Theo chương XII Bộ Lao động và điều lệ BHXH ban hành kèm theo nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 thì sự thay đổi về BHXH nhìn chung được thể hiện qua các mặt.
Trên cơ sở nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng các chế độ BHXH đã đặt ra yêu cầu rất quyết định đối với công tác thu nộp BHXH vì nếu không thu được BHXH thì quỹ BHXH không có quỹ BHXH hạch toán độc lập để giảm bớt gánh nặng bao cấp của ngân sách nhà nước.
Thấm nhuần nguyên tắc ngay từ khi mới thành lập, BHXH Việt Nam đã rất coi trọng công tác thu, luôn đặt công tác thu ở vị trí hàng đầu.
Theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 quy định việc đóng góp BHXH đối với người sử dụng lao động là 15% tổng quỹ lương của doanh nghiệp, người lao động đóng góp 5% tiền lương.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm nộp BHXH cho cơ quan BHXH địa phương. Tiền lương làm căn cứ đóng góp là lương theo ngạch bậc, chức vụ thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có).
Trong những năm qua mặc dù ngành BHXH còn gặp nhiều khó khăn như điều kiện vật chất, điều kiện làm việc, công việc còn mới mẻ... song công tác thu BHXH đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Nếu so sánh kết quả thu BHXH với thời điểm trước khi BHXH Việt Nam được thành lập thì kết quả thu BHXH trong những năm qua cho chúng ta thấy: Việc hoàn thiện hệ thống các văn bản quy định làm tiền đề cho công tác thu BHXH rất được quan tâm, chú trọng.
Kết quả đạt được trong những năm vừa qua đã khẳng định phần nào sự trưởng thành của hoạt động thu BHXH cụ thể:
Bảng số liệuu trên cho thấy các chỉ tiêu công tác thu BHXH qua các năm đều gia tăng, năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt số lao động năm tham gia BHXH năm 1999 so với 1995 tăng 1303439 lao động (tăng 57,3%) BHXH 1999 thu được 4.188382 triệu đạt 106,9% kế hoạch năm.
Với kết quả trên, BHXH Việt Nam đã hình thành được quỹ BHXH tập trung, hạch toán đôc lập với ngân sách nhà nước chủ động chi trả cho người lao động, góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước trong việc chi trả cho các đối tượng được hưởng BHXH (bình quân hiện nay mỗi năm 3% nhưng mức giảm này sẽ ngày càng cao). Mặt khác quỹ BHXH có số tích luỹ sẽ ngày một tăng bảo đảm chi trả ổn định lâu dài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đạt được kết quả trên là do các nguyên nhân sau:
Riêng năm 1999 tình trạng nợ quỹ BHXH điển hình ở một số tỉnh như sau:
Điều này là do các nguyên nhân sau:
Tỉ lệ đóng góp vào quỹ BHXH ở mộ ;t số nước đóng góp trên thế giới.
Và với tỉ lệ thu như thế này thì theo dự báo của chuyên gia ILO tình hình quỹ BHXH Việt Nam trong thời gian tới như sau:
Vậy theo dự báo của các chuyên gia ILO thì tới năm 2030 quỹ BHXH Việt Nam sẽ bị thâm hụt trầm trọng.
Với những ưu nhược điểm vừa nêu trên trong công tác thu BHXH của nước ta trong thời gian đòi hỏi chúng ta cần phải có những giải pháp thích hợp nhằm tăng cường hiệu quả của công tác thu BHXH trong thời gian tới đảm bảo sự tăng trưởng ổn đinh của quỹ BHXH nói riêng và ổn định hoạt động BHXH nói chung.
Quỹ BHXH Việt Nam được ngân sách nhà nước đóng góp dưới dạng chuyển cho quỹ BHXH để chi trả cho các đối tượng được thưởng BHXH từ 1/1/1995 trở về trước.
Ngoài ra quỹ BHXH Việt Nam còn được ngân sách nhà nước trợ giúp chi trả cho các chế độ cho những người được hưởng BHXH sau ngày 1/1/1995. Trước đây do khâu thu, chi BHXH còn yếu kém nên BHXH là một gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Ngày nay sau những năm đổi mới BHXH đã dần thoát khỏi bao cấp nặng nề từ ngân sách nhà nước, ngân sách cấp cho BHXH được giảm dần (mỗi năm giảm bình quân khoảng 3% nhưng mức giảm ngày càng cao).
Đối với các khoản thu khác: từ sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức từ thiện, từ đầu tư vốn nhàn rỗi... cũng đã góp phần gia tăng quy mô của quỹ BHXH. Đặc biệt đối với hoạt động đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH có vai trò vô cùng quan trọng, bởi hoạt động bảo hiểm cũng bao gồm hoạt động tài chính, thông qua việc đầu tư, sử dụng vốn nhàn rỗi để sinh lời, có hoạt động đầu tư vốn mới đảm bảo được việc chi trả quỹ BHXH trong tương lai. Cuối năm 1999 số vốn tạm thời nhàn rỗi của BHXH là 12000 tỉ đồng. Số tiền này BHXH được chính phủ cho phép đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế xã hội của đất nước, mua trái phiếu, công trái và gửi ngân hàng của nhà nước để phát triển giá trị của quỹ. (đợt mua công trái vừa qua BHXH đã mua 500 tỉ đồng). Tổng số tiền sinh lời là 631 tỉ đồng.
Kết quả trên đạt được là do các nguyên nhân:
Mặc dù đã đạt được một số hiệu quả ở công tác này trong thời gian qua, tuy nhiên cũng ở công tác này trong thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế cần phải khắc phục.
Mặc dù có giảm nhưng ngân sách nhà nước cấp cho BHXH còn tương đối lớn nó bao gồm tất cả chi phí trợ cấp BHXHcho những người được hưởng chế độ BHXH trước 1/1/1995 và một phần chi phí các chế độ BHXH cho người được hưởng BHXH sau 1/1/1995 mà số lượng những người này hiện nay còn rất đông và do hậu quả của các chính sách, chế độ trước đây để lại nêu đây vẫn còn là mN 97;t gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
- Trong vấn đề đầu tư vốn nhàn rỗi do quỹ BHXH là một quỹ đặc biệt, liên quan đến đời sống của hàng triệu người lao động trong xã hội nên hoạt động đầu tư chỉ được sử dụng một phần vốn nhàn rỗi và phải hết sức cẩn trọng.
Vì vậy hoạt động đầu tư vốn nhàn rỗi có hiệu quả chưa cao bởi tính cẩn trọng khiđầu tư vốn (theo quy luật rủi ro càng lớn, lợi nhuận càng cao) đồng thời do thị trường chứng khoán của chúng ta mới hình thành còn nhiều vướng mắc, các cán bộ quản lý quỹ BHXH kinh nghiệm chưa nhiều với đầu tư chủ yếu là gửi ngân hàng, mua trái phiếu kho bạc, muc công trái... nên lãi suất còn thấp.
Từ các vấn đề đã nêu trong công tác thu BHXH cho chúng ta thấy được mặc dù công tác thu BHXH đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, dần dần góp phần đưa BHXH thoát khỏi sự bao cấp nặng nề của nhà nước. Tuy nhiên nó vẫn còn bộc lộ nhiều nhược điểm cần khắc phục trong thời gian tới nhằm tạo điều kiện cho việc tăng trưởng, phát triển nguồn quỹ BHXH góp phần ổn định đời sống người lao động, giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách, ổn định kinh tế - xã hội.