Văn bản pháp luật: Nghị quyết 41/2005/NQ-HĐND

Vừ A Phía
Tỉnh Điện Biên
Nghị quyết 41/2005/NQ-HĐND
Nghị quyết
Hết hiệu lực toàn bộ
22/12/2005
12/12/2005

Tóm tắt nội dung

Về mục tiêu, nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Xã hội, Quốc phòng - An ninh năm 2006

Kế hoạch và Đầu tư
Chủ tịch
2.005
HĐND tỉnh Điện Biên

Toàn văn

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

TỈNH ĐIỆN BIÊN

_______


Số: 41/2005/NQ-HĐND

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

________________________


Điện Biên Phủ, ngày 12 tháng 12  năm 2005

NGHỊ QUYẾT

Về mục tiêu, nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Xã hội, Quốc phòng - An ninh năm 2006

______________________________

 

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

KHÓA XII, KỲ HỌP THỨ 5

 

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 03 tháng 12 năm 2004;

Sau khi xem xét các báo cáo của Uỷ ban Nhân dân tỉnh về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Xã hội năm 2005; mục tiêu nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Xã hội năm 2006; báo cáo thẩm tra số 60/BC- KTNS ngày 05/12/2005 của Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh và ý kiến của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Nhất trí nội dung đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Xã hội năm 2005; mục tiêu, nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Xã hội, Quốc phòng - An ninh năm 2006 do UBND tỉnh trình tại kỳ họp; Hội đồng Nhân dân tỉnh nhấn mạnh một số vấn đề như sau:

I- Về đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Xã hội, Quốc phòng – An ninh năm 2005:

Năm 2005, với khí thế thi đua sôi nổi chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn, chào mừng Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Đại hội thi đua yêu nước toàn tỉnh lần thứ II; các ngành, các cấp, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu, tranh thủ thời cơ thuận lợi, khắc phục khó khăn thách thức, tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Xã hội, Quốc phòng, An ninh đã đề ra.

1. Kinh tế đạt mức tăng trưởng khá, tốc độ tăng GDP đạt 10,2%; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng xác định. Hầu hết các lĩnh vực sản xuất chủ yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.

 - Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện; diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng đều tăng so với năm 2004 nhất là các loại cây lương thực, đậu tương, bông lai... Chăn nuôi gia súc và thủy sản tăng trưởng khá, dịch bệnh trong chăn nuôi được kiểm soát chặt chẽ có hiệu quả, đặc biệt đã triển khai tích cực các biện pháp phòng, chống dịch cúm gia cầm và dịch cúm ở người.

- Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng khá, thu hút đầu tư trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp có nhiều tiến bộ nhất là sản xuất thức ăn gia súc, xi măng.

- Thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển, đảm bảo cung ứng đủ vật tư, hàng hóa cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng; chất lượng và hiệu quả hoạt động dịch vụ Du lịch, Vận tải, Bưu chính viễn thông được nâng lên; kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng khá so với  năm 2004.

- Thu ngân sách trên địa bàn có nhiều cố gắng, tổng thu tăng 18% so với dự toán giao; huy động vốn đầu tư phát triển tăng 15,8% so với năm trước, đã tranh thủ được sự ủng hộ giúp đỡ của Chính phủ và các Bộ trong việc bổ sung nguồn vốn đầu tư và đảm bảo ngân sách cho các nhiệm vụ chi đột xuất phát sinh. Công tác quản lý chi ngân sách đảm bảo nguyên tắc, triệt để tiết kiệm, đáp ứng kịp thời kinh phí để thực hiện nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Xã hội, đảm bảo An ninh Quốc phòng.

- Đảm bảo tiến độ thực hiện cổ phần hóa và chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty TNHH 1 thành viên; kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển góp phần vào chuyển đổi cơ cấu lao động, giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động.

2. Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực:

 Đã duy trì, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học; tổ chức thực hiện có kết quả kế hoạch phổ cập giáo dục trung học cơ sở, chất lượng giáo dục được nâng lên, hệ thống Trung tâm học tập cộng đồng phát triển mạnh; đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề phát triển cả về quy mô và chất lượng.

 Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân có tiến bộ, chất lượng được nâng cao; thực hiện tốt chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ dưới 6 tuổi. Các mục tiêu chương trình quốc gia về y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc và bảo vệ trẻ em được thực hiện khá tốt, không để dịch bệnh lớn xẩy ra, tỉnh được Bộ Y tế công nhận đã loại trừ bệnh phong.

Hoạt động Văn hóa - Thông tin, Phát thanh - Truyền hình, Thể dục - Thể thao được đẩy mạnh, phục vụ tốt việc tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần tổ chức thành công các lễ kỷ niệm lớn của đất nước, của tỉnh và Ngày hội Văn hóa – Thể thao các dân tộc Tây Bắc, tạo được khí thế tin tưởng phấn khởi trong nhân dân các dân tộc.

Chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm tiếp tục được quan tâm chỉ đạo, mang tính xã hội hóa cao hơn; tổ chức thực hiện tốt chính sách xã hội; chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc.

3. Tình hình An ninh Chính trị và Trật tự An toàn xã hội được bảo đảm, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững; hoạt động đối ngoại tiếp tục được tăng cường, mở rộng. 

4. Tổ chức bộ máy chính quyền các cấp tiếp tục được củng cố kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên; đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức được quan tâm; giải quyết kịp thời đơn thư đề nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, không để tồn đọng kéo dài làm phát sinh điểm nóng.

Những kết quả đạt được nêu trên là rất cơ bản, là tiền đề quan trọng để tỉnh ta triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển Kinh tế - Xã hội, Quốc phòng - An ninh năm 2006 và giai đoạn 2006 - 2010; song bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần khắc phục đó là:

 Tăng trưởng kinh tế chưa vững chắc; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; các lĩnh vực sản xuất chủ yếu chuyển biến chưa mạnh, chưa tạo được các vùng sản xuất hàng hóa tập trung với khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn; việc tổ chức, thực hiện kế hoạch trồng rừng còn lúng túng, chính sách còn bất cập; hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, thị trường chưa được mở rộng, sức cạnh tranh của sản phẩm chưa cao; tiến độ triển khai thực hiện nhiều Chương trình, dự án còn chậm; kết quả thực hiện xoá đói giảm nghèo chưa vững chắc, tỷ lệ đói nghèo còn cao; hiệu quả công tác cai nghiện ma túy vẫn đạt rất thấp; tình hình tuyên truyền đạo trái phép, di cư tự do vào khu vực biên giới, buôn bán tàng trữ và sử dụng các chất ma tuý và các tệ nạn xã hội vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định; năng lực quản lý điều hành của chính quyền một số địa phương chưa cao; công tác tham mưu, đề xuất ở một số ngành, huyện thị còn thiếu chủ động, sáng tạo.

 II. Về mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2006:

1. Mục tiêu chủ yếu:

Năm 2006 là năm đầu tiên triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X; các ngành, các cấp cần tranh thủ thời cơ thuận lợi, khắc phục khó khăn thách thức, phấn đấu đạt các mục tiêu chủ yếu sau:

- Tăng trưởng GDP phấn đấu đạt trên 11%.

- Giá trị gia tăng khu vực Nông lâm nghiệp tăng 6,3%; giá trị sản xuất tăng 7,2%;

- Giá trị gia tăng các ngành Dịch vụ tăng: 12,2- 12,5%; giá trị sản suất tăng 15,64%.

- Giá trị gia tăng khu vực Công nghiệp - Xây dựng tăng 16,87%; giá trị sản xuất tăng: 18,26% (trong đó Công nghiệp tăng 19,57%, Xây dựng tăng 17,5%);

- Cơ cấu GDP năm 2006: Nông lâm ngư nghiệp: 35,89%; Dịch vụ: 35,99%; Công nghiệp - Xây dựng: 28,12%.

- Thu ngân sách trên địa bàn: 116,3 tỷ đồng.

- Tổng vốn đầu tư phát triển: 1.500 tỷ đồng.

- Tổng sản lượng lương thực 183,78 ngàn tấn, lương thực bình quân đầu người đạt 400 Kg/người/năm;

- Diện tích chè: 270ha (trong đó trồng mới: 6 ha).

- Diện tích cà phê: Giữ nguyên diện tích hiện có và trồng mới ở những nơi có điều kiện.

- Diện tích đậu tương: 10.000 ha, sản lượng đạt 12.400 tấn.

- Tốc độ phát triển đàn gia súc: 5% (trong đó đàn trâu đạt 103.258 con, tăng 3,6%, đàn bò 29.430 con tăng 6,5%; đàn lợn 221.120 con, tăng 4,98%); Sản lượng thuỷ sản: 945  tấn,

- Trồng mới 2.500 ha rừng. Trong đó: Rừng phòng hộ 1.300 ha (vốn 661);  rừng sản xuất 1.200 ha (vốn NSĐP hỗ trợ theo chính sách); Khoanh nuôi tái sinh 120 ngàn ha rừng.

- Tỷ lệ che phủ rừng đạt 42% (tăng 2% so với năm 2005).

- Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu: 3,2 triệu USD (xuất khẩu 1 triệu USD, nhập khẩu 2,2 triệu USD);

- Đạt chuẩn phổ cập THCS ở 19 xã, phường, thị trấn;

- Tuyển mới đào tạo Cao đẳng, THCN 1990 học sinh, sinh viên;

- Dân số trung bình 460 ngàn người, tỷ lệ tăng dân số 2%;

- Mức giảm tỷ lệ sinh là 1,1%o;

- Tạo việc làm mới cho 6.000 lao động; Đào tạo nghề cho 3.600 lao động, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 18,8% (tăng 2,4% so với 2005)

- Giảm tỷ lệ hộ đói nghèo 5% (từ  44,06 %  xuống còn 39% năm 2006) .

- Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng 2,2%; còn 28%;

- Tổ chức cai nghiện cho 1.500 lượt người nghiện ma túy.

- Tỷ lệ hộ được phủ sóng Đài truyền hình Việt Nam 85%, tăng 3%, tỷ lệ hộ được phủ sóng phát thanh Đài TNVN 97%;

-  93/93 xã, phường có đường ô tô đến trung tâm;

-  93/93 xã, phường có điện thoại, 79/79 xã có điểm bưu điện văn hoá xã;

- Số xã, phường có điện lưới quốc gia đến trung tâm đạt 77/93 xã, phường, (tăng 7 xã so với năm 2005).

- Tái định cư cho 1.100 hộ

2. Nhiệm vụ chủ yếu:

Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu trên, các cấp, các ngành cần tập trung thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ yếu sau:

a) Phát triển nông lâm nghiệp theo hướng mở rộng diện tích canh tác, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, gắn phát triển với quy hoạch lại các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, chủ động phòng chống thiên tai, dịch bệnh.

Chú trọng phát triển chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò) theo phương thức chăn nuôi tập trung theo vùng gắn với trồng cỏ, sinh hoá đàn bò địa phương; khuyến khích phát triển nuôi trồng thuỷ sản và phát triển ngành nghề trong nông thôn.

Đẩy nhanh tiến độ công tác quy hoạch phân định rõ 3 loại rừng trên thực địa để tập trung khoanh nuôi tái sinh rừng phòng hộ, bảo vệ rừng đặc dụng và trồng mới rừng kinh tế; kết hợp tăng cường các biện pháp quản lý bảo vệ phòng, chống cháy rừng. Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ sản xuất nông - lâm nghiệp đã được ban hành để phát triển nhanh các vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến.

b) Duy trì tốc độ phát triển cao của khu vực công nghiệp, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đẩy nhanh tiến độ xúc tiến đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp mới, phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp.

c) Đẩy mạnh phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch; tăng cường thu hút đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ, du lịch; đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Tây Trang và khai thông cửa khẩu với Trung Quốc; tăng cường các biện pháp quản lý thị trường.

Quản lý chặt chẽ ngân sách Nhà nước; khai thác hợp lý các nguồn thu, đẩy nhanh tiến độ thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất. Khai  thác và cân đối các nguồn vốn đầu tư để phát triển, đẩy mạnh tiến độ đầu tư các công trình, chương trình, dự án thuộc tất cả các nguồn vốn.

d) Đẩy mạnh thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng thực hiện chương trình phổ cập giáo dục THCS. Tiếp tục mở rộng, nâng cao chất lượng công tác đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề; chú trọng đào tạo nghề cho lao động nông thôn và học sinh dân tộc nội trú theo chương trình của Chính phủ.

đ) Thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, không để dịch bệnh lớn sảy ra trên địa bàn tỉnh; các chương trình mục tiêu quốc gia về dân số KHHGĐ; đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế.

e) Quan tâm thực hiện tốt chính sách thương binh, liệt sỹ, người có công, các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của Nhà nước; nâng cao hiệu quả chương trình giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, cai nghiện ma túy.

f) Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, phong trào thể dục thể thao quần chúng, tổ chức thành công Đại hội TDTT toàn tỉnh lần thứ VII. Tăng cường thời lượng Truyền hình, Phát thanh, nhất là phát thanh bằng tiếng dân tộc. Nâng cao chất lượng các đề tài nghiên cứu khoa học theo hướng phục vụ trực tiếp cho sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.

Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao để thúc đẩy phong trào văn hóa văn nghệ thể thao quần chúng sôi nổi, sâu rộng trong toàn tỉnh. 

g) Triển khai thực hiện chương trình cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2006 - 2010; làm tốt công tác thanh tra, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế trong việc đảm bảo an ninh trật tự; thu hút đầu tư.

h) Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển Kinh tế - Xã hội với củng cố Quốc phòng - An ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia; chủ động nắm chắc tình hình không để đột xuất xấu xẩy ra trong bất kỳ tình huống nào; Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc; thực hiện có hiệu quả các chương trình phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy, giải quyết hiệu quả những vấn đề bức xúc về an ninh trật tự đảm bảo giữ vững ổn định An ninh Chính trị và Trật tự An toàn Xã hội trên địa bàn.

 Điều 2. Giao UBND tỉnh có trách nhiệm tăng cường giải pháp chỉ đạo điều hành để tổ chức thực hiện tốt những nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế - Xã hội, Quốc phòng - an ninh đã được HĐND tỉnh thông qua tại kỳ họp này.

Điều 3. Giao Thường trực HĐND tỉnh, các Ban của HĐND tỉnh và đại biểu HĐND tỉnh có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Nghị quyết.

Nghị quyết này đã được Hội đồng Nhân dân tỉnh Điện Biên khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua./.

 

CHỦ TỊCH

 

(Đã ký)

 

 Vừ A Phía

 

 


Nguồn: vbpl.vn/dienbien/Pages/vbpq-thuoctinh.aspx?ItemID=34026&Keyword=


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận