Đây là Nghị định thay thế cho Nghị định 90/CP không phù hợp trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, khi mà nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích kinh tế, an ninh, quốc phòng, mục đích công cộng ngày càng nhiều.
Vì vậy, việc bồi thường thiệt hại cho người bị thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và tái định cư phục vụ các dự án là công việc thường xuyên, lâu dài trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị định này quy định chi tiết hơn, hoàn chỉnh hơn, tiến bộ hơn và hợp lý hơn Nghị định 90/CP thể hiện ở một số nội dung.
Điều kiện được đền bù về đất:Tại Nghị định đã phân biệt rõ các loại giấy tờ thuộc loại hợp pháp, hợp lệ và các trường hợp không có chứng thư pháp lý nhưng vân được đền bù về đất. Đồng thời, Nghị định cũng nêu rõ các trường hợp không được đền bù về đất.
Tại đây, Nghị định đã chỉ rõ UBND cấp tỉnh quy định giá đất cho từng dự án, ở từng thời điểm. Theo đề nghị của Sở Tài chính vật giá, có sự tham gia của các ngành liên quan. Giá đền bù thiệt hại, tính trên cơ sở giá ban hành của chủ tịch UBND tỉnh nhân với hệ số K.
Đây được xem như là bước tiến vượt bậc trong chính sách đền bù của Nghị định 22/1998/NĐ-CP khác hẳn với Nghị 3;ịnh 90/CP. Chính sách này đã tác động tích cực đối với những người bị ảnh hưởng trong việc ổn định đời sống sau khi bị thu hồi đất. Các chính sách gồm có:
Chính sách này được đề cập đầy đủ hơn so với Nghị định trước đó. Việc Nhà nước chuẩn bị điều kiện để lập khu tái định cư là một phần đảm bảo công tác giải phóng mặt bằng được thực hiện nhanh chóng.
Nghị định này đã dành trọn một chương quy định thẩm quyền phê duyệt lập khu tái định cư, điều kiện bắt buộc phải có khu tái định cư. Ngoài ra, còn có một số quy định về chính sách hỗ trợ lập khu tái định cư góp phần khôi phục cuộc sống của người dân trong vùng bị giải toả. Lập khu tái định cư thể hiện chính sách đổi mới của Nhà nước về quan điểm và mục tiêu lấy con người làm trọng tâm trong quá trình đền bù đối với người bị thu hồi đất.
Nếu như các văn bản trước đây mới chỉ đề cập đến nội dung đền bù cho đất và tài sản gắn liền với đất bị thu hồi thì Nghị định này đã có các quy định cụ thể về công tác tổ chức thực hiện, trách nhiệm của UBND các cấp và hội đồng đền bù, giải phóng mặt bằng cấp huyện trong việc chỉ đạo thực hiện công tác đền và tái định cư của các dự án như lập phương án đền bù, xác định mức đền bù theo phương án đã phê duyệt. Các quy định này đã giúp cho các địa phương chủ động trong việc lựa chọn phương án đền bù phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội, quỹ đất và tập quán của địa phương.
Đối với đất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối và nuôi trồng thuỷ sản, đền bù bằng đất có cùng diện tích và chất lượng. Nếu không có đất thì đền bù bằng tiền. Nếu đất được đền bù có giá trị lớn hơn đất bị thu hồi thì người được đền bù không phải nộp phần chênh lệch đó.
Đối với đất ở đô thị loại II và loại I chủ yếu đền bù bằng nhà ở hay đền bù bằng tiền do người bị thu hồi đất quyết định. Đền bù bằng đất chỉ được thực hiện khi có dự án khu tái định cư được phê duyệt. Nếu đất được quy hoạch để xây dựng khu đô thị nhưng chưa có cơ sở hạ tầng thì không được đền bù như đất đô thị. Trường hợp người được đền bù đồng ý nhận đất ở khu vực ngoại thành thì được hưởng thêm 10% giá trị của đất bị thu hồi ở các đô thị, người bị ảnh hưởng được lựa chọn một trong ba phương án trên.
Đối với đất ở nông thôn người bị thu hồi đất được đền bù bằng đất ở có cùng mục đích sử dụng. Mức tối đa được đền bù bằng nơi ở mới không quá 400 m2 hay 800 m2 cho những vùng nông thôn có tập quán sinh sống nhiều thế hệ trong cùng một hộ hay điều kiện tự nhiên đặc biệt.
Điều 33 quy định việc lập hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng có thể tiến hành trước hoặc sau khi có quyết định thu hồi. Dựa tr& #234;n cơ sở số liệu kê khai của người bị thu hồi. Hội đồng đền bù trình các cấp có thẩm quyền liên quan, nếu mức đền bù vượt quá mức quy định thì phần vượt mức ngân sách địa phương phải chi trả.
Đối với các dự án khi đền bù giải phóng mặt bằng nếu người thu hồi thấy quyết định đền bù thiệt hại không đúng với quy định của pháp luật thì được quyền khiếu nại và được giải quyết theo quy định của pháp luật khiếu nại tố cáo của công dân. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi giải quyết khiếu nại tố cáo vẫn phải chấp hành di chuyển giải phóng mặt bằng và giao đất đúng kế hoạch.