NGUYÊN ĐÁN
Ngày đầu tiên của năm mới, người ta gọi là ''Nguyên Đán''. Nguyên có nghĩa là ''đầu người'', ''thứ nhất", từ này sau mở rộng ra có nghĩa là “đầu tiên” hoặc ''thứ nhất”, còn chữ Đán có nghĩa là ''trời sáng'' hoặc “sáng sớm”? Qua di vật văn hóa tìm thấy được trong lần khai quật ở cửa sông Vấn Thủy, phát hiện có 1 bức tranh Mặt trời mọc từ đỉnh núi, ở giữa mây khói lượn lờ. Qua khảo chứng, đó là cách viết chữ “Đán” cổ nhất của người Trung Quốc. Sau này, trên bản khắc đúc đồng xanh thời Ân, Thương, lại phát hiện chữ ''Đán'' được viết như Mặt trời mọc trên đường chân trời. Chữ ''Nhật'' (Mặt trời) trong chữ ''Đán'' để biểu thị Mặt trời hình tròn, còn chữ ''Nhất'' bên dưới biểu thị đường chân trời. Chữ ''Nhật'' và “nhất” hợp lại chính là: Mặt trời mọc lên từ đường chân trời, có nghĩa là ''sáng tinh sương trời sáng rồi”? Tiêu Tử Vân - nhà văn, nhà sử học Nam triều đã viết trong cuốn Giới Nhã: ''Tứ khí tân Nguyên Đán, Vạn thọ sơ kim triều'' (bốn mùa bắt đầu bằng ngày Nguyên Đán,… ), như vậy, thời đó đã lấy Nguyên Đán là ngày đầu tiên cho 1 năm.
Ngày nay, Trung Quốc tuy cũng giống như các Quốc gia khác sử dụng công lịch (Dương lịch) hàng năm lấy ngày 1/1 Dương lịch làm ngày Nguyên Đán, nhưng theo tập quán truyền thống trong dân gian; vẫn lấy ngày 1 tháng Giêng Âm lịch làm ngày Tết dân tộc lớn nhất trong năm, người dân Trung Quốc và một số nước Châu Á khác cũng đều coi trọng Nguyên Đán Âm lịch, ngày này người ta sum họp vui vẻ hân hoan nhất trong một năm. Thực ra, trên Thế giới, nhân dân các dân tộc của các Quốc gia khác nhau cũng không phải đều lấy ngày 1/1 Dương lịch làm ngày Nguyên Đán, đã có thống kê, trước khi công lịch thông dụng, loài người chí ít cũng đã biên soạn sử dụng hơn 200 loại lịch pháp. Lịch pháp của các Quốc gia phương Đông rất phức tạp, hiện nay vẫn còn dùng tới hơn 50 loại, các Quốc gia thuộc nhiều khu vực khác cũng có lịch pháp không giống nhau. 4000 năm Tr. CN, người Ai Cập phát hiện khi sao Thiên Lang và Mặt trời cùng mọc từ trên đường Chân trời ở phương Đông thì sông Nile bắt đầu dâng nước và người ta lấy ngày đó làm ngày Nguyên Đán. Babylon và đế quốc Ba Tư cổ đại lấy ngày ''Xuân phân'' 21/3 ''ngày thứ nhất của mùa Xuân'' làm ngày mở đầu cho năm mới.
Lấy ngày 1/1 Dương lịch làm ngày đầu tiên của năm mới, là bắt nguồn từ lịch Julius, đây là cuốn lịch do Hoàng đế La Mã Julius Caesa ban bố năm 46 Tr.CN. Đến năm 1582, Giáo hoàng La Mã lại dùng lịch Julius làm cơ sở để hiệu đính và hoàn thành lịch Gregorius, đầu năm vẫn là 1/1 và được dùng từ đó cho đến nay. Đó chính là Công lịch. Có điều thú vị là cùng là Dương lịch, ngày Nguyên Đán cũng có khác biệt. Đầu Thế kỷ XX, Hillal và nước Nga vẫn dùng lịch Julius, mà không cùng công lịch đã được sửa đổi; thế là ngày Nguyên Đán bị muộn hơn ngày Nguyên Đán của Công lịch nhiều ngày. Phương pháp sắp xếp nhuận (thừa) cũng hơi khác nhau, tính chính xác của lịch Gregorius cao hơn lịch Julius. Như vậy đã xảy ra hiện tượng khá lý thú, hồi thế kỷ XVII ngày Nguyên Đán của họ muộn hơn 10 ngày so với ngày Nguyên Đán Công lịch, thế kỷ XVIII muộn hơn 11 ngày, thế kỷ XIX muộn hơn 12 ngày, thế kỷ XX muộn hơn 13 ngày. Ví dụ như Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa tháng 10 Nga vĩ đại nổ ra ngày 25/10 theo lịch cũ của Nga, còn theo Công lịch thì là ngày 7/11/1917, do vậy trong lịch sử gọi là ''Cách mạng tháng 10”. Ngày Nguyên Đán của họ năm này bị muộn hơn 13 ngày so với ngày Nguyên Đán của Công lịch.
Ở Mexico, có 1 số lịch pháp truyền thống địa phương, 1 năm có 18 tháng, mỗi tháng có 20 ngày, còn có 5 ngày xếp ở cuối cùng, đây là 5 ''ngày rủi ro'', không được cười, sau đó là năm mới. Lịch cũ của Ethiopian mỗi năm có 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày, 5 ngày thừa ra cũng được xếp vào cuối cùng của tháng cuối. Loại lịch cũ 1 năm luôn luôn là 365 ngày này so với Công lịch cứ mỗi 100 năm xê xích hơn 20 ngày. Đó chính là nguyên nhân năm mới truyền thống của Ethtopian hiện nay rơi vào tháng 9 Dương lịch.
Ngày nay trên thế giới, số các Quốc gia, dân tộc không theo ngày Nguyên Đán Dương lịch mà theo ngày Nguyên Đán năm mới truyền thống của mình, không phải là ít. Xuân phân ngày 21/3 là ngày đầu năm của đế quốc Ba Tư cổ đại, cũng chính là năm mới truyền thống của Iran hiện nay. ''Đạt cố'' (tháng Giêng) của Miến Điện tương ứng với tháng 4 Dương lịch, đây là Tết năm vui nhất của họ, còn gọi là Tết té nước. Nguyên Đán Phật lịch của Thái Lan cũng vào tháng 4 Dương lịch. Năm mới Phật lịch của Lào gọi là "Tống Can tiết", vào tháng 4 Dương lịch, nhân dân nghỉ Tết 7 ngày. Nhưng năm mới của dân tộc Mèo của nước Lào lại là ngày mồng 1 tháng 11 Âm lịch. Giáo hội người Do Thái lại lấy ngày Thu phân là ngày Nguyên Đán; còn nhân dân Apganistan phần lớn theo Đạo Ixlam thì lại dùng lịch Hồi năm Mặt trời, lấy ngày Xuân phân làm ngày đầu năm mới.
Cũng có nhiều Quốc gia người dân theo Đạo Ixlam (các Quốc gia như Pakixtan, Indonesia, Iran...) vẫn dùng lịch Hồi năm Mặt trời, nó là Âm lịch thuần tuý, cả năm chỉ có 354 ngày, năm nhuận cũng chỉ có 355 ngày, so với Dương lịch thì cứ 5,6 năm thiếu hụt 2 tháng, nó cũng không giống Âm lịch mà Trung Quốc sử dụng với phương pháp sắp xếp năm nhuận để điều chỉnh, do đó quan hệ giữa tháng và mùa vụ không có sự cố định. Như vậy con người có thể đón ngày Nguyên Đán vào mùa Đông hoặc mùa Hè, cũng có thể vào mùa Thu hoặc mùa Xuân. Năm mới của Arhentia vào mùa Hè nóng bức, do đó họ có thể ra sông tiến hành "Tắm năm mới”. Nơi đây, thuộc Nam bán cầu thời tiết trái ngược với Bắc bán cầu.
Có nơi lấy ngày đầu của 1 vòng tuần hoàn mùa vụ làm ngày Nguyên Đán. Ví dụ như nước Uganda Châu Phi nằm trong khu vực nhiệt đới, cứ mỗi 6 tháng lại có hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Họ liền lấy 6 tháng thành 1 năm, lấy ngày đầu tiên của mùa mưa làm ngày Nguyên Đán. Ở Châu Mỹ, ngày Tết truyền thống của người Indian tại mỗi số địa phương lại vào lúc cây cao su cho mủ nhiều nhất. Thông thường ngày đó là cuối mùa Hè. Nông thôn, Syrian lấy ngày đầu tiên trăng tròn Tháng 9 làm ngày mới của năm mới. Thổ dân sinh sống trên Đảo Yap Thái Bình Dương, khi loài chim di trú bay đến sớm nhất trong 1 năm, đó là năm mới của họ. Còn người Eskimos, sống ở khu vực hàn đới thì luận tuyết rơi đầu tiên sẽ là bắt đầu 1 năm mới của họ.
Có Quốc gia lại ấn định năm mới vào ngày Tết truyền thống của dân tộc, như năm mới của Ấn Độ là "Tết Hòa Lợi” vào tháng 11 Dương lịch. Cũng có nước quy định năm mới là ngày Tôn giáo, như năm mới của Nêpan năm trong tháng 4 Công lịch, người dân nơi đây gọi là ''Tết Quang Minh'' (Tết ánh sáng). Đây là ngày Tết sùng bái Nữ thần Laks. Lại có Quốc gia quy định ngày Nguyên Đán là ngày kỷ niệm, ngày 30/12 là ngày hy sinh của vị anh hùng dân tộc Philippin Azen Momsae, để kỷ niệm ông, nhân dân Philippin đã lấy ngày này làm ngày Tết. Người Nhật Bản cũng vẫn sử dụng ngày 1 tháng Giêng Âm lịch là ngày Tết Nguyên Đán, nhưng từ sau thời Meiji Restoration dần dần mới đổi sang lấy ngày Nguyên Đán Công lịch làm năm mới, và cũng chuyển ngày đón năm mới theo phong tục sang ngày Nguyên Đán Công lịch. Nhưng vẫn có một số người Nhật lại theo truyền thống cổ xưa, đón một Tết Dương lịch và lại ăn cả Tết Âm Lịch.
Vào thời cổ đại Trung Quốc, ngày tháng ''Nguyên Đán" cũng không hoàn toàn giống nhau. Thời Hạ, lấy ngày 1 tháng Giêng làm ngày mở đầu 1 năm mới, thời Thương lại lấy ngày 1 tháng 12 (tháng chạp) làm ngày mở đầu năm mới, thời Chu thì lại đổi sang ngày 1 tháng 11 là ngày đầu năm mới, thời Tần và đầu thời Hán lại đổi sang ngày 1 tháng 10 là ngày Nguyên Đán. Đến tận thời Hán Vũ Đế mới lại quy định ngày 1 tháng Giêng là ngày mở đầu một năm mới, ngày mùng 1 gọi là ''Nguyên Đán” và cũng gọi là ''Tam Nguyên”, tức là mô đầu một năm, bắt đầu vào ngày mùng 1 tháng một ngày này được sử dụng cho đến ngày nay. Cho đến ngày 27-9-1949, Hội nghị toàn thể khoá 1 Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc đã thông qua quyết định sử dụng ''Công nguyên kỷ niên pháp", quy định ngày mùng 1 tháng Giêng Âm Lịch là "Tết Âm lịch”, ngày mùng 1 tháng 1 Dương lịch là ngày “Nguyên Đán”.