Khoáng sản có tính khan hiếm vì quá trình hình thành khoáng sản trải qua hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu năm. Trong khí đó, nhịp độ sử dụng khoáng sản tăng lên hàng ngày, hàng giờ (trong vòng 20 năm trở lại, bôxít tăng 9 lần, khí đốt tăng 5 lần, dầu mỏ tăng 4 lần, than đá tăng 2 lần, quặng sắt, mangan, phosphat, muối kali đều tăng từ 2-3 lần). Điều này cho thấy viễn cảnh về sự khan hiếm tài nguyên khoáng sản và có ý nghĩa quan trọng để xác định chính xác khả năng phục vụ cho nền kinh tế của từng loại quặng.
Tùy theo sự phân bố phân tán hay tập trung, nông hay sâu của các chất khoáng, những tiến bộ trong lĩnh vực nghiên cứu địa chất và các hoạt động thăm dò, khai thác, người ta đưa ra những thước đo khoáng sản và chỉ số khan hiếm tương ứng với độ tin cậy từ cao đến thấp là trữ lượng, trữ lượng khả năng và dự trữ.
Sự tăng trưởng là yếu tố giúp cho tài nguyên sinh vật có khả năng tái tạo khi bị sử dụng.
Đường sinh trưởng có thể chia thành 5 pha chủ yếu:
Như vậy, sinh trưởng của sinh vật luôn có 2 giới hạn:
Tình trạng tuyệt chủng sẽ xảy ra khi con người tăng mức khai thác, tăng các hoạt động phá hủy môi trường sống và sinh sản của sinh vật và khi số lượng quần thể giảm dưới ngưỡng tối thiểu, không đủ để duy trì hệ gen.
Nếu sự tuyệt chủng của loài xảy ra ở nhiều nơi thì dần dần sẽ dẫn đến tuyệt chủng loài đó trên toàn thế giới. Đó là giới hạn về khả năng tái tạo của tài nguyên sinh vật.
Khả năng phục hồi hay khả năng tự làm sạch của không khí, nước và đất trong một thời gian (từ vài giờ đến vài chục năm) nhờ cơ chế đồng hóa, phân hủy hoặc những quá trình làm giảm nồng độ các tác nhân bất lợi khác. Con người có thể tận dụng những khả năng này, để tiết kiệm chi phí làm sạch môi trường, tăng giá trị của tài nguyên.
Không khí sạch chứa 78% N, 21% O2, 0,93% Argon, 0,03% CO2, hơi nước (từ 1 dến 4% tùy theo nhiệt độ) và 0,01% các chất khác (H2, Ne, Xe ..). Thành phần các khí trong không khí ổn định là nhờ các chu trình sinh địa hóa học của thiên nhiên, đặc biệt là chu trình cacbon, nitơ.
Khả năng tự phục hồi của không khí ph 909; thuộc nhiều vào các thành phần tự nhiên khác và các sinh vật trên đất liền và đại dương.
Khả năng phục hồi của tài nguyên đất phụ thuộc vào quá trình hình thành đất. Quá trình hình thành đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên như đá mẹ (đá tạo thành đất), thực vật, khí hậu, nước, địa hình, trong đó, vi sinh vật, thảm thực vật có vai trò quan trọng trong việc tạo và giữ đất. Nếu mất thảm thực vật, đất không giữ được và quá trình phục hồi đất còn kéo dài.
Chất lượng của tài nguyên đất còn tùy thuộc vào cách thức sử dụng đất của con người.
Tốc độ tạo đất ở các vùng nhiệt đới từ 2,5-12,5 tấn/ha/năm. Nếu tốc độ xói mòn đất cao hơn mức trên, cùng với tốc độ mất rừng tăng nhanh, tài nguyên đất rất khó phục hồi.
Tài nguyên nước có khả năng tự phục hồi nhờ 2 quá trình chính là quá trình xáo trộn, quá trình khoáng hóa.
Tùy theo loại vi sinh vật, có 2 quá trình khoáng hóa khác nhau:
Ngoài 2 quá trình trên, tài nguy& #234;n nước có thể tự phục hồi nhờ quá trình lắng đọng.