TRẬN VỊNH HEYTE (NĂM 1944)
Ngày 7-12-1941, Nhật Bản phát động cuộc chiến tranh Thái Bình Dương bất ngờ mở cuộc tiến công đồng loạt vào các căn cứ quân sự Mỹ, Anh tại Cảng Trân Châu (Đảo Hawaii). Ba ngày sau, Nhật đổ bộ lên Đảo Luzon (Ludông) của Philippines. Trong năm 1942, Nhật kiểm soát đa phần khu vực Đông Nam Á từ Miến Điện qua Thái Lan, Đông Dương, Mã Lai, Singapore đến tận Philippines và Indonesia. Nhưng sang năm 1943, Mỹ và đồng minh chuyển sang phản công, chiếm lại những vị trí bị mất. Tới đầu năm 1944, trong khi Nhật phải tập trung lực lượng bảo vệ phần lục địa khiến cho lực lượng ở khu vực Thái Bình Dương bị mỏng đi. Như để bảo vệ Philippines, Indonesia và các đảo trong khu vực, Nhật có 700 máy bay chiến đấu, 7 tàu thiết giáp hạm, 6 tàu sân bay, 19 tàu tuần dương, 33 tàu phóng lôi, 45 tàu ngầm. Trong khi đó, Mỹ có gấp 3 lần về tàu sân bay và không quân, một lần rưỡi về lực lượng tác chiến trên bộ. Lúc này; lực tượng Mỹ ở Thái Bình Dương gồm 2 bộ phận: bộ phận thứ nhất gồm Hạm đội 3, Hạm đội 5 và một quân đoàn lính thuỷ đánh bộ do Đô đốc Nimis chỉ huy; bộ phận thứ hai gồm Hạm đội 7, tập đoàn quân 6 và tập đoàn quân 5 do Mc.Acthur (MácActơ) chỉ huy, có tập đoàn quân số một của Australia phối thuộc. Chỉ riêng lực lượng máy bay trên các tàu sân bay Mỹ có tới trên 100 chiếc.
Ngày 20-10-1944, Mỹ chính thức tổ chức đổ bộ lên Đảo Leyte (Lâytơ) nằm giữa hai đảo Luzon và Minđanao. Mỹ đã huy động vào trận đánh này tới 30 tàu sân bay, 20 tàu tuần ương hạm, 104 tàu phóng lôi, 47 tàu ngầm và hàng trăm tàu quét mìn, tàu đổ bộ, vận tải. Mỹ đã sử dụng trên 30 tàu sân bay có tới 1.280 máy bay tiêm kích. Lực lượng đổ bộ gồm tập đoàn quân 6 và 3 sư đoàn lính thuỷ đánh bộ. Suốt một tuần trước khi tiến hành chiến dịch này, Mỹ cho máy bay liên tục quấy rồi ném bom các sân bay của Nhật tại Đài Loan, Đông Dương, Singapore. Phía Nhật lúc này ở Philippines chỉ có 12 tàu sân bay, 9 tàu tuần dương hạm, 33 tàu khu trục và khoảng 500 máy bay. Ngay sau khi đoán được ý đồ của Mỹ đổ bộ vào Leyte, hai hạm đội Nhật do hai Phó Đô đốc Curita và Nisimura chỉ huy từ Indonesia đã lên đường tiến sang Philippines trợ chiến. Nhưng hai hạm đội này đã bị tàu ngầm Mỹ và máy bay Mỹ tiến công. Bốn trong số 10 tàu tuần dương hạm của Curita bị đắm trên đường đi. Ở phía Bắc, hạm đội Nhật do Osawa (Ôzaoa) chỉ huy cũng được điều động xuống giúp việc bảo vệ Philippines thì khi tới phía Đông Bắc Đảo Luzon đã gặp Hạm đội 3 của Mỹ chặn đánh. Hai tàu tuần dương hạm của Nhật bị đắm cùng 3 tàu sân bay. Một hạm đội Nhật khác do phó Đô đốc Sim chỉ huy từ Đài Loan xuống, may mắn đã tới được Vịnh Leyte nhưng bị cô lập và phải rút lui sau khi bị đánh đắm 7 tàu tuần dương hạm. Đây là trận thuỷ chiến lớn nhất ở khu vực Thái Bình Dương trong Thế chiến II. Chỉ 24 giờ hải quân Nhật tan tác. Lực lượng đổ bộ của Mỹ với 58 tàu vận tải, 290 tàu đổ bộ với trên 300 tàu chiến các loại yểm trợ đã đổ bộ lên Đảo Leyte, lập một đầu cầu để ngay sau đó đánh vào nội địa Philippines. Lính thuỷ Nhật chết tới hàng vạn người. Sau trận này lực lượng hải quân Nhật bị kiệt sức. Từ đấy khi không còn sự yểm trợ của hải quân và không quân, lực lượng Nhật trên các đảo Philippines bị suy yếu và lần lượt bị tiêu diệt.
Mỹ thu được thắng lợi lớn trong trận Leyte là do tập trung được một lực lượng áp đảo cả về không quân và thuỷ hải quân, lại khéo tận dụng sức mạnh của tàu ngầm và máy bay, tập trung đánh vào các tàu chiến lớn của Nhật.
(2; 9; 13; 16; 17; 23) TS.NGUYỄN NGỌC TUẤN