TƯ MÃ QUANG (1019 - 1086)
NHÀ SỬ HỌC LỖI LẠC
Tư Mã Quang, nhà chính trị nổi tiếng, đồng thời là nhà sử học lỗi lạc đời Bắc Tống. Ông quê ở Thiểm Châu, Huyện Hạ Hương Thúc Thủy (nay thuộc Tỉnh Sơn Tây), tự là Quân Thực, người đời còn gọi ông là Thúc Thủy tiên sinh.
Thời niên thiếu, ông nổi tiếng thông minh và ham học. Nhờ thụ ấm của tổ tiên, và đặc biệt nhờ có văn tài uyên bác, nên ông sớm thành đạt trên con đường hoạn lộ. Ông đỗ Tiến sĩ năm Bảo Nguyên (1037), triều Vua Tống Nhân Tông, từng trải qua nhiều chức vụ trọng yếu ở ngoài châu quận cũng như triều đình.
Đầu tiên, ông giữ chức chủ Bạ Tương Tác Lâm, phụ trách các công trình xây dựng của triều đình, rồi thăng chức Giám thư Phán Quang ở Huyện Vũ Thanh đại diện triều đình, giám sát các quan lại địa phương, rồi giữ chức Quán các Hiệu Khám Đông Tri Lễ Viện là chức quan coi việc sửa chữa hiệu đính các văn từ thư tịch thuộc Hàn lâm Viện (Nhà học giả trứ danh đời Tống, Âu Dương Tu, từng giữ chức vụ này); rồi lãnh chức Đại Chế Kiêm Thị Giảng, Tri gián Viện là cố vấn bên cạnh Hoàng đế, được tham gia góp ý kiến hoặc can gián Hoàng đế, giúp Hoàng đế soạn thảo chiếu chỉ, luật lệnh. Đến triều Vua Anh Tông (1064-1067), Ông tiến chức Trực Học sĩ rồi đức Phán Quan ở Bộ Lại, kiểm soát việc thuyên chuyển, thăng giáng quan lại. Triều Vua Thần Tông, ông được thăng làm Hàn lâm Học sĩ Quyền Ngự Sử Trung Thừa và Hàn lâm Kiêm Thị Độc Học sĩ. Các chức Thị Giảng, Thị Độc Học sĩ ở Hàn Lâm viện chuyên trách giảng giải kinh điển, giúp cho Hoàng đế hay Thái tử mở mang kiến thức để trị nước; Ngự Sử Trung Thừa là chức quan đứng đầu Ngự Sử Đài chuyên trách việc can gián nhà Vua và đàn hặc các quan.
Tư Mã Quang cực lực phản đối Tân Pháp do Tể tướng Vương An Thạch đề xướng. Ông nhiều lần tranh luận kịch liệt với Vương An Thạch, Lữ Huệ Khanh trước mặt Tống Thần Tông. Ông nói: ''Phép tắc của tổ tông là không thể thay đổi được (Tổ tông chi pháp bất khả biến); ông còn nói: Việc trị thiên hạ cũng như việc cư xử trong nhà, điều gì sai thì phải sử nếu không phải là tai họa lớn thi không nên bày đặt nhiều biến đổi”. Do vậy, năm Hy Ninh thứ 3 (1070), ông bị chuyển ra làm quan tri ở Anh Hưng nay là Tây An, Thiểm Tây; năm sau (1071), ông bị chuyển ra làm chức Phán Quang Ngự Sử Đài ở Tây Kinh (tức Lạc Dương). Tại đây, ông thoái quan, lui về ở Lạc Dương để chuyên tâm soạn sách. Sau 15 năm, đến năm Nguyên Phong thứ 8 (1085), Vua Triết Tông lên ngôi, Hoàng Thái hậu Cao Thị (Hoàng hậu của Vua Anh Tông và là mẹ đẻ của Thần Tông) giữ quyền Đồng Thính chính, quyết định mọi công việc trọng đại của Quốc gia; bà coi nhiệm vụ trước tiên của mình là phục hồi các pháp độ của tổ tông. Năm Nguyên Hựu nguyên niên (1086), Tư Mã Quang với tư cách là lãnh tụ của phát Bảo thủ nên được Hoàng Thái hậu Cao Thị vời về triều đình nhậm chức Môn Hạ Thị Lang, rồi thăng chức Thượng Thư tả Bộc Xạ kiêm Môn Hạ Thị Lang, tức là cương vị Tể tướng, chủ trì việc triều chính. Trong vòng mấy tháng, ông phế trừ hầu hết các Tân pháp của Vương An Thạch, khôi phục các chế độ cũ trước kia, bãi truất những người thuộc phái Tân đảng của Vương An Thạch, như Thái Xác, Chương Thuần. Cũng năm đó, sau tám tháng chấp chính, ông bị bệnh rồi mất được tặng Thái sư Ôn Quốc Công ban tên thụy là Văn Chính.
Ông là nhà sử học lỗi lạc, đời Vua Anh Tông niên hiệu Trị Bình (1064), ông biên soạn bộ sử từ đời Chiến quốc đến Tần Nhị Thế (gọi là sách Thông Chi gồm 8 quyển. Vua Anh Tông xem hết sức khen ngợi và đánh giá tác phẩm của Tư Mã Quang rằng: "Giám cổ kim vãng sự di tư trị đạo”. Có nghĩa là: Xem xét việc đã qua từ xưa tới nay để giúp cho đạo trị nước. Từ câu nói đó, mà đặt tên cho bộ sách là Tư Trị Thông giám.
Sau đó, chính nhà Vua Thần Tông đề lời tựa, rồi lại cử các ông Lưu Bân, Lưu Thứ, Phạm Tổ Vũ là những danh Nho bác học đương thời làm thuộc quan dưới quyền ông tiếp tục việc biên soạn. Năm Nguyên Phong thứ 7 (1084), sách biên soạn xong, thời gian hết 19 năm. Sách ghi chép sự tích các vị đế vương và công thần, bề tôi của các đời, kể từ Chiến Quốc đến hết Ngũ Đại (1362 năm); bộ sách gồm 294 quyển, riêng phần mục lục, hướng dẫn duyệt đọc, đã có tới 30 quyển; phần tham khảo chú thích những chỗ dị đồng (khảo dị) hết sức tỉ mỉ khiến cho nội dung càng được rõ ràng, phần khảo dị này gồm 30 quyển. Bộ sách còn có phần Thông giám Ngoại Kỷ, do Lưu Thứ biên soạn, thuật lại từ thời Phục Hy tới nhà Chu. Từ sau khi Tư Trị Thông Giám ra đời, tuy có người soạn tiếp nhưng đều không sánh kịp. Đời Thanh, có Tất Nguyên Phục bắt chước theo thể lệ của Thông giám, soạn sách Tục Tư Trị Thông giám thuật lại lịch sử từ triều Tống đến triều Nguyên. Tuy có những ưu điểm nhưng không đầy đủ, tinh tường và tra cứu không được cặn kẽ bằng bộ sử của Tư Mã Quang. Đây là bộ sách sử đồ sộ và phong phú, tinh tường mà bao quát nổi tiếng trong lịch sử sử học. Tư Mã Quang trước tác rất nhiều , đặc biệt nổi tiếng là Ôn Quốc Văn Chính ông Văn Tập và Kê Cổ Lục.
Một giai thoại văn học về Tư Mã Quang kể rằng: Nhân dịp Tết treo đèn, vợ con ông muốn dạo chơi ngoài phố xem đèn, ông không đồng ý nói: '' Trong nhà ta cũng có đèn, vì sao cứ nhất đinh phải ra phố mới xem được?”. Bà vợ đáp: ''Ra ngoài xem đèn, lại có thể ngắm người nữa”. Tư Mã Quang giận nói: “Thể như tôi đây, chẳng phải là người hay sao?''.
Tính hài hước, hóm hỉnh cũng là một cá tính đặc sắc của nhà chính trị kiêm sử học lỗi tạc Tư Mã Quang. Có người bảo câu chuyện xem đèn cũng phản ánh quan điểm xã hội của ông, ý tứ răn người ta xem trọng những việc bình thường chất phác của cuộc sống hàng ngày vốn có mà không nên ham thanh chuộng lạ theo thị hiếu người đời. Đó có thể cũng là cách ông nhìn nhận, phê phán đối với những người theo tân pháp đương thời chăng?
TS.BÙI QUÝ LỘ