Người Australia khai phá Châu Úc
Trong tiết mục tạp kỹ của đoàn xiếc biểu diễn có thể được xem một tiết mục đặc sắc sau: một diễn viên tay cầm mấy chiếc vành cong hình dạng như chiếc phi tiêu không cán bước lên sân khấu, anh ta dùng sức ném chiếc phi tiêu đi, phi tiêu bay đi theo một đường vòng cung lượn trên đầu khán giả rồi quay trở lại, bay về tay người diễn viên. Kiểu phi tiêu đó gọi là “phi khứ lai'' (bay đi lại bay về), tiếng địa phương gọi là Bumeran. Đó chính là phát minh và đem ứng dụng của người bản địa (thổ dân) Australia.
Vào khoảng 2,5 vạn năm trước, tổ tiên của thổ dân Australia đã từ Đông Nam Á tới định cư ở châu Úc. Đặc trưng về thể chất của họ chính là đặc trưng cơ bản của những người xích đạo, thần hình trung bình hoặc hơi cao, da màu nâu sẫm hoặc màu sô cô la, tóc đen và lượn sóng, râu rậm, thân thể nhiều lông, nay gọi là chủng người Australoid, là hậu duệ của những cư dân cổ xưa nhất, những thổ dân này phần bố chủ yếu ở bang Tây Australia, bang Queensland, vùng lãnh thổ phía Bắc - Nothern Territory, có khoảng 15 vạn người.
Thế kỷ XVIII khi người Anh vừa xâm nhập châu Úc, thổ dân lúc đó có khoảng 30 vạn người, phân thành hơn 500 bộ lạc. Bộ lạc không có tổ chức chặt chẽ, thường lấy quần thể địa phương hoặc bào tộc làm đơn vị hoạt động. Phần lớn họ làm nghề săn thú, một số ít làm nghề chăn nuôi hoặc làm các thứ lao động khác. Bộ lạc săn bắt dùng đá vỏ sò, xương, gỗ chế tạo thành công cụ, bumerang là thứ vũ khí độc đáo mà họ thường dùng trong chiến tranh và trong lúc đi săn. Những bộ lạc ở ven biển cũng làm nghề đánh bắt cá. Có một số bộ lạc thu cắt lúa trời theo mùa. Họ dùng cành cây gác lên nhau thành giá gỗ lợp vỏ cây hoặc trát bùn làm nhà ở. Sau khi thực dân Anh ồ ạt kéo đến, thổ dân bị tàn sát thê thảm, nhân khẩu giảm sút nhanh chóng, những người may mắn còn sống sót thì bị xua đuổi đến vùng sa mạc ở Trung bộ và Tây bộ. Những thổ dân thuần gốc nay chỉ còn hơn 4 vạn người, còn lại là những người lai.
Thổ dân Australia rất thịnh hành việc thờ cúng tô tem (vật tổ), mỗi bộ lạc đều có tô tem riêng của mình. Họ có nền văn hóa nguyên thủy phong phú, có nhiều tranh khắc gỗ, tranh trên vách núi và tranh trên vỏ cây, thường mang hình kỷ hà và hình các động vật thực vật.
Ngoài thổ dân ra, dân tộc chủ thể của Australia hiện nay là người Australia, con cháu người Anh. Họ có khoảng hơn 10 triệu người, thuộc đại chủng Européoid, chủ yếu là hậu duệ của dân di cư từ nước Anh, Ireland và các nước châu Âu khác kết hợp lại mà thành. Thế kỷ XVIII, nước Anh đã lập một cứ điểm thuộc địa ở gần Sydney ngày nay, đem những tù nhân lưu đầy ở đây để làm nông nghiệp và chăn nuôi. Sau nhiều lần thám sát đo đạc toàn bộ đại lục, năm 1817 người Anh định danh cho miền đất này là Australia, từ đó tên gọi này được lưu truyền rộng rãi. Đầu thế kỷ XIX, nghề chăn nuôi cừu phát triển vời quy mô lớn, bọn thực dân Anh phải chiêu mộ hàng loạt người lao động đưa sang Australia. Năm 1851, phát hiện ở đây có mỏ vàng, thế là lại có đông đảo dân di cư kéo đến. Đến năm 1901, khi thành lập Liên bang Australia, toàn bộ dân di cư đã lên tới 3 triệu 80 vạn người. Từ đó tiếp tục thu hút dân di cư từ Anh và các nước châu Âu, cuối cùng dần dần hình thành một dân tộc thống nhất.
Người Australia chủ yếu do cư dân vốn là thổ dân và người Australia gốc Anh hợp thành, họ đã có những cống hiến lớn lao trong việc mở mang nền văn minh ở châu Đại Dương này.