Tài liệu: Tình hình sử dụng và tác động của sự biến động đồng EURO

Tài liệu
Hoàng Quý Ly

Tóm tắt nội dung

Tình hình sử dụng và tác động của sự biến động đồng EURO
Tình hình sử dụng và tác động của sự biến động đồng EURO

Nội dung

Tình hình sử dụng đồng EURO.

Trong bước 1 của giai đoạn quá độ đưa đồng EURO vào vận hành và chính thức thay thế hoàn toàn các đồng tiền 11 quốc gia thành viên. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là song song tồn tại với nó là 11 đồng bản tệ vẫn đầy đủ tư cách của những đồng tiền thực thụ, cùng thực hiện chức năng tiền tệ trong liên minh. Trong giai đoạn này đồng tiền chung tham gia vào kênh lưu thông sử dụng thương mại điện tử các giao dịch phi tiền mặt, mọi người dù trong hay ngoài liên minh đều mới chỉ làm quen với đồng EURO theo nguyên tắc "Không - không", tức không bắt buộc sử dụng cũng như không ngăn cấm sử dụng trong thanh toán.

Đồng EURO ra đời trong cảnh trống rung cờ mở. Mọi công việc chuẩn bị công phu đều được hoàn tất để đưa đồng EURO vào kênh lưu thông vận hành một cách suôn sẻ nhất, trước ngày đồng EURO ra đời và đưa vào sử dụng mọi công việc chuẩn bị đã được hoàn tất, từ việc nhãn mác kép, việc đào tạo nhân công, cải thiện hệ thống chi trả, các quyền danh mục ghi giá bằng đồng EURO cho đến các hoạt động thông tin hướng dẫn, phổ biến các quy định... Song thực tế tình hình sử dụng đồng EURO lại ngược lại với sự chuẩn bị, không mấy sáng sủa.

Trong thanh toán quốc tế, mặc dù các quốc gia thành viên đều khuyến khích dân chúng sử dụng đồng EURO nhưng trên thực tế chỉ có một số ít dân chúng sử dụng đồng tiền này trong thanh toán. Giao dịch thương mại giữa các nước thành viên chiếm 60% tổng ngoại thương của các nước song chủ yếu được thanh toán bằng đồng USD hoặc các đồng bản tệ của các nước thành viên. ở một số nước như Hà Lan, Bỉ các thương gia từ chối kịch liệt việc thanh toán bằng thẻ ngân hàng sử dụng đồng EURO. ở Pháp chỉ có 1/1000 tấm séc được ghi thanh toán bằng đồng EURO. Theo thống kê của tập đoàn LECTERC chỉ khoảng 7000 - 8500 trường hợp (cả bằng thẻ và séc) thanh toán bằng đồng EURO trên toàn nước Pháp. ở Đức tình hình cũng không mấy khả quan, về số lượng thanh toán bằng đồng EURO thấp đến mức buộc các quan chức kinh tế phải tổ chức các cuộc vận động sử dụng bằng đồng EURO. Đối với các nước thành viên khác việc sử dụng đồng EURO trong thanh toán cũng không đáng kể, phần đông các nhà kinh doanh tỏ ra lung túng trước mọi khách hàng sử dụng ngân phiếu bằng đồng EURO để thanh toán.

ở Việt Nam tính đến tháng 4/2000 chỉ có 65 triệu EURO dùng trong thanh toán.

Trên thị trường trái phiếu, tình hình sử dụng của đồng EURO có nhiều khả quan hơn. Theo quy định, từ ngày 01/01/1999 tất cả các khoản nợ công cộng được phát hành bằng đồng EURO, số dư nợ công cộng tính đến nay cũng được chuyển sang đồng EURO trong năm 1999. Đến cuối năm 1998 trên thị trường, số trái phiếu tình bằng USD đứng đầu thế giới với tổng dư nợ lên tới 8000 tỷ trọng, 4900 tỷ là nợ công cộng. Đứng thứ 2 là thị trường trái phiếu tính bằng JPY - 4800 tỷ, trong đó 2900 là nợ công cộng. Tổng giá tr& #7883; trái phiếu tính bằng đồng NCU tương đối nhỏ bé. Lớn nhất là trái phiếu tính bằng đồng DM cũng chỉ đạt 1700 tỷ USD. Sang năm 1999 các trái phiếu Châu Âu được chuyển sang đồng EURO, tổng trái phiếu tính bằng EURO chỉ được ở mức 2500 tỷ USD vào đầu năm 1999. Tuy con số này còn quá xa so với đồng USD và JPY. Nhưng đây chỉ là mức khởi điểm của đồng EURO có được trên thị trường trái phiếu nhờ nghiệp vụ chuyển đổi kỹ thuật từ NCU - EURO. Ngay trong ngày đầu hoạt động chỉ tính riêng riêng hiệu ứng cơ học của việc đổi tiền, thị trường trái phiếu Châu Âu cũng đã đạt 7000 tỷ USD, trong đó khoảng 4000 tỷ là nợ công cộng.

Tính đến cuối năm 1999, Chính phủ các nước EU và các công ty trái phiếu đã phát hành 407,1 tỷ USD trái phiếu quốc tế. Với con số đó, 44,5% phát hành trái phiếu sử dụng đồng EURO và 44,4% dùng đồng USD. Ưu thế cũng đã khẳng định vị trí của đồng EURO bên cạnh cổ phần công nghiệp Mỹ. Thật vậy hãng xe hơi FORD và BACCO của Anh - Mỹ đã thực hiện phát hành trái phiếu của mình bằng đồng EURO để làm đa dạng hoá thêm nguồn tài chính của mình và rõ ràng thị phần của đồng USD giảm từ 46% xuống còn 44,4% trong vòng 1 năm, một lợi thế khác nữa của EURO là sự liên kết thị trường vốn là Châu Âu.

Trong dự trữ quốc tế, đồng EURO được dự đoán sẽ chiếm khoảng 25 - 35% tổng dự trữ quốc tế của các ngân hàng trung ương đây là dự báo khả quan của các nhà phân tích kinh tế. Tuy nhiên sau hơn 2 năm vận hành tỷ lệ dự trữ thực tế thấp hơn nhiều so với dự đoán.

Cuối 1998 theo (IMF), quỹ tiền tệ quốc tế công bố, khoảng dự trữ ngoại hối toàn cầu đạt 1.700 tỷ USD, trong đó USD chiếm 60%, DM chiếm 14%. Đồng JPY và ECU xấp xỉ bằng nhau 6% còn lại là các đồng tiền khác. Sang năm 1999 khi EURO ra đời toàn bộ khoản dự trữ bằng ECU đã được chuyển sang đồng EURO, bên cạnh đó một số quốc gia chủ yếu là các quốc gia trong EU đã chuyển một phần dự trữ của mình sang EURO. Nước ngoài khu vực đồng EURO đổi 100% dự trữ quốc gia của mình từ USD sang EURO là Cuba song đây chỉ là sự phản đối Mỹ, thể hiện quan điểm chính trị đối đầu với Mỹ.

Tính đến cuối năm 2000, dự trữ quốc tế bằng đồng EURO chỉ chiếm 19,6% tổng dự trữ quốc tế của thế giới, trong khi tổng dự trữ quốc tế bằng đồng USD chiếm 57,1%.

Qua xem xét trên ta thấy tình hình thực tế sử dụng và thực hiện chức năng đồng EURO còn rất khiêm tốn, đã phản ánh thực tế thực hiện các chức năng của mình của đồng EURO còn rất hạn chế.

Nói chung sau hơn 2 năm ra đời đồng EURO vẫn chưa tạo được cho mình chỗ đứng thích hợp trong thanh toán và thanh toán và tín dụng quốc tế.

Nguyên nhân của thực tế trên không phải là do khả năng của đồng EURO mà do các yếu tố không thuận lợi từ bên ngoài.

Một nguyên nhân quan trọng là việc đồng EURO liên tục giảm giá trị khiến họ dè dặt trong việc sử dụng đồng EURO.

Tuy nhiên khi đồng EURO lấy lại được giá trị của mình, đi vào ổn định, kinh tế EU phục hồi và phát triển ổn định thì chắc chắn đồng EURO sẽ trở lên được sử dụng thông dụng hơn cả trong và ngoài khu vực. Các khu vực như Tây, Đông Phi có quan hệ mật thiết với đồng Fance Pháp sẽ có nhu cầu dùng đồng EURO trong gần đây, Đông Âu và Bắc Âu là hai khu vực có quan hệ kinh tế thương mại mật thiết với EU đặc biệt là Đức, lên đồng EURO sẽ có triển vọng sử dụng cao trong khu vực này, ngoài ra Châu á và EU đang củng cố quan hệ kinh tế đối ngoại EURO sẽ thay thế một phần USD để giảm sự lệ thuộc vào đồng USD.

Giá trị đồng EURO giảm sút nhanh chóng, việc sử dụng đồng EURO bị hạn chế - một số diễn biến của đồng EURO trên thị trường khác xa dự đoán của các nhà kinh tế Châu Âu. Tuy thời gian lưu hành chưa dài song diễn biến của đồng EURO hết sức phức tạp, thường xuyên bị giN 43;m giá trị, khả năng thực hiện các chức năng còn bị hạn chế đó là do phải chịu nhiều yếu tố mang tính khách quan bên ngoài.

Mặc dù vậy, trong thời gian qua qua ECB cũng như EU tương đối thành công đã duy trì lãi suất thấp mà lại kiềm chế được lạm phát cùng với việc giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần tăng trưởng phát triển kinh tế củng cố xây dựng EU (mục tiêu cơ bản của UE) đây là một thành công không dễ gì đạt được.

Tác động của sự biến động đồng EURO đến các quan hệ kinh tế quốc tế của EU.

Nhìn chung đồng EURO từ khi ra đời đến nay được hơn hai năm và sự giảm mạnh đã gây tác động lớn tới các quan hệ kinh tế quốc tế của các quốc gia thành viên EU, đặc biệt đối với các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế.

Tác động đến hoạt động thương mại quốc tế.

Với lợi thế của một đồng tiền yếu, hoạt động ngoại thương của khu vực đồng EURO đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây.

Kể từ khi ra đời tới nay, đồng EURO đã mất giá gần 30% so với USD, điều này tuy có làm tổn hại đến uy tín của đồng tiền chung EU, song lại có tác dụng kích thích xuất khẩu của EU (Kim ngạch xuất khẩu của EU chiếm khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu của thế giới). Theo đánh giá của WB tháng 12 năm 200, thương mại của EU tăng 6,5% trong năm 2000, lòng tin của người tiêu dùng và giới công nghiệp đang ở mức kỷ lục. Trong đó xuất khẩu hàng hoá của EU đạt mức tăng trưởng cao nhất (8,7%) kể từ năm 1947 đến năm 2000, EU vươn lên thành một thị trường xuất khẩu hàng hoá lớn nhất thế giới.

Đồng EURO mất giá, hàng hoá xuất khẩu của Châu Âu tính bằng ngoại tệ ở thị trường nước ngoài trở lên rẻ hơn tương đối, tạo ra lợi thế cạnh tranh về giá cả làm hàng hoá Châu Âu trở lên có sức hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng nước ngoài.

Trên thực tế, hầu hết các mặt hàng hoá xuất khẩu của các ngành đều tăng trong những năm 1999, 2000. Máy bay, ô tô, thực phẩm... ào ạt xuất ra thị trường thế giới. Trong năm 1999 tổng kim ngạch xuất khẩu của EU tăng 2,8% và 5,4% trong năm 2000 có thể giải thích tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của năm 2000 lớn hơn nhiều so với năm 1999 bằng lý thuyết đường cong J (do xuất nhập khẩu phải có thời gian để co giãn hoàn toàn).

Sự giảm giá của đồng EURO cộng với hàng hoá của châu Âu có chất lượng tương đối cao (thoả mãn điều kiện Mar Saller) nên đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương của EU gia tăng. Song EU thực chất là một khối kinh tế tương đối đóng quan hệ ngoại thương giữa các nước thành viên là chính với 60% thương mại được thực hiện giữa các nước trong khu vực, trao đổi thương mại, với thế giới bên ngoài chỉ chiếm 10% GDP của EU. Do vậy việc giảm giá đồng EURO, làm tăng mạnh xuất khẩu của EU (8,7% năm 2000). Song chỉ góp một phần nhỏ vào việc tăng trưởng kinh tế khu vực chính vì EU có tỉ lệ xuất khẩu ra bên ngoài nhỏ. Tuy nhiên đối với một số thành viên (như Đức, Pháp) do đồng bản tệ có ảnh hưởng lớn tác động EURO (tỷ phần lớn trong đồng EURO) nên ngược lại khi đồng EURO giảm giá đã thúc đẩy mạnh hoạt động ngoại thương của các nước này sang khu vực không dùng đồng EURO. Chẳng hạn như Đức có giá trị xuất khẩu sang các thị trường không dùng đồng EURO tăng vọt, cụ thể: Sang Mỹ tăng 40%, sang Anh tăng 26%. Trong năm 2000, cân đối cán cân thương mại của Đức hai năm gần đây, 1999 đạt 4,34% tăng 0,19% so với 1998, năm 2000 đạt 5,63% tăng 1,29%. Hoạt động ngoại thương của Pháp cũng trở nên nhộn nhịp hơn, tốc độ gia tăng xuất khẩu của năm 1999- 2000 đều tăng cao so với các năm trước đây.

ở khía cạnh khác, khi đồng EURO giảm giá đã làm tăng giá hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ (dù tính bằng ngoại tệ không đổi), hàng hoá sản xu& #7845;t trong nước trở nên rẻ hơn tương đối so với hàng nhập khẩu. Vì vậy, cầu nhập khẩu của EU giảm thay vào đó là khuyến khích sử dụng hàng sản xuất trong nước, từ đó khuyến khích sản xuất trong nước, tạo công ăn việc làm, mặt khác đối với nguyên liệu nhập khẩu tăng làm tăng chi phí sản xuất nhưng phần này sẽ được bù lại bằng việc tăng mạnh xuất khẩu.

Sau hơn hai năm ra đời, sự biến động của đồng EURO đã góp phần thúc đẩy xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước thành viên EU do sự tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của EU còn gia tăng vì nhu cầu đối với hàng hoá của Châu Âu tại Mỹ, Châu á, Trung và Đông Âu tiếp tục tăng. Ngoài ra, số lượng hợp đồng thương mại giữa các nước trong khu vực tăng cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới cán cân mậu dịch của toàn khối. Theo thống kê mới nhất của Uỷ ban Châu Âu kết quả số cán cân thanh toán của các nước trong khu vực đồng EURO đã tăng lên đáng kể trong năm 1999 và nửa đầu năm 2000. Nếu như năm 1998, cán cân thanh toán toàn EU đạt 78,746 tỷ EURO, thì sang năm 1999 con số này đạt 125,8 tỷ tăng 38% so với năm 1998.

Đồng EURO giảm giá đã góp phần làm thay đổi quan hệ thương mại giữa các nước thành viên với các nước ngoài khu vực. Đặc biệt trong số đó là Mỹ, một bạn hàng lớn nhất của EU. Trong năm 1999, chỉ tính riêng Đức, Mỹ đã thâm hụt khoảng 17,9 tỷ USD (so với năm 1998 là 13,1 tỷ USD) một con số không nhỏ trong thương mại quốc tế. Đối với các khu vực khác, hoạt động xuất khẩu của EU cũng gia tăng. Châu á - một thị trường rộng lớn của EU. Theo thống kê, tính đến cuối năm 1999 xuất khẩu của EU sang Châu á tăng gần 23% so với năm 1998 và tăng khoảng 27% trong năm 2000.

Qua xem xét trên ta thấy sự giảm giá của đồng EURO từ khi ra đời đến nay đã góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế với các nước, làm dịch chuyển cán cân thương mại của EU theo hướng thặng dư. Đây là một cơ hội quan trọng để EU thoát khỏi tình trạng là một khối kinh tế đóng (xuất nhập khẩu nhỏ hơn 10% tổng GDP).

Tác động đến hoạt động đầu tư quốc tế.

Nếu xét theo hoạt động thương mại quốc tế thì EU là một khu vực kinh tế đóng ở mức cao (60% là thương mại giữa các nước, thương mại quốc tế với ngoài khối chỉ hạn chế ở con số khiêm tốn khoảng 10% tổng GDP). Nhưng EU lại là khu vực tham gia tích cực vào hoạt động đầu tư quốc tế, là khu vực tiếp nhận đầu tư lớn nhất thế giới, song cũng là khu vực đi đầu tư nhiều nhất thế giới vượt xa Mỹ. Trong mấy năm gần đây đầu tư quốc tế của EU tăng mạnh.

Từ bảng trên ta thấy nếu năm 1998 FDI là 230 triệu USD thì năm 1999 đã tăng lên 280 triệu USD tăng 21,7% đây là một tốc độ gia tăng cao, năm 2000 tốc độ này là 29,70% điều đó chứng tỏ môi trường đầu tư EU cũng trở lên hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Có nhiều yếu tố làm tăng tính hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế, tổng FDI tăng lên có thể do nhiều yếu tố như: mức độ tăng trưởng khá cao trong toàn EU, đặc biệt là xu hướng gia tăng của hoạt động xuất khẩu, sự ổn định kinh tế chính trị... Song một yếu tố có tác động không nhỏ đó là tận dụng ưu thế từ đồng tiền giảm giá.

Khi đồng EURO giảm giá các nhà đầu tư nước ngoài dùng đồng ngoại tệ đổi ra đồng EURO sẽ có lợi hơn. Vì lúc đó họ sẽ đổi được nhiều EURO hơn trong khi đó lạm phát của EU thấp cho nên họ sẽ mua được nhiều nguyên vật liệu máy móc thiết bị, thuê được nhiều nhân công hơn. Theo một số tính toán lượng công nhân Châu Âu giảm khoảng 10% (nếu tính bằng đồng USD).

Cùng với sự giảm giá của đồng EURO, một thuận lợi nữa là lạm phát thấp dẫn tới lợi nhuận của các nhà đầu tư thu được trong tương lai có giá trị ổn định. Do vậy đã góp phần giảm tính phiêu lưu của các dự án đầu tư, thu nhập từ các dự án là ổn định vì vậy khuyến khích các dự án đầu tư dài hạn, tái đầu tư từ lợi nhuận của đầu tư nước ngoài tại EU.

Cùng với sự giảm giá của đồng EURO một nhân tố nữa sẽ góp phần thúc đẩy thu hút FDI của EU trong những năm tới đó là sự trở lại của dòng FDI từ EU sang các nước khác trước đây như Mỹ.

EU không chỉ là nơi tiếp nhận đầu tư lớn mà còn là khu vực đi đầu tư lớn nhất thế giới, năm 1998 EU có tổng vốn đầu tư là 386 tỷ USD, năm 1999 là 588,8 tỷ và năm 2000 là 613,4 tỷ. Với tốc độ tăng vốn đầu tư ở nước ngoài là 52%, điều đó cũng chính là tiềm lực của EU, là nơi có lượng vốn đầu tư khá lớn.

Tác động đến các hoạt động kinh tế quốc tế khác.

Ngoài hai hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. Sự giảm giá của đồng EURO còn có tác động tới nhiều lĩnh vực khác như: du lịch quốc tế, nợ nước ngoài. Khi EURO giảm giá sẽ tạo thuận lợi cho khách du lịch họ sẽ có nhiều cơ hội tiêu dùng hơn trên thị trường EU bằng túi tiền ngoại tệ không đổi của mình mang tới. Chính vì vậy EURO giảm giá đã thu hút khách du lịch, đẩy mạnh hoạt động du lịch của mình phát triển. Một ngành kinh tế quan trọng, trong điều kiện hiện nay và là một ngành có nhiều triển vọng trong điều kiện nền kinh tế phát triển cao, nhu cầu du lịch sẽ gia tăng.

Như vậy, sự giảm giá của đồng EURO trong thời gian cùng với việc làm tăng cường xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy hoạt động du lịch quốc tế... đã góp phần quan trọng trong việc EU đạt được một số chỉ tiêu kinh tế quan trọng như tỷ l ệ thất nghiệp giảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, tỷ lệ lạm phát thấp, tình hình dịch chuyển cán cân thương mại theo hướng thặng dư... đã góp phần tạo điều kiện cho EU phát triển kinh tế ổn định và bền vững.

Sơ đồ sau sẽ tóm tắt sự tác động tổng hợp của sự giảm giá đồng EURO đối với EU.

Sự biến động đồng EURO và một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam



Nguồn: voer.edu.vn/m/tinh-hinh-su-dung-va-tac-dong-cua-su-bien-dong-dong-euro/e0976a4a


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận