng mạc, thị trấn rồi thành phố. Một số thành phố lớn, được coi là thành phố - quốc gia, kiểm soát được cả những vùng đất xung quanh. Thành phố - quốc gia hàng đầu từ 2700 trước CN tới 2300 trước CN là Ur.  Thành phố - quốc gia có những đền thờ. Các tư tế đền thờ trở nên có quyền lực và họ xử trí như những thủ lãnh. Một số xây dựng những Ziggurat vĩ đại, hay còn gọi là Tháp đền thờ. Từ khoảng 2330 trước CN tới 2275 trước CN Sargon, vua xứ Akkad Bắc Sumer, xây dựng một đế quốc từ Syria tới vịnh Ba Tư hợp nhất tất cả các thành phố Sumer dưới quyền kiểm soát của ông.

Chữ viết đầu tiên. Khoảng 3500 trước CN người Sumer đã phát minh ra chữ viết đầu tiên. Họ khoét những bức tranh cho các từ hay âm thanh trên những tấm biển đất sét bằng những cây bút sậy, thông thường để ghi lại những vụ làm ăn. Bút được chế tạo theo hình một “cây nêm”, vì thế chữ viết được gọi là tượng hình cây nêm (cunieform): cuneus tiếng La tinh có nghĩa là “cây nêm”. Sau một thời gian các bức tranh được vẽ nghiêng và đơn giản hoá. Chỉ 200 - 300 hình được liên tục dùng. Chúng được viết theo hàng ngang hơn là hàng dọc và được đọc từ trái qua phải.

Văn minh vùng Indus. Thung lũng sông Indus ngày nay là Pakistan rất trù phú. Những nông dân từ mãi miền Viễn Tây cũng chuyển tới đây vào khoảng 2500 trước CN. Họ đào các kênh rạch để kiểm soát và phân phối nước ngập làm cho việc trồng trọt có nhiều hiệu quả hơn. Những vùng định cư theo sông tạo thành những thành phố, những thành phố lớn nhất là ở các vùng Harrappa, Mohenjo-daro rộng trên một dặm vuông (2km2) trong vùng. Thành phố nào cũng có một cung điện được dựng lên trong có đền thờ, một nhà tắm công cộng có hệ thống sưởi ấm ở giữa, các kho thóc và các hội trường. Các thành phố vùng Indus được xây dựng theo một hệ thống các đường kẻ: các đường trong những phố chính đều song song. Đường được kẻ thẳng với những ngôi nhà có đất cao, nhiều nhà cao hai lầu. Nhà được xây bằng gạch, mái và tường có phủ lớp nhựa đường để tránh khí ẩm. Hệ thống thoát nước ở vùng Indus là tiên tiến nhất trên thế giới. Những ngôi nhà lớn có giếng cho nước uống và nước tắm rửa, và một hệ thống thoát nước. Các thành phố phồn thịnh được gần 1000 năm nhưng vào khoảng 1700 trước CN đã bị các trận động đất và các cơn lũ lụt tàn phá. Dân Kassite vùng Tây Bắc sau đó xâm chiếm và để cho các thành phố trở nên tàn lụi hơn.

v     KHOẢNG 1790 TRƯỚC CN - HAMMURABI CAI TRỊ BABYLON

Sau 2000 trước CN những người sống trong và xung quanh thành Babylon (Nam Baghdad) vùng Mesopotamia trở nên hùng mạnh. Vị vua vĩ đại nhất Babylon là Hammurabi, người thứ sáu trong triều đại cai trị của họ, cai trị từ khoảng 1790 trước CN đến khoảng 1750 trước CN. Ông chinh phục đất Sumer và Akkad và sát nhập chúng vào đế quốc Mesopotamia hùng mạnh, mà thủ đô là thành Babylon được nới rộng. Ông cai trị giỏi, đưa ra các cải cách xã hội và chính thức đặt ra một bộ luật. Luật được khắc trên các cột đá hay các phiến đất sét, và luật Hammurabi là một trong những bộ luật tồn tại lâu đời nhất của thế giới. Một số luật có vẻ ngặt nghèo, nhưng chúng rất công bình, và từ đó ta thấy rõ ràng là Hammurabi cương quyết không cho kẻ mạnh áp bức kẻ yếu.

v     KHOẢNG 1595 TRƯỚC CN - NHỮNG NGƯỜI HITTITE PHÁ HỦY THÀNH BABYLON

Người Hittite lập nghiệp ở Thổ trước 2000 trước CN quanh một thủ đô ở Hattushash. Một trong những vị vua của họ, Hattushila I (1650 - 1620 trước CN), xâm chiếm Syria. Người kế nghiệp ông, Mursilis I tiến sâu về phía Nam và tấn công san bằng thành Babylon (khoảng 1595 trước CN), nhưng sau đó không lâu ông bị giết, và công trình chinh phục của ông cũng bị mất. Vào khoảng 1380 trước CN người Hittite được Suppiluliumas, vị vua vĩ đại nhất cai trị. Ông xây dựng một vương quốc rộng lớn. Ông xâm chiếm Syria và kiểm soát hầu hết vùng Canaan (Do Thái ngày nay). Người kế nghiệp dòng họ của ông, Muwattalis, giữ nguyên vị trí bất khả chinh phục trong trận chiến ác liệt với người Ai Cập Pharaon Rameses II ở Kadesh (khoảng 1300 trước CN). Quyền lực người Hittite sụp đổ dưới những cuộc tàn sát của dân vùng biển Aegean khoảng 1200 trước CN.

Nghề làm đồ sắt. Không chắc chắn là ở đâu và khi nào người ta bắt đầu sản xuất sắt nhưng nền văn minh sử dụng nó trên một phạm vi rộng lớn là Đế quốc Hittite, rất có thể từ khoảng 1500 trước CN. Sắt được làm từ những quặng sắt được khai thác và nung bằng than theo một quy trình nung, làm nguội và nên đến độ sẵn sàng để làm dụng cụ vũ khí. Những người Hittite giữ bí mật kỹ thuật làm sắt, và việc sử dụng kim loại chỉ phổ biến rộng rãi vài thế kỷ sau. Các thợ săn cũng sản xuất thép làm từ sắt và than.

v     KHOẢNG 1595 TRƯỚC CN – VƯƠNG TRIỀU NHÀ THƯƠNG Ở TRUNG QUỐC

Một hình thức văn minh cổ đại nổi lên ở Trung Quốc, có lẽ vào khoảng 2200 trước CN, được gọi là văn minh nhà Hạ, gọi theo tên triều đại của các vua có thể đã cai trị vào thời gian đó. Nó tập trung vào thung lũng sông Hoàng Hà. Các nhà khảo cổ đã nhận ra người Hạ sử dụng các dụng cụ bằng đá. Những vị vua triều nhà Thương đặt nền móng An Dương ngày nay từ khoảng 1700 trước CN, nền văn minh mà họ làm chủ hưng thịnh vào khoảng 1500 trước CN. Người dân Trung Quốc học cách sử dụng đồng, biến nó thành những bình lọ thờ cúng, đưa nó vào các cỗ xe mới được phát minh, vào vũ khí cho chiến trận. Người nhà Thương cũng sản xuất tơ lụa và một hệ thống chữ viết tinh vi. Các kiến trúc của họ, bao gồm các đền thờ, được làm bằng đất nén, gỗ và gạch bùn. Người Thương thờ tổ tiên các vị vua như những vị thần của họ. Những ngôi mộ bao gồm cả những kho tàng chôn chung với người chết, những hài cốt của người, vật tế thần, như tháp tùng vị vua đã chết. Nhà Chu, một dòng tộc hiếu chiến, tước đoạt quyền hành của nhà Thương từ 1046 trước CN.

v     NHỮNG NĂM 1200 TRƯỚC CN  NGƯỜI DO THÁI RỜI KHỎI AI CẬP

Người Do Thái là những người nông dân du mục hay người làm thuê. Một số định cư ở Canaan vào khoảng 1400 trước CN. Trong thời gian cai trị của vua Ai Cập Rameses II (khoảng 1304-1237 trước CN) nhiều người ngoại quốc Ai Cập di cư sang Canaan, trong số họ có những người Do Thái. Một câu chuyện trong thánh lễ kể lại những tình huống cuộc ra đi của những người Do Thái mặc dầu không có những chứng tích khảo cổ nào chứng minh được. Câu chuyện kể những người Ai Cập gốc Do Thái bị biến thành nô lệ và bị bạc đãi như thế nào: Một thủ lãnh Do Thái, ông Moses, yêu cầu Rameses cho ông ta đưa dân của ông ta về Canaan. Cuối cùng Ramesses nhượng bộ và người Do Thái bắt đầu một cuộc hành trình được biết dưới cái tên Xuất Du, xuyên qua sa mạc Sinai. Sau nhiều năm phiêu lạc họ đến Canaan và được người kế vị Moses dẫn dắt, là ông Joshua. Ông đã chinh phục được Canaan.

v     5000 - 1200 TRƯỚC CN - CHÂU ÂU

Nghề đúc kim hoàn bắt đầu ở Châu Âu vào khoảng 5000 trước CN. Nông nghiệp bắt đầu phồn thịnh, và những bức tượng bằng đá lớn đã được dựng lên ở nhiều nơi trên lục địa từ rất lâu trước khi những Kim Tự Tháp được xây dựng ở Ai Cập. Dân chúng bắt đầu sử dụng dụng cụ bằng đồng ở đảo Crete khoảng 3000 trước CN và trước khoảng 2000 năm trước CN. Kỹ thuật đồ đồng đã trải rộng về phía Tây Châu Âu cho tới các hòn đảo của người Anh. Nơi đây đã từng rất phồn thịnh hàng trăm năm trước khi bị động đất làm suy yếu, và sự nghiệp của nền văn minh Mycenean phát xuất từ vùng đất liền Hy Lạp.

v     KHOẢNG 3200 TRƯỚC CN - MỘ CÓ LỐI XUỐNG Ở VÙNG NEWGRANGE

Những sáng chế phi thường nhất của các cộng đồng thời đại. Đá là những ngôi mộ được đẽo từ những tảng đá khổng lồ. Chúng rất phổ biến ở những nơi mà người ta tìm thấy những tảng đá thích hợp, và mục đích là che chỗ người chết. Ngôi mộ có lối vào ở vùng Newgrange ở Ireland, được xây dựng vào khoảng 3200 trước CN, không lâu sau ngôi mộ có phòng chứa ở Maes Howe tại Orkney, Scotland. Những ngôi mộ này có độ tuổi cao hơn những Kim Tự tháp đầu tiên ở Ai Cập khoảng 600 năm. Chôn cất trong những ngôi mộ có lối xuống là phổ biến. nhiều nơi bên châu Âu. Những địa danh như Jordhoj ở Đan Mạch (khoảng 3000 trước CN). Loa Millares ở Tây Ban Nha (khoảng 3300-3000 trước CN) và Mang Karnaplaye bên Pháp (khoảng 3500-3300 trước CN) thuộc số những địa danh quan trọng nhất.

v     KHOẢNG 3000 TRƯỚC CN - NGÔI LÀNG SKARA BRAE

Skara Brae, một ngôi làng thời đại đồ đá mới ở Orkney, nằm cạnh bờ biển Scotland, được xây dựng vào khoảng năm 3000 trước CN, tình cờ được khám phá vào năm 1850 sau CN sau một trận bão vĩ đại đã làm cho một lượng cát khổng lồ trôi dạt đi khỏi bờ biển nơi  mà trải qua bao thế kỷ những kiến trúc xây dựng bị lấp vùi. Ngôi làng có khoảng mười ngôi nhà nhỏ làm bằng những hòn đá ở địa phương. Những tảng đá phẳng được làm sàn nhà. Đồ dùng có chân bằng đá, hoặc được khoét sâu vào trong tường. Dụng cụ cũng được làm bằng đá hoặc đôi khi bằng xương. Không có gì bằng gỗ bởi vùng Orkney không có cây.

Những tảng đá đứng thẳng. Từ khoảng 4000 trước CN những người thuộc thời đại Đồ Đá Mới và Đồ Đồng Cổ mạn Tây châu Âu, đặc biệt vùng Tây Bắc nước Pháp và Anh xây dựng những vòng tròn và những đại lộ khổng lồ bằng nhưng tảng đá đứng lớn gọi là cự thạch. Những tảng cự thạch này được đặt khối riêng rẽ thẳng đứng, hoặc hai khối thẳng đứng với một khối khác nằm vắt ngang trên đỉnh. Những hòn đá được đặt theo khoảng cách của các trù tính toán học và thiên văn học nhưng không ai biết rõ những trù tính của các vòng và đại lộ này là gì. Chúng cũng có thể là nơi hội họp của những cộng đồng nông nghiệp nằm rải rác khắp nơi. Chúng cũng có thể có những mục tiêu tôn giáo. Cũng có thể đó là nơi diễn ra các nghi thức chôn cất, cúng vái, mừng những ngày lễ hội, hoặc các nghi lễ bói toán do các thầy tế lễ hay những hiền nhân thực hiện nhằm tìm hiểu tương lai và những nguyên nhân của tai hoạ. Điều chắc chắn nhất là những vật tế lễ của cả người lẫn vật đã diễn ra trong những vòng huyền bí này.

 Gò mộ Tây Kennet. Gò mộ phía Tây Kennet ở Wiltshite, Anh quốc, là một trong những gò mộ gây ấn tượng nhất ở châu Âu. Những tảng đá khổng lồ được dùng làm tường và mái, ngày nay vẫn còn trông thấy. Hai đường mương được đào hai bên để lấy đất cho gò mả dựng lên ở giữa. Những ngọn gò dài trên 100m, ước tính phải mất 15.700 giờ mới làm xong. Có thể gò Tây Kennet được trù định để dùng nhiều lần làm nơi chôn cất cho cả nhóm hơn là cho những cá nhân. Trong mộ Tây Kennet khi khai quật vào năm 1950 còn tìm thấy xương của 46 người.

Những nền văn minh cung điện. Nền văn minh Minoan hưng thịnh khoảng 3000 - 1450 trước CN trên đảo Crete ở Địa Trung Hải. Nó lấy tên từ một vị vua của truyền thuyết dân tộc Crete, vua Minos. Người Minoan trở nên giàu có nhờ buôn bán xuyên qua vùng Đông Địa Trung hải. Họ sử dụng sự giàu có của mình để phát triển các thành thị và các cảng, sau đó họ xây dựng những cung điện huy hoàng. Nền văn minh Minoan đột nhiên xuống dốc sau 1500 trước CN. Vào khoảng 1450 trước CN những người Myceneans từ đồng bằng Argos ở mạn Đông Hy Lạp xâm chiếm và lập nghiệp ở Crete. Họ chiếm và tiếp tục phát triển thêm ngành thương mại, các cung điện và nghệ thuật của người Minoan. Những công trình nổi tiếng nhất của riêng họ là những ngôi mộ mênh mông của hoàng gia và đền đài Mycenae. Nền văn minh sụp đổ vào thế kỷ thứ 12 trước CN.

v     5000 - 1200 TRƯỚC CN - CHÂU MỸ

Việc trồng trọt cây lương thực vào đầu giai đoạn này phát triển mạnh ở Mêhico, và những khu định cư bắt đầu xuất hiện ở mạn Tây Nam khu vực Bắc Mỹ. Sau  này các nhóm định cư cũng xuất hiện ở những vùng cực Bắc của Canada và những hòn đảo quanh vùng eo biển Bering. Nghề đánh cá là kỹ nghệ bông phát triển tốt đẹp dọc theo bờ biển mạn Nam Mỹ. Trong đất liền ngô được trồng và trở thành món ăn chính khắp vùng Mehico và Trung Mỹ. Vào khoảng những thế kỷ cuối cùng của thời kỳ này, những trung tâm tế tự được xây dựng ở Pêru và Mehico.

v     KHOẢNG 2000 TRƯỚC CN  NGƯỜI INNUIT MỞ THUỘC ĐỊA TRÊN VÙNG CỰC

Một số dân tộc tiền sử có lẽ đã hiện hữu từ khoảng 8500 trước CN. Những nền văn hóa cao hơn xuất hiện vào khoảng 2000 Trước CN. Một dòng tộc trong họ dân tộc Bắc cực có dụng cụ bé nhỏ, có thể đã đi xuống từ Siberia của Đông Bắc nước Nga. Họ vượt từ châu Á qua châu Mỹ qua eo biển Bering khi đó còn là một cây cầu đất của kỷ nguyên cuối cùng của thời đại Băng giá. Họ định cư mãi tận Groenland vào khoảng 2000 trước CN và sau đó chia thành những nhóm văn hoá nhỏ được biết dưới cái tên Innuit, nhưng sau này được người châu Âu gom lại dưới danh từ Eskimo. Khí hậu vùng cực thời gian tối nhiều hơn ban ngày. Người Innuit sống bằng nghề săn thú chẳng hạn như tuần lộc, cá voi và sư tử biển.

v     KHOẢNG 2000 TRƯỚC CN - NHỮNG VÙNG ĐỊNH CƯ NGƯỜI ANDES PHÁT TRIỂN Ở PÊRU

Từ khoảng 6000 trước CN đã có những người đi săn và hái lượm ở vùng Andes Nam Mỹ. Vào khoảng 3500 trước CN có nhiều ngôi làng phồn vinh trên bờ biển Pêru nơi mà nền kỹ thuật chính là đánh cá. Tiến sâu vào trong đất liền là những cộng đồng khác thực tập trồng trọt, họ trồng bông sau là bắp và khai thác đá từ những ngọn núi Andes để xây dựng và chế tạo trang sức. Hệ thống thủy lợi khôn khéo đã làm cho nhiều vùng rộng lớn hơn có thể trồng trọt được, và vào khoảng 2000 trước CN có nhiều khu định cư khá lớn có những kiến trúc trọng yếu những trung tâm cho các nghi lễ tôn giáo hoặc những công trình công cộng quan trọng. Một Kim Tự Tháp vĩ đại được xây dựng ở EI Paraiso, gần Lina, vào khoảng 1800 trước CN, từ những tảng đá lấy ở các quả đồi lân cận.




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/268-26-633348826378610343/Lich-su-the-gioi/Nam-5000---1200-truoc-CN-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận