Tài liệu: Ngân hàng đầu tư trong quá trình huy động vốn và sử dụng cho vốn đầu tư phát triển

Tài liệu
Nguyễn Việt Cường

Tóm tắt nội dung

Ngân hàng đầu tư trong quá trình huy động vốn và sử dụng cho vốn đầu tư phát triển
Ngân hàng đầu tư trong quá trình huy động vốn và sử dụng cho vốn đầu tư phát triển

Nội dung

Vai trò và định hướng của ngân hàng đầu tư trong công cuộc đầu tư phát triển kinh tế .

Vai trò của ngân hàng đầu tư.

Ngân hàng đầu tư là một thể chế tài chính nhằm thu hút, tập trung các nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Mục tiêu của ngân hàng không phải chỉ là lợi nhuận mà chủ yếu vẫn là :” hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế “. Từ những đặc điểm này ngân hàng đầu tư ở Việt Nam và các ngân hàng đầu tư ở các nước khác có một số nét khác biệt cơ bản như: Trong hoạt động huy động vốn: Được nhận, vay từ các nguồn tài trợ của chính phủ, các tổ chức nước ngoài, ngân hàng ĐTTW ... Hoạt động sử dụng vốn cũng chủ yếu tập trung vào các dự án kinh tế, kỹ thuật có tầm chiến lược, then chốt của quốc gia, chủ yếu là các lĩnh vực mà tư nhân không đủ sức đầu tư như: Giao thông, năng lượng, xây dựng thông tin...

Vấn đề đặt ra là ngân hàng đầu tư có nên thụ động dựa vào các nguồn tài trợ từ ngân sách và các tổ chức quốc tế hay chủ động mở rộng hoạt động tìm cách tạo nguồn vốn cho mình. Ngoài ra, trong hoạt động sủ dụng vốn ngân hàng đầu tư cần phải chủ động nâng cao nghiệp vụ, sức cạnh tranh và uy tín để thực hiện chiến lược phục vụ cho đầu tư phát triển nền kinh tế ngày càng hiệu quả hơn.

Định hướng của ngân hàng đầu tư:

- Đối với việc huy động vốn cho đầu tư phát triển:

Ngân hàng đầu tư và phát triển chủ trương coi khâu tạo vốn là khâu mở đường, tạo ra một nguồn vốn vững chắc cả VNĐ và ngoại tệ, Đa dạng các hình thức, biện pháp, các kênh huy động từ mọi nguồn và xác định “ nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng ”. Với định hướng không ngừng tăng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn để phục vụ đầu tư phát triển. Thông qua huy động dưới các hình thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và tiền tiết kiệm có thời hạn dài. Mặt khác, tiếp tục tăng trưởng nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, khai thác triệt để nguồn vốn nước ngoài thông qua chức năng ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ để tiếp nhận ngày càng nhiều vốn từ các nguồn tài trợ, cộng tác đầu tư từ các quỹ, các tổ chức quốc tế, các chính phủ và phi chính phủ cho đầu tư phát triển.

- Đối với hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển:

Ngân hàng đầu tư phát triển coi việc phục vụ trong sự nghiệp đầu tư phát triển là một định hướng chính thể hiện vai trò ngân hàng đầu tư của mình. Trong hoạt động cho vay đầu tư ngân hàng chú trọng quá trình tìm chọn dự án hiệu quả, thực hiện tốt công tác thẩm định và ; quản lý dự án sau khi cho vay cũng như thực hiện công tác tư vấn đầu tư giúp các chủ đầu tư hoạt động tốt nhằm đảm bảo nguồn vốn cho vay của Ngân hàng.

Như vậy định hướng nhìn chung rất rõ ràng, cái khó hiện nay là các bước đi và giải pháp cụ thể . Để có được những giải pháp hữu hiệu cần phải có sự nghiên cứu hệ thống hoá có lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều năm để phục vụ tốt hơn cho đầu tư phát triển.

Hoạt động huy động vốn cho đầu tư phát triển ở Ngân hàng đầu tư phát triển.

Sự cần thiết của công tác huy động vốn ở Ngân hàng đầu tư & phát triển.

Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ chốt của Ngân hàng đảm bảo cho ngân hàng có thể tồn tại và thực hiện chức năng của một trung gian tài chính trong nền kinh tế, bởi chức năng hoạt động chủ yếu của ngân hàng là “ đi vay để cho vay ”. Như chúng ta đã biết, một ngân hàng muốn thành lập phải có đủ vốn ban đầu nhất định do ngân hàng nhà nước quy định. Nhưng số vốn tự có chiếm khoảng 10% vốn hoạt động. Do vậy huy động vốn là điều kiện cần cho hoạt động của ngân hàng.

Đối với ngân hàng đầu tư kể từ khi thực hiện chức năng như một ngân hàng thương mại hoạt động chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực đầu tư phát triển thì để có vốn cho vay các dự án đầu tư đòi hỏi Ngân hàng phải huy động được vốn. Phần vốn tự có của Ngân hàng chỉ đảm bảo năng lực pháp lý và năng lực thị trường cho hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Pháp lệnh ngân hàng quy định một ngân hàng được phép huy động một lượng vốn tối đa bằng 20 lần vốn tự có của mình.

Các nguồn vốn ở Ngân hàng đầu tư & phát triển cho đầu tư phát triển :

Nguồn vốn huy động của NH bao gồm : Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Ngân hàng để có thể đóng góp vào hoạt động đầu tư phát triển thì lượng vốn huy động đòi hỏi phải là vốn trung và dài hạn (hay có thời hạn trên 1 năm). Nguồn vốn ngắn hạn chỉ có vai trò là vốn lưu động đảm bảo các khoản cho vay ngắn hạn, và chỉ được dùng một phần nhỏ để cho vay dài hạn khi lượng vốn ngắn hạn đủ lớn và ổn định.

Theo quan điểm của các nhà kinh tế thì các nguồn vốn sau đây ở Ngân hàng mới có đóng góp chính vào đầu tư phát triển.

+Các khoản tiền tiết kiệm và tiền gửi có thời hạn đến 1 năm.

+Các kỳ phiếu, trái phiếu có thời hạn dài, phát hành trên thị trường trong nước và quốc tế.

+Các khoản đi vay trung hạn và dài hạn của các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài.

+Các khoản thu nợ của các dự án cũ.

+ Một phần huy động ngắn hạn có thể cho vay trung và dài hạn.

+ Các khoản thu nhập dành cho cho vay đầu tư phát triển khác(lợi nhuận,tiền thu bảo lãnh...)

Như vậy trên cơ sở các nguồn vốn này để Ngân hàng đầu tư có thể huy động được vốn cho đầu tư phát triển ta phải có được những giải pháp để phát triển các nguồn vốn này.

Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển của Ngân hàng.

Nhằm đánh giá hiệu quả huy động vốn cho đầu tư phát triển( chủ yếu là vốn trung và dài hạn ) tại Ngân hàng thì cần có các chỉ tiêu. Sau đây là các chỉ tiêu chính phản ánh hiệu quả công tác này:

Chỉ tiêu 1. Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng ổn định:

-Vốn huy động cho đầu tư ( chủ yếu là trung và dài hạn ) có sự tăng trưởng ổn  73;ịnh về mặt số lượng. Nguồn vốn tăng đều qua các năm ( vốn năm sau lớn hơn vốn năm trước ), thoả mãn nhu cầu tín dụng đầu tư.

-Tuy nhiên, nguồn vốn này phải ổn định về mặt thời gian ( đảm bảo tránh rủi ro về mặt thời gian ) .Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn cho đầu tư nhưng không ổn định thường xuyên, khối lượng vốn dành cho đầu tư, cho vay sẽ không lớn nhi đó ngân hàng thường xuyên đối đầu với vấn đề thanh toán, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Do đó, hiệu quả huy động vốn sẽ không cao.

Chỉ tiêu 2. Chi phí huy động:

Chi phí huy động được đánh giá qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân, lãi suất huy động từng nguồn, chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra, đồng thời cũng thông qua chi phí phát hành. Nếu ngân hàng giảm chi phí huy động bằng cách hạ lãi suất huy động thì việc huy động vốn sẽ rất khó khăn. Do vậy khó có thể thực hiện. Ngược lại nếu lãi suất huy động càng cao thì lãi suất cho vay càng cao gây khó khăn cho người vay tiền và có thể gây ứ đọng vốn cho Ngân hàng, khi đó ngân hàng cần phải trả lãi cho người gửi tiền trong khi khoản vốn ứ đọng không sinh lãi.

Vì vậy ngoài việc tăng giảm lãi suất để có lợi cho người gửi tiền và người vay tiền có thể giảm chi phí khác như : Chi phí in ấn phát hành, chi phí quảng cáo, tiếp thị, trả lương cán bộ huy động, thuê địa điểm huy động ...

Chỉ tiêu 3 : Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

Chỉ tiêu này được đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động và nhu cầu vay vốn vốn đầu tư phát triển ( chủ yếu là vốn trung dài hạn ) và các nhu cầu khác. Từ đó xác định nguồn vốn có thể huy động được là bao nhiêu và nguồn vốn cần phải huy động thêm là bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu đó.

Để đạt đựơc mục tiêu này, Ngân hàng phải đặt ra cơ cấu huy động vốn trung và dài hạn một cách hợp lý ( kỳ phiếu bao nhiêu ? trái phiếu lấy bao nhiêu?... ).

Để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn đồng thời cũng đảm bảo cho ngân hàng huy động được nguồn vốn này với chi phí thấp nhất có thể.

* Chỉ tiêu khác : Ngoài các chỉ tiêu trên hiệu quả công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển ở NH đầu tư còn được phản ánh qua các chỉ tiêu sau:

-Thời gian, mệnh giá huy động vốn cho đầu tư hợp lý.

-Mức độ thuận tiện cho khách hàng : Đánh giá qua các thủ tục nhận tiền và làm các dịch vụ kèm theo.

-Thời gian hoàn thành số lượng vốn so với quy định.

-Số vốn bị rút trước hạn, hệ số sử dụng vốn.

Tóm lại, khi đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn nói chung và huy động vốn cho đầu tư phát triển nói riêng thì một chỉ tiêu không thể phản ánh đầy đủ mà phải kết hợp nhiều chỉ tiêu đánh giá đúng hiệu quả sử dụng vốn.

Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình huy động vốn.

Nhân tố chủ quan:

  • Các hình thức huy động vốn: Đây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tình hình huy động vốn của ngân hàng. Hình thức huy động vốn của ngân hàng càng phong phú thì khả năng đáp ứng nhu cầu gửi tiền của dân cư xẽ tăng và vốn ngân hàng huy động được xẽ nhiều hơn.
  • Chính sách lãi xuất cạnh tranh: lãi suất là yếu tố quan trọng khiến hành động gửi tiền của dân chúng và ngân hàng, hay gửi từ ngân hàng này sang ngân hàng khác hoặc chuyển từ tiết kiệm sang đầu tư do vậy lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến huy động vốn của ngân hàng.
  • Chính sách khách hàng: Nếu ngân hàng có chính sách khách hà ng tốt thì khách hàng xẽ gửi tiền vào ngân hàng xẽ càng cao và ngược lại.
  • Công tác cân đối dữa huy động và cho vay: Chiến lược sử dụng vốn đúng đắn và phù hợp còn phù thuộc vào chiến lược sử dụng vốn nếu sử dụng vốn không hiệu quả thì ngân hàng cũng xẽ hạn chế khả năng huy động vốnvà ngược lại.
  • Công nghệ ngân hàng: Trong cạnh tranh NH không ngừng cải tiến công nghệ, bởi lẽ các dịch vụ đặc biệt về chuyên môn NH xẽ đa dạng đổi mới ngày càng tốt hơn đáp ứng nhu câù khách hàng.
  • Chính sách cán bộ: Một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn được đặt đúng chỗ , luôn tạo nền tảng thành công của một tổ chức. Nói chung người ta muốn giao dịch kinh doanh với một hãng có bề dày kinh nghiệm và có đội ngũ cán bộ công nhân viên lịch thiệp và tận tình.
  • Chính sách quảng cáo: Không thể phủ nhận vai trò to lớn của ngành quảng cáo hiện nay. Ngân hàng nếu làm tốt công tác nay thì có khả năng huy động được nhiều vốn hơn.

Nhân tố khách quan:

  • Nhân tố tiết kiệm của nền kinh tế: Nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn của dân cư, tổ chức kinh tế, ... do vậy nếu các đơn vị này có tỷ lệ tiết kiệm cao thì nguồn vốn huy động được xẽ cao.
  • Nhân tố thu nhập của dân cư: Nếu thu nhập của dân cư càng cao thì khả năng có thể tiết kiệm càng cao và khi đó họ có tiền gửi vào các tổ chức tài chính và mua các giấy tờ có giá sẽ càng cao và ngược lại.
  • Nhân tố tâm lí tiêu dùng: Tiết kiệm và tiêu dùng là hai nhân tố đối lập nhau nên tiêu dùng tăng thì tiết kiêm giảm và ngược lại . Do vậy nếu tâm lí thích tiêu dùng của dân cư tăng thì tiền gửi vào ngân hàng xẽ giảm.
  • Môi trường pháp lí: Nếu môi trường pháp lí ổn định cụ thể là cơ sở pháp lí cho hoạt động của ngân hàng dược đảm bảo thì người dân xẽ an tâm gửi tiền vào ngân hàng...

Hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư phát triển.

Vai trò của hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư phát triển.

Trong điều kiện nền kinh tế đang gặp phải nhiều vấn đề khó khăn như về vốn cho đầu tư của các dự án và các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao chất lượng của sử dụng vốn đối với các dự án và sử dụng vốn đầu tư của các doanh ngiệp đang đòi hỏi cấp bách. Để cung cấp vốn cho các dự án này và các doanh nghiệp thì ngân hàng đầu tư có một vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho các đơn vị này nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án và các doanh nghiệp mặt khác hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng cũng giúp cho bản thân ngân hàng có thể hoạt động được bởi hoạt động của ngân hàng là đi vay để cho vay.

Tóm lại, hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc cung cáp vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế mặt khác hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng cũng góp phàn cho việc hoạt động của các doanh nghiệp và các dự án đầu tư hiệu quả hơn bởi khi tài trợ vốn cho các doanh nghiệp và các dự án ngân hàng đã thực hiện rất kĩ khâu thẩm định, quản lí vốn vay để đảm bảo cho dự án hoạt động hiệu quả.

Các loại hình cho vay và đặc điểm của hoạt động của hoạt động cho vay vốn dầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư.

Các loại hình cho vay của NH.

Ngân hàng có thể cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau sau đây:

* Theo mục đích sử dụng :

-Cho vay bất động tài sản.

-Cho vay công nghiệp và thương nghiệp.

-Cho vay nông nghiệp.

-Cho vay tiêu dùng.

* Theo mức độ tín nhiệm của khách hàng :

-Cho vay có bảo đảm.

-Cho vay không bảo đảm.

* Theo thời hạn cho vay.

-Cho vay ngắn hạn : Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm, thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cá nhân.

-Cho vay trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trên 1 năm và dưới 5 năm. Loại cho vay này thường được dùng để mua sắm tài sản cố định, mở rộng hoặc xây dựng công trình nhỏ.

-Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm được sử dụng để cấp vốn xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.

Đối với đầu tư phát triển thì hoạt động cho vay trung hạn và dài hạn mới có tác dụng chủ yếu. Do vậy để tăng cường khả năng sử dụng vốn cho đầu tư phát triển chủ yếu quan tâm đến 2 nguồn này.

Đặc điểm khác biệt của hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển so với cho vay ngắn hạn.

Sự khác biệt của hoạt động cho vay đầu tư với cho vay ngắn hạn được thể hiện qua các đặc điểm sau:

-Về thời hạn cho vay : Cho vay ngắn hạn có thời hạn dưới 1 năm, cho vay đầu tư thường có thời hạn dài hơn ít nhất là trên 1 năm.

-Về độ rủi ro : Với thời hạn cho vay dài hạn nên hoạt động cho vay đầu tư có độ rủi ro cao hơn cho vay ngắn hạn.

-Về lãi suất: Do thời gian vay dài độ rủi ro của hoạt dộng cho vay đầu tư có độ rủi ro cao hơn nên lãi suất của hoạt động cho vay đầu tư cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn.

-Về mục đích: Hoạt động cho vay đầu tư dùng để đầu tư mở rộng sản suất mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng... nói khác hơn là để đầu tư vào những dự án chưa thể sinh lời trong thời gian ngắn. Còn mục đích của vay ngắn hạn là để phục vụ chỉ tiêu, mua nguyên vật liệu, trả lương...tức là đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn hạn.

-Nguồn trả nợ : Nguồn trả nợ của hoạt động cho vay đầu tư là nguồn từ khấu hao và lợi nhuận để dành trước khi bước vào giai đoạn lạc hậu về công nghệ. Còn nguồn để trả nợ cho vay ngắn hạn là nguồn từ vốn lưu động.

Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển.

Nhân tố chủ quan:

Trong thực tế quá trình hoạt động của Ngân hàng, chúng ta thấy trong cùng một thời gian, cùng một thị trường nhưng có những ngân hàng chất lượng cao tổn thất ít. Nhưng cũng có những ngân hàng gặp nhiều khó khăn, tổn thất cho vay lớn. Như vậy nhân tố cơ bản quyết định đến chất lượng cho vay chủ yếu ngay bên trong ngân hàng. Chúng ta xem xét một số nhân tố chủ yếu sau:

Công tác thẩm định dự án vay vốn đầu tư phát triển:

Ngân hàng với tư cách “ bà đỡ “ về mặt tài chính cho các doanh nghiệp và dự án đầu tư, thường xuyên thực hiện công tác thẩm định để ngoài việc đánh giá hiệu quả dự án còn nhằm đảm bảo cho sự an toàn cho các nguồn vốn ngân hàng tài trợ cho doanh nghiệp và các dự án.

Thẩm định là một khâu quan trọng nhất trong quy trình cho các dự án đầu tư của Ngân hàng. Làm tốt công tác thẩm định sẽ góp phần quyết định trong việc nâng cao hiệu quả vốn vay, giảm rủi ro của ngân hàng, góp phần thúc đẩy sản suất phát triển.

Thật vậy, công tác thẩm định chính là xem xét, đánh giá các yếu tố về tư cách pháp l 53; của người vay, năng lực tài chính của người vay, và xem xét tính khả thi của dự án vay vốn. Qua đó ngân hàng có được những nét cơ bản về khách hàng vay vốn và dự án vay vốn từ đó có được các kết quả để quyết định cho vay và nâng cao được hiệu quả vay vốn...

Có thể khái quát công tác thẩm định dự án vay vốn đầu tư phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển tập trung vào các vấn đề như sau:

* Ngân hàng thẩm định tư cách pháp lí của đơn vị vay vốn.

  • Người vay có đủ năng lực pháp lí theo quy định trong quan hệ vay vốn của ngân hàng hay không.
  • Người vay có thuộc đối tượng vay vốn theo quy định hiện hành của các chế độ, thể lệ cho vay không.
  • Tư cách của người đứng ra vay vốn: Khả năng quản lí, trình độ học vấn...
  • Uy tín của đơn vị vay vốn : Chất lượng, giá cả hàng hoá, khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm trên thị trường, các quan hệ kinh tế tài chính, vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng và các ngân hàng.

* Tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn:

Đánh giá chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp của đơn vị vay vốn nhằm xác định sức mạnh tài chính. Khả năng độc lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và khả năng trả nợ của người vay. Trong phân tích tài chính doanh người ta thường áp dụng phương pháp tỷ lệ bởi ưu điểm của nó là.

+ Việc tính toán các chỉ tiêu là tương đối dễ dàng, có thể lập trình cho máy tính để tính một loạt các chỉ tiêu một cách nhanh chóng qua đó rút ngắn thời gian thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp.

+ Các chỉ tiêu có thể được tính theo từng năm hoặc từng giai đoạn. Do đó nó có thể so sánh đối chiếu với nhau để thấy được sự thay đổi theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực cũng như su hướng trong tương lai.

+ Phương pháp này chủ yếu dựa trên các báo cáo tài chính, Đây là nguồn thông tin sẵn có mà hầu như tất cả các doanh nghiệp đều có. Nếu các báo cáo tài chính có độ chính xác cao thì thì kết quả tính toán theo phương pháp này có thể chấp nhận được.

Tuy vậy phương pháp này đòi hỏi phải đề ra các ngưỡng, các định mức làm cơ sở để so sánh các giá trị tỷ lệ tính được của doanh nghiệp làm tham chiếu. Các tỷ lệ dùng để tính toán thường là 4 nhóm chỉ tiêu sau.

  • Tỷ lệ khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ của doanh nghiệp.

+ Tỷ lệ thanh toán hiện hành: Cho biết khả năng thanh toán của các khoản nợ thường xuyên.

Tài sản lưu động

Khả năng thanh toán hiện hành =

Nợ ngắn hạn.

( Hệ số này nên lớn hơn hoặc bằng 1)

Tài sản lưu động có

+ Tỷ lệ:

Tài sản lưu động nợ

Thông thường tỷ lệ này bằng 2/1 hoặc 4/1 thì đảm bảo tính khả thi.

- Tỷ lệ khả năng cân vốn: Đo lường phần vốn góp của chủ sở hữu doanh nghiệp.

+ Tỷ lệ nợ trong tổng tài sản : Xác định nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp đối với chủ nợ trong việc góp vốn vào dự án.

Tổng số nợ

Hệ số nợ =

Tổng tài sản

Đây là tỷ lệ mà ngân hàng rất quan tâm vì tỷ lệ nợ cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ gảm sút . Thông thường tỷ lệ nợ này 73ae không quá 50%.

+ Tổng tài sản nợ trên tổng vốn sở hữu: Xác định khả năng trả nợ của doanh nghiệp bằng vốn chủ sở hữu.

- Tỷ lệ khả năng hoạt động: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của các đơn vị vay vốn.

+ Hiệu xuất sử dụng tài sản cố định: Cho biết một đồng tài sản cố định đem lại bao nhiêu đồng doanh thu( Tài sản cố định tính theo giá còn lại tại thời điểm báo cáo)

Tổng doanh thu của doanh nghiệp

Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =

Giá trị tài sản cố định

+ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu:

Doanh thu tiêu thụ

Doanh thu tiêu thụ sản phẩm =

Tổng tài sản

  • Tỷ lệ khả năng sinh lãi: Phản ánh hiệu quả quản lí xản suất kinh doanh và khả năng tiêu thụ sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh nghiệp.

+ Khả năng sinh lời của tài sản.

+ Doanh lợi thu từ sản phẩm = Lợi nhuận sau thuế / Doanh thu tiêu thụ.

+ Tỷ suất sinh lợi vốn đầu tư = Lợi nhuận trước thuế và lãi( hoặc lợi nhuận sau thuế) / Tổng tài sản.

+ Doanh lợi vốn tự có = Lợi nhuận sau thuế / Vốn tự có

* Tính pháp lí của dự án.

+ Dự án có phù hợp với mục tiêu phát triển và có được pháp luật cho phép không.

+ Về quản lý dự án có thể thực hiện được không.

+ Về mặt môi trường có hợp lí không...

* Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án.

Một dự án làm ăn không hiệu quả, rủi ro lớn thì khả năng hoàn trả lại món nợ cho ngân hàng là rất khó khăn. Chất lượng của hoạt động cho vay vốn các dự án đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án xét trên quan điểm ngân hàng xem xét trên các chỉ tiêu sau:

  • Chỉ tiêu thu nhập thuần(NPV): Dùng để đánh giá quy mô lợi ích của dự án. Thường tính tổng thu nhập thuần về mặt bằng hiện tại hoặc mặt bằng tương lai. Chỉ tiêu này đánh giá quy mô lợi nhuận của dự án.

Sử dụng: - NPV được dùng để đánh giá hiệu quả của một dự á, dự án được chấp nhận khi NPV> 0.

- Trong so sánh dự án đầu tư: Đối với dự án độc lập thì dự án được chọn là dự án có NPV>0. Còn đối với nhiều dự án lựa cho chọn dự ns có NPV max trong trường hợp dự án có tuổi thọ và đời dự án là như nhau.

Hạn chế: Chỉ tiêu này không thấy được lợi ích từ một đồng vốn bỏ ra và nó phụ thuộc rất lớn vào tỷ suất triết khấu.

  • Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn(T): Thời gian thu hồi vốn là thời gian mà dự án cần hoạt động để thu hồi đủ vốn bỏ ra. Thường ưu tiên cho những dự án có thời gian thu hồi vốn ngắn nếu các yếu tố khác như nhau. Chỉ tiêu này được xem xét trên hai góc độ:
  • Điểm hoà vốn: Khả năng sinh lời và mức độ hoạt động an toàn của các dự án thường được diễn đạt bằng việc phân tích điểm hoà vốn. Trị số của các chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ dự án khả năng hoà vốn( hoặc bắt đầu có lãi ở mức độ sản lượng hoặc doanh thu thấp). Có nghĩa là dự án có khả năg sinh lời và mức độ an toàn trong hoạt động cao.

Khi cho vay và sau khi cho vay ngân hàng cần phải xem xét đơn vị vay vốn sử dụng khoản vốn đó như thế nào, có đúng mục đích hay không, có hiệu quả không, trong quá trình sử dụng vốn doanh doanh nghiệp có gặp gì bất trắc hay không bản thân doanh nghiệp có ý đồ lừa đảo hay không... Và cuối cùng việc khánh hàng hoàn trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng ra sao, có đúng thời hạn không. Để làm được điều này đòi hỏi ngân hàng phải có các biện pháp hữu hiệu và sự hợp tác của khách hàng.

Tóm lại: thẩm định là khâu đầu tiên và quan trọng nhất để đem lại hiệu quả của các công cuộc tài trợ vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện tốt khâu này thỉ dự án ngân hàng tài trợ mới có thể thu hồi được nợ và lãi đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Công tác quản lý món vay.

Thẩm định là khâu đầu tiên nhằm phân tích, đánh giá được các đơn vị vay vốn, hiệu quả kinh tế của các dự án vay vốn, khả năng trả nợ.Tuy nhiên trong giai đoạn thẩm định cũng chỉ là dựa trên những cơ sở pháp lý dự đoán kết quả, của mục tiêu tài trợ là công trình phát huy hiệu quả, trả được nợ cho ngân hàng lại phụ thuộc vào tình hình thực hiện thi công có đúng mục đích ban đầu hay không, có đúng quy định không. Do đó trách nhiệm của Ngân hàng không chỉ dừng ở việc ký kết hợp đồng mà phải có trách nhiệm theo dõi, quản lý món vay trong suốt thời gian khách hàng sử dung vốn của khách hàng vay vốn . Nếu sau khi cho vay ngân hàng không theo dõi quản lí món vay thì trong thời gian dài khách hàng sử dụng vốn thực hiện dự án sẽ không thể chắc chắn khoản tiền vay đó đã sử dụng đúng mục đích. Do vậy việc quản lí món vay không chỉ giúp ngân hàng bảo toàn vốn , có lợi nhuận mà còn giúp đơn vị vay vốn tránh được những rủi ro đáng tiếc. Chính việc quản lí thường xuyên , chặt chẽ món vay xẽ giúp cho ngân hàng phát hiện ra những sai lệch trong quá trình vận hành và quản lí dự án đó. Từ đó ngân hàng xẽ tư vấn cho doanh nghiêp, cùng với doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn để hạn chế tối đa tình huống không tốt sảy ra . Công tác quản lí món vay sẽ bắt đầu từ khi cho vay đến khi kết thúc hợp đồng cho vay.

Chất lượng thông tin.

Chất lượng thông tin cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng. ở đây phải được xem xét tổng hoà trên ba khía cạnh tính chính xác, tính kịp thời và tính đầy đủ của thông tin.

Thật vậy: để tiến hành công tác thẩm định dự án vay vốn, việc đầu tiên là phải thu thập các thông tin liên quan cần thiết nói về tư cách pháp lí của khách hàng, thông tin về năng lực tài chính, thông tin về hiệu quả dự án vay vốn. Sau khi cho vay để xem xét quản lí món vay, cũng cần phải có thông tin, phải thu thập thông tin về việc sử dụng vốn vốn vay của đơn vị vay vốn có đúng mục đích hay không, hiệu quả không. Thông tin về những thuận lợi và khó khăn mà đơn vị vay vốn đang gặp phải, thông tin về tính chung thực của khách hàng, về thu nợ, thu nợ như thế nào... như vậy thông tin có chất lượng cao xẽ là đầu vào hoàn hảo cho mọi quá trình tiếp theo.Tuy nhiên, cũng chưa thể khẳng định rằng cứ có chất lượng thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời là có được những quyết định đúng đắn vì nó còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như việc sử lí thông tin có hiệu quả hay không. Nhưng chúng ta phải thừa nhận thông tin chính là một công cụ hiệu quả để đảm bảo cho hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng hiệu quả.

Nguồn vốn huy động:

Đầu tư vốn tín dụng là nhu cầu khách quan của nền kinh tế. Nguồn vốn để cho vay đầu tư của mỗi ngân hàng có thể từ các nguồn khác nhau nhưng có thể nói nguồn vốn huy động là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất. Để tiến hành hoạt động cho vay thì điều trước tiên là phải có nguồn vốn , do vậy hoạt động cho vay vốn cho đầu tư phát triển phụ thuộc vào nguồn vốn huy động. Nếu trong cơ cấu có nguồn vốn có thời gian dài cao thì trong cơ cấu sẽ cho vay xẽ có nguồn vốn cho vay có thời gian dài cho đầu tư phát triển xẽ ổn định. Ngân hàng xẽ có thể chủ động hơn về kì hạn cho vay, việc thực hiện rót vốn theo lịch trình được thực hiện đúng tiến độ, ngân hàng chủ động chi trả các khoản tiền gửi của khách hàng , vốn ngắn hạn với một tỷ lệ nhất định có thể cho vay dài hạn .

Nhân tố con người.

Bất cứ một khâu công việc nào trong hoạt động của ngân hàng nói chung và các hoạt động sử dụng vốn nói chung cho đầu tư phát triển của ngân hàng đều do con người thực hiện, con người đưa ra và quyết định. Con người chính là chủ thể của mọi hoạt động. Mọi quyết định về đường lối, chính sách về hoạt động kinh doanh của ngân hàng, việc thu thập thông tin, sử lý thông tin, quyết định cho vay, quản lý món vay, tiến hành thu nợ đều do con người đảm nhiệm. Do vậy chất lượng sản phâm trước tiên sẽ phụ thuộc vào người làm nó. Hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng cũng không nằm ngoài lệ.

Các nhân tố khác:

* Khách hàng vay vốn.

Một khi người vay vốn hoạt động xản xuất không hiệu quả, sản phấm sản xuất ra không tiêu thụ được , kinh doanh không có lãi, tình trạng thua lỗ sẽ là một nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến các khoản tín dụng không được thực hiện đúng và đủ. Trong trường hợp khách hàng vay vốn bị phá sản thì mất vốn của ngân hàng xẽ nghiêm trọng hơn “ Thành công của khách hàng cũng chính là sự thàng công của ngân hàng “. Như vậy chất lượng của hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển không chỉ phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà nó còn phụ thuộc vào khách hàng vay vốn. Trong quản lý hoạt động của ngân hàng đối với khách hàng vay vốn ta chú ý đến các yếu tố sau đây. Tư cách pháp lý của người vay và năng lực của người vay.

* Ngoài ra hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng còn chịu tác động của các yếu tố sau đây: Chính sách kinh tế vĩ mô, những biến động về thị trường, điều kiện tự nhiên...

Để có thể đề ra được các giải pháp cho huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng ta đi xem xét và phân tích cụ thể tình hình huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây .




Nguồn: voer.edu.vn/m/ngan-hang-dau-tu-trong-qua-trinh-huy-dong-von-va-su-dung-cho-von-dau-tu-phat-trien/1a6...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận