Văn bản pháp luật: Quyết định 1251/QĐ

 
Toàn quốc
Sách-Nhà xuất bản Giáo dục;
Quyết định 1251/QĐ
Quyết định
Hết hiệu lực toàn bộ
03/12/1973
03/12/1973

Tóm tắt nội dung

Về việc ban hành Quy chế trường bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn

 
1.973
 

Toàn văn

Quyết định

QUYẾT ĐỊNH

của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Số 1251/QĐ
ngày 3 tháng 12 năm 1973 ban hành bản
"Quy chế trường Bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn"

BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC

- Căn cứ Nghị định số 19-CP ngày 23-01-1966 và Nghị định số 6-CP ngày 7-01-1971 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ Giáo dục;

- Căn cứ Chỉ thị 110-CP ngày 13-7-1968 của Hội đồng Chính phủ quy định phương hướng, nhiệm vụ phát triển bổ túc văn hoá và tăng cường lãnh đạo công tác bổ túc văn hoá;

- Xét yêu cầu mới của việc xây dựng nền nếp quản lý, giảng dạy và học tập trong các trường bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn;

- Theo đề nghị của ông Vụ trưởng Vụ Bổ túc văn hoá,

QUYẾT ĐỊNH

Điều 1. Ban hành bản quy chế "Trường bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn" (đính kèm theo Quyết định này).

Điều 2. Các ông Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ Bổ túc văn hoá, Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ, Vụ trưởng Vụ kế hoạch tài vụ Bộ Giáo dục, các ông Giám đốc Sở và Trưởng ty Giáo dục chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.

 

QUY CHẾ

Trường bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1251-QĐ ngày 3 tháng 12 năm 1973
của Bộ Giáo dục)

Để đáp ứng yêu cầu học tập của cán bộ, thanh niên và xã viên ở nông thôn trước tình hình mới, bảo đảm phong trào bổ túc văn hoá ở nông thôn phát triển vững chắc, ổn định, có nền nếp, chất lượng giảng dạy và học tập được nâng cao, phát huy tác dụng mạnh mẽ của nhà trường đối với sản xuất và đời sống, Bộ Giáo dục ban hành quy chế trường bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn để thay thế cho các bản quy chế tạm thời đã ban hành từ trước đến nay.

 

Chương I
MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG CỦA TRƯỜNG

Điều 1. Mục đích của trường bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn là: từng bước nâng cao trình độ văn hoá cho cán bộ, thanh niên và nhân dân lao động; làm cơ sở cho việc học tập chính trị, khoa học kỹ thuật có kết quả để phục vụ trực tiếp công tác, sản xuất, chiến đấu tốt hơn.

Điều 2. Đối tượng của trường bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn bao gồm cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên, xã viên hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã thủ công nghiệp và học sinh phổ thông đã trở về tham gia sản xuất có nhu cầu học tập.

Nhà trường cần đặc biệt coi trọng tổ chức học tập cho những cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền, các ngành, các đoàn thể, cán bộ trẻ, cán bộ nữ và thanh niên, chú trọng đảng viên trẻ, đoàn viên thanh niên lao động, thanh niên tích cực.

 

Chương II

CHƯƠNG TRÌNH HỌC

Điều 3. Các trường bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn đều dạy theo chương trình và sách giáo khoa bổ túc văn hoá do Bộ Giáo dục quy định; không được tuỳ tiện thay đổi. Đối với đối tượng trẻ có yêu cầu đào tạo thì học chương trình có hệ thống; đối với cán bộ, đảng viên và xã viên trên dưới 40 tuổi, khả năng tiếp thu văn hoá, khoa học kỹ thuật có khó khăn thì học chương trình hệ bồi dưỡng.

Để kịp thời phục vụ nhiệm vụ chính trị, sản xuất, chiến đấu và có đời sống của từng địa phương, mỗi địa phương có thể bổ sung một số bài cần thiết theo quy định trong chương trình. Các bài bổ sung phải được Sở, Ty giáo dục đồng ý.

 

Chương III

TỔ CHỨC TRƯỜNG LỚP VÀ CHẾ ĐỘ HỌC TẬP

Điều 4. Trường bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn tổ chức theo đơn vị xã và do Uỷ ban hành chính xã quản lý. Việc thành lập trường phải do Uỷ ban hành chính huyện cho phép và ra quyết định công nhận đối với trường cấp I, II; Uỷ ban hành chính tỉnh cho phép và ra quyết định thành lập đối với trường cấp III. Phòng giáo dục huyện và Sở, Ty giáo dục giúp uỷ ban hành chính xét duyệt và hướng dẫn về quy chế tổ chức, hoạt động chuyên môn.

Nhà trường phải được Đảng uỷ, uỷ ban hành chính xã, Đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh và các cơ quan, đoàn thể khác ở trong xã quan tâm xây dựng về mọi mặt tư tưởng chính trị, tổ chức, nhân sự, cơ sở vật chất, v. v... như đối với các ngành khác ở trong xã.

Đối với trường bổ túc văn hoá cấp III tại chức nông thôn mở cho một số xã gần nhau thì những xã có học viên đi học đều có trách nhiệm góp phần xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức trường lớp và giới thiệu học viên. Trường đặt ở xã nào thì xã đó có trách nhiệm giúp đỡ trường về mọi mặt.

Điều 5. Những tiêu chuẩn để công nhận là một trường bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn:

a) Có từ 4 lớp trở lên, mỗi lớp có ít nhất 10 học viên đúng trình độ theo học thường xuyên.

b) Phải có đủ giáo viên có trình độ nói trong điều 11 của quy chế này, có ban giám hiệu đủ trình độ để lãnh đạo và thực sự làm việc.

c) Phải có đủ phòng học cho các lớp với một số điều kiện tối thiểu: đủ bàn ghế cho người học, người dạy, đủ bảng đen, đủ ánh sáng...

d) Phải có tương đối đủ sách giáo khoa và các thiết bị khác phục vụ cho việc giảng dạy và học tập.

đ) Phải có đủ sổ sách cần thiết: mỗi lớp phải có sổ gọi tên và ghi điểm, sổ ghi đầu bài, sổ sinh hoạt lớp, học bạ của học viên; nhà trường phải có sổ đăng ký học viên, sổ nghị quyết, sinh hoạt hội đồng nhà trường, sổ rút kinh nghiệm, sổ ghi tài sản thiết bị ... Các sổ sách phải có người bảo quản chu đáo, ghi chép đầy đủ, rõ ràng theo nội dung quy định của Bộ và được sự kiểm tra thường xuyên của ban giám hiệu và giáo viên chủ nhiệm lớp.

e) Phải giảng dạy đúng, đủ chương trình và sách giáo khoa của Bộ Giáo dục quy định cho loại trường đó.

Những trường đã được cấp trên công nhận theo quyền hạn ở điều 6 đều có con dấu riêng theo mẫu và thủ tục quy định hiện hành.

Điều 6. Tên gọi các trường và chế độ học tập:

a) Trường có các lớp cấp I và 1 lớp cấp II gọi là trường bổ túc văn hoá cấp I xã

b) Trường có các lớp cấp I và 2 lớp cấp II trở lên gọi là trưởng bổ túc văn hoá cấp I và II xã;

c) Trường có các lớp cấp I, cấp II và 2 lớp cấp III trở lên gọi là trường bổ túc văn hoá ba cấp. Tuỳ theo yêu cầu từng giai đoạn, các trường trên sẽ tổ chức riêng các lớp cho cán bộ chủ chốt, lớp vừa học vừa làm của thanh niên, lớp ba đảm đang ...

Các trường trên đều học theo chế độ tại chức, vừa làm vừa học, và tuỳ theo yêu cầu của từng loại đối tượng, tuỳ điều kiện, thời gian cho phép, mà tổ chức học theo chế độ 2 buổi, 3 buổi hoặc 5 - 6 buổi một tuần để đảm bảo ít nhất 1 năm học xong 1 lớp.

 

Chương IV
TỔ CHỨC, QUẢN LÝ, KIỂM TRA, BÁO CÁO

Điều 7. Mỗi trường bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn phải có một ban giám hiệu gồm 3 người: 1 hiệu trưởng, 1 hiệu phó và 1 uỷ viên.

Ban giám hiệu trường bổ túc văn hoá tại chức cấp I và II ở xã do uỷ ban hành chính xã và Phòng giáo dục đề nghị, uỷ ban hành chính huyện xét duyệt và công nhận. Ban giám hiệu trường bổ túc văn hoá tại chức ba cấp do uỷ ban hành chính huyện đề nghị, uỷ ban hành chính tỉnh xét duyệt và công nhận.

Ban giám hiệu cũng như các tổ chức khác ở trong nhà trường nói trong Điều 9 và Điều 10 cần được ổn định trong cả năm học. Muốn thay đổi thành viên của Ban Giám hiệu thì phải được cơ quan quyết định công nhận đồng ý.

Nhiệm vụ chủ yếu của ban giám hiệu là:

a) Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển hằng năm của nhà trường;

b) Tổ chức và quản lý trường lớp, chỉ đạo các mặt hoạt động của nhà trường, thực hiện quy chế của trường;

c) Chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện các nền nếp quy định trong việc giảng dạy, học tập nhằm đạt các yêu cầu về chất lượng một cách vững chắc;

d) Xây dựng và quản lý các cơ sở vật chất và thiết bị phục vụ đắc lực cho việc giảng dạy và học tập;

đ) Giúp uỷ ban hành chính xã thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với giáo viên và chế độ học tập của học viên;

e) Ban giám hiệu ít nhất mỗi tháng họp chính thức một lần để kiểm điểm tình hình giảng dạy của giáo viên, tình hình học tập của học viên, việc thực hiện chương trình và các mặt hoạt động khác của nhà trường trong tháng qua và bàn công tác tháng tới.

g) Ban giám hiệu thường xuyên tổ chức kiểm tra việc giảng dạy và học tập để nắm chắc tình hình từng thời kỳ và đề ra các chủ trương, biện pháp cụ thể để đẩy mạnh phong trào thi đua "Hai tốt", thi đua xây dựng trường tiên tiến.

h) Sau khi khai giảng, khi kết thúc học kỳ I và kết thúc năm học, ban giám hiệu phải báo cáo toàn bộ tình hình nhà trường cho Đảng uỷ, uỷ ban hành chính xã và Phòng giáo dục huyện biết. Ngoài ra, có tình hình gì đột xuất, hoặc cấp trên yêu cầu báo cáo một vấn đề nào đó của nhà trường thì ban giám hiệu phải báo cáo kịp thời cho cơ quan có trách nhiệm và xin ý kiến giải quyết.

Điều 8. Nhiệm vụ của Hiệu trưởng, Hiệu phó và Uỷ viên:

a) Hiệu trưởng (do uỷ ban hành chính địa phương cử) có nhiệm vụ phụ trách chung và trực tiếp phụ trách các công tác chính sau đây:

- Lãnh đạo tư tưởng chính trị trong nhà trường, lãnh đạo thi đua giảng dạy và học tập tốt trong giáo viên và học viên, chỉ đạo thực hiện yêu cầu giáo dục chính trị tư tưởng trong chương trình học;

- Nắm tình hình chung của trường để đề xuất với Đảng uỷ và uỷ ban hành chính xã hoặc ban lãnh đạo bổ túc văn hoá xã những vấn đề cần giải quyết như: xây dựng đội ngũ giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất và thiết bị cho trường, bảo đảm chế độ và điều kiện học tập cho học viên, bàn những biện pháp chính để đưa các hoạt động của nhà trường vào nền nếp;

- Quan hệ chặt chẽ với các ngành, các đoàn thể, các hợp tác xã, nhắc nhở, đôn đốc các ngành, các hợp tác xã làm tròn nhiệm vụ của mình trong việc huy động và quản lý học viên và góp phần xây dựng trường;

- Trực tiếp đôn đốc việc học tập của cán bộ;

- Lãnh đạo để bảo đảm việc giảng dạy đi đúng mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục của nhà trường.

b) Hiệu phó (thường là giáo viên chuyên trách, nơi chưa có giáo viên chuyên trách thì cử một giáo viên có năng lực chuyên môn) có nhiệm vụ quản lý chuyên môn, thường trực ban giám hiệu và thay mặt hiệu trưởng giải quyết các công việc của nhà trường khi hiệu trưởng vắng mặt. Cụ thể là:

- Chỉ đạo việc thực hiện chương trình, kế hoạch giảng dạy và các chế độ thuộc về nghiệp vụ như: thi cử, kiểm tra trình độ văn hoá của học viên...;

- Tổ chức bồi dưỡng giáo viên nâng cao trình độ văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ. Chủ trì các buổi sinh hoạt chuyên môn của giáo viên;

- Trực tiếp giảng dạy một số giờ theo quy định của Bộ Giáo dục và do sự phân công của ban giám hiệu hoặc cơ quan giáo dục cấp trên;

- Uỷ viên (là cán sự bổ túc văn hoá hoặc bí thư đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh) phụ trách tài chính và cơ sở vật chất. Cụ thể là:

- Tổ chức việc xây dựng và quản lý cơ sở vật chất và thiết bị của nhà trường bao gồm trường sở, bàn ghế, đồ dùng dạy học, tủ sách, cơ sở thí nghiệm, thực hành kỹ thuật, v.v...

- Thu học phí của học viên và trả thù lao cho giáo viên, giữ quỹ của nhà trường.

Điều 9. Hội đồng giáo viên:

Hội đồng giáo viên bao gồm tất cả những người tham gia giảng dạy trong trường do Hiệu trưởng làm Chủ tịch Hội đồng và một giáo viên có năng lực chuyên môn làm Thư ký Hội đồng.

Nhiệm vụ chủ yếu của hội đồng giáo viên là: bàn bạc tập thể những công việc của nhà trường như phân công giảng dạy các lớp, bàn biện pháp thực hiện tốt chương trình, kế hoạch và phương pháp giảng dạy cho thích hợp với đối tượng học viên; nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập (thăm lớp, dự lớp, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau về soạn bài, lên lớp, chuẩn bị thí nghiệm, thực hành, v.v... giúp đỡ học viên về phương pháp học tập); rút đúc kinh nghiệm và tổng kết kinh nghiệm về các hoạt động của nhà trường, nhằm đảm bảo sự nhất trí của tập thể giáo viên, phát huy tính tích cực, sáng tạo của giáo viên và học sinh. Hội đồng giáo viên mỗi tháng họp một lần.

Điều 10. Các tổ chức khác trong nhà trường.

- Nếu trường có nhiều cấp hoặc nhiều lớp trong từng hình thức học thì mỗi cấp hoặc hình thức học chia thành một khối. Mỗi khối có một khối trưởng và một khối phó. Các khối trưởng, khối phó có trách nhiệm quản lý các mặt hoạt động của khối, thực hiện các nghị quyết của ban giám hiệu và kịp thời báo cáo tình hình của khối cho ban giám hiệu biết.

- Mỗi lớp có một giáo viên chủ nhiệm. Các giáo viên chủ nhiệm chịu trách nhiệm trước ban giám hiệu về toàn bộ hoạt động của lớp mình phụ trách, phối hợp với các giáo viên khác để điều hoà công tác giảng dạy và học tập ở trong lớp nhằm nâng cao chất lượng học tập của học viên trong cả lớp.

- Các giáo viên cấp I thành lập chung một tổ chuyên môn. Các giáo viên cấp II, cấp III chia làm các tổ: tự nhiên và xã hội. Mỗi tổ có một tổ trưởng. Nếu tổ có 10 người trở lên thì có thêm một tổ phó. Các tổ trưởng, tổ phó chuyên môn có trách nhiệm lãnh đạo các giáo viên trong tổ chức hiện tốt kế hoạch giảng dạy, rút đúc kinh nghiệm giảng dạy, giúp nhau bồi dưỡng chuyên môn nâng cao hiệu suất bài giảng, đảm bảo mỗi tháng ít nhất sinh hoạt tổ một lần.

- Thư ký hội đồng giáo viên, khối trưởng, khối phó, giáo viên chủ nhiệm, tổ trưởng, tổ phó chuyên môn do ban giám hiệu chỉ định.

- Những trường lớp cần tổ chức thêm bộ phận giáo vụ để giúp đỡ ban giám hiệu về mặt chuyên môn, điều hoà việc giảng dạy ở các lớp ... Bộ phận giáo vụ do hiệu phó phụ trách và gồm có các đồng chí: thư ký hội đồng, các tổ trưởng chuyên môn.

 

Chương V
GIÁO VIÊN

Điều 11. Giáo viên dạy trường bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn gồm: giáo viên chuyên trách, giáo viên nghiệp dư chuyên môn hoá, giáo viên phổ thông tham gia dạy bổ túc văn hoá và những người có trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật khác ở cơ sở đều phải đạt những tiêu chuẩn chung sau đây:

a) Phải có trình độ văn hoá cao hơn học viên một cấp: dạy cấp I phải tốt nghiệp cấp II phổ thông hay bổ túc văn hoá và phải được bồi dưỡng ít nhất là 3 tháng về nghiệp vụ sư phạm; dạy cấp II phải tốt nghiệp cấp III phổ thông hay bổ túc văn hoá và phải được bồi dưỡng ít nhất là 6 tháng về nghiệp vụ sư phạm; dạy cấp III phải tốt nghiệp đại học sư phạm hoặc tốt nghiệp các trường đại học khác. những nơi có khó khăn, không có đủ giáo viên theo tiêu chuẩn trên thì giáo viên dạy ở các lớp đầu cấp I và đầu cấp II ít nhất cũng phải có trình độ văn hoá cao hơn học viên 2 lớp. Giáo viên chuyên trách ít nhất phải có trình độ văn hoá và nghiệp vụ sư phạm như đã quy định ở trên đối với giáo viên dạy cấp II; hoặc đỗ sư phạm cấp II; ở miền núi thì có thể thấp hơn.

Riêng giáo viên giảng dạy các môn về khoa học kỹ thuật cấp II hoặc cấp III bổ túc văn hoá thì cố gắng sử dụng những người đã tốt nghiệp trung cấp kỹ thuật trở lên của ngành nghề đó.

b) Phải nắm được những nguyên tắc và phương pháp giảng dạy cơ bản và biết vận dụng vào việc giảng dạy văn hoá cho người lớn.

c) Có tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình cách mạng cao được quần chúng yêu mến và tin cậy.

d) Đối với giáo viên nghiệp dư chuyên môn hoá, giáo viên phổ thông tham gia dạy bổ túc văn hoá, cần có điều kiện đảm bảo giảng dạy liên tục trong cả một năm học, trong trường hợp khó khăn cũng nên đảm bảo giảng dạy liên tục trong một học kỳ.

Điều 12. Trước khi khai giảng năm học, uỷ ban hành chính xã phải xem xét bố trí lại đội ngũ giáo viên cho nhà trường theo đúng tiêu chuẩn nói trong điều 11, lập danh sách gửi cho Phòng giáo dục huyện xét duyệt; đối với giáo viên cấp III do Ty giáo dục xét duyệt. Trong năm học, nếu cần thay đổi giáo viên, thì cũng phải được cơ quan xét duyệt đồng ý.

Điều 13. Tất cả các giáo viên có nhiệm vụ giảng dạy tốt bộ môn được phân công, phải thực hiện đầy đủ các khâu liên hoàn của công tác giảng dạy (soạn, giảng, chấm, làm đồ dùng dạy học, phụ đạo), tham gia đầy đủ các lớp học hay hội nghị về chuyên môn (kể cả các buổi sinh hoạt chuyên môn thường kỳ của nhóm, tổ giáo viên và hội đồng nhà trường), phải có hồ sơ giảng dạy (sách giáo khoa, giáo án, kế hoạch giảng dạy, đồ dùng dạy học, những sổ sách cần thiết). Cụ thể mỗi giáo viên phải:

- Nghiên cứu nắm vững chương trình, sách giáo khoa của lớp hoặc môn mình phụ trách và những lớp hoặc môn có liên quan;

- Làm kế hoạch giảng dạy;

- Soạn giáo án và lên lớp giảng dạy, tổ chức thực hành thí nghiệm, làm đồ dùng giảng dạy;

- Theo dõi, hướng dẫn việc học tập ở nhà của học viên;

- Chấm bài, kiểm tra, cho điểm và đánh giá kết quả học tập của học viên;

- Thường xuyên tự rút kinh nghiệm giảng dạy và học tập kinh nghiệm của các giáo viên khác.

Riêng đối với giáo viên chuyên trách, ngoài việc giảng dạy tốt một số giờ được phân công, còn cần phải làm tốt vai trò nòng cốt trong chuyên môn và giúp hiệu trưởng làm tham mưu cho cấp uỷ đảng và chính quyền về việc chỉ đạo phát triển công tác bổ túc văn hoá ở địa phương.

Điều 14. Chế độ, chính sách đối với giáo viên.

a) Giáo viên chuyên trách:

Giáo viên chuyên trách bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn có nhiệm vụ sử dụng toàn bộ thời gian lao động của mình vào công tác bổ túc văn hoá. Cấp quản lý giáo viên chuyên trách cần tạo điều kiện cho họ làm tròn nhiệm vụ trong mọi hoàn cảnh, không yêu cầu họ làm những việc ngoài những điều quy định của Bộ Giáo dục và những việc đã ghi trong điều 13 cũng như các điều khoản về công tác chuyên môn trong nhà trường nói trong quy chế này.

Về chế độ và chính sách cụ thể đối với giáo viên chuyên trách cần áp dụng theo quy định của Bộ Giáo dục.

b) Giáo viên nghiệp dư: Là những người vừa sản xuất hoặc công tác, vừa tham gia dạy bổ túc văn hoá tại chức ở nông thôn. Chế độ và chính sách đối với loại giáo viên này thực hiện theo thông tư Liên Bộ Giáo dục và Uỷ ban Nông nghiệp Trung ương.

c) Các loại cán bộ, giáo viên khác tham gia dạy bổ túc văn hoá:

Tuỳ theo ngân sách của từng địa phương (tỉnh, huyện, xã), tuỳ theo tình hình và khả năng làm việc của ban giám hiệu và các giáo viên khác (giáo viên phổ thông, cán bộ kỹ thuật ... tham gia dạy bổ túc văn hoá), mỗi nơi cần nghiên cứu để có một số chế độ, chính sách đãi ngộ thích hợp (tiền, công điểm, tặng phẩm...) để tạo điều kiện cho anh chị em làm việc tốt.

 

Chương VI
HỌC VIÊN

Điều 15. Học viên phải luôn luôn xác định mục đích chính của việc học bổ túc văn hoá nâng cao trình độ văn hoá nhằm đẩy mạnh sản xuất, cải tiến kỹ thuật, cải tiến công tác quản lý ở nông thôn. Học viên phải tự giác xem việc đi học bổ túc văn hoá không những là một quyền lợi, mà còn là một nghĩa vụ đối với Tổ quốc, nhất là các cán bộ, đảng viên và đoàn viên thanh niên. Vì vậy, học viên phải cố gắng khắc phục khó khăn để thường xuyên đi học đều đặn, học đầy đủ chương trình, thực hiện đúng nội quy, kế hoạch học tập của nhà trường, đóng học phí đầy đủ và tích cực tham gia xây dựng nhà trường về mọi mặt.

Học phí do học viên đóng góp theo quy định của Liên Bộ Giáo dục và Uỷ ban Nông nghiệp Trung ương.

Điều 16. Học viên muốn vào học lớp nào phải nạp đủ giấy tờ cần thiết, chứng thực lớp học hoặc cấp học đã học qua. Trường hợp cần thiết, nhà trường có thể tổ chức kiểm tra trình độ văn hoá, sắp xếp vào các lớp cho đúng trình độ.

Điều 17. Mỗi học viên phải có một học bạ, hàng năm học bạ phải được ghi đầy đủ kết quả và thành tích học tập, thực hành khoa học, kỹ thuật, đồng thời có ý kiến nhận xét chung của giáo viên chủ nhiệm.

 

Chương VII
KIỂM TRA LÊN LỚP VÀ THI HẾT CẤP

Điều 18. Để đảm bảo cho học viên học tập kết quả và tiến lên vững chắc, nhà trường phải tổ chức việc kiểm tra lên lớp và tổ chức thi hết cấp chặt chẽ và kịp thời theo quy chế của Bộ Giáo dục.

Trước khi kiểm tra hoặc thi, nhà trường phải có kế hoạch giúp học viên ôn tập, hệ thống hoá kiến thức các môn học.

Điều 19. Điều kiện lên lớp và thi hết cấp:

1. Lên lớp.

a) Phải căn bản học hết chương trình các bộ môn và làm tương đối đầy đủ các bài kiểm tra hằng tháng;

b) Thời gian nghỉ học không quá 1/5 số thời gian học trong một lớp. Nếu học viên nào nghỉ quá 1/5 thời gian thực học thì nhà trường phải có kế hoạch giúp đỡ học viên ôn tập phần chương trình chưa được học;

c) Những học viên có các điểm tổng kết cuối năm đều đạt trung bình trở lên, được lên lớp thẳng. Những học viên có môn nào đạt dưới trung bình thì phải kiểm tra lại môn ấy. Nếu kiểm tra lại mà còn 1 trong 3 môn: Văn, toán, hoặc kỹ thuật nông nghiệp chưa đạt trung bình thì không được lên lớp.

2. Thi hết cấp.

Việc thi hết cấp được tiến hành theo quy chế thi hết cấp bổ túc văn hoá của Bộ Giáo dục ban hành.

 

Chương VIII
KHEN THƯỞNG - KỶ LUẬT

Điều 20. Các trường bổ túc văn hoá tại chức nông thôn cần tích cực đẩy mạnh phong trào thi đua "Hai tốt" (giảng dạy tốt, học tập tốt) trong toàn trường, phấn đấu xây dựng nhà trường đạt danh hiệu "Trường bổ túc văn hoá tiên tiến" theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục. Các trường có thành tích thực hiện tốt bản quy chế đều được xét khen thưởng thích đáng.

Giáo viên, học viên, giảng dạy, học tập tốt và có nhiều thành tích trong việc xây dựng nhà trường thì được xét tặng các danh hiệu thi đua theo quy định chung của ngành và được nhà trường đề nghị lên cấp trên khen thưởng hoặc được tuyên dương trong các đợt sơ kết, tổng kết của toàn trường.

Điều 21. Trường nào không thực hiện đúng bản quy chế thì tuỳ theo khuyết điểm ít hay nhiều sẽ bị phê bình, khiển trách hoặc huỷ bỏ việc công nhận trường. Riêng việc huỷ bỏ công nhận trường do uỷ ban hành chính cho phép thành lập trường quyết định.

Giáo viên, học viên vi phạm nội quy của nhà trường làm tổn thất đến thanh danh hoặc làm thiệt hại tài sản của nhà trường thì bị phê bình, cảnh cáo, đưa ra khỏi trường hoặc phải đền bù thích đáng. Việc đưa ra khỏi trường sẽ do Sở, Ty giáo dục quyết định kỷ luật sau khi được sự đồng ý của uỷ ban hành chính cho phép thành lập trường.

 

Chương IX
TÀI CHÍNH VÀ CƠ SỞ VẬT CHẤT

Điều 22. Kinh phí của trường bổ túc văn hoá tại chức nông thôn chủ yếu là nguồn thu học phí của học viên đóng hàng tháng hoặc từng vụ. Ngoài khoản thu học phí còn có những khoản trợ cấp cho bổ túc văn hoá lấy ở quỹ công ích của hợp tác xã (chỉ thị 110/CP ngày 13-7-1968 của Hội đồng Chính phủ và Thông tư 186-TTg ngày 2-7-1971 của Thủ tướng Chính phủ) hoặc tiền thu hoạch do tổ chức lao động sản xuất, thực nghiệm, ngân sách xã.

Điều 23. Các khoản thu ghi ở Điều 22 chỉ dùng để chi cho những việc sau đây:

a) Thù lao cho các loại cán bộ, giáo viên như đã ghi ở Điều 14;

b) Mua sắm phương tiện để giảng dạy như sách giáo khoa, sách tham khảo, sổ sách của trường lớp, đồ dùng dạy học, văn phòng phẩm, bồi dưỡng cho giáo viên, ban giám hiệu và các khoản chi khác phục vụ cho các cuộc hội thi về chuyên môn, bồi dưỡng giáo viên, thi cử, tập san ...;

c) Thưởng thi đua cuối học kỳ 1 và cuối năm.

Điều 24. Việc thu chi phải có biên lai, sổ sách thu chi đúng nguyên tắc tài chính. Kế hoạch thu chi phải được tập thể ban giám hiệu thông qua. Phải thực hiện đúng nguyên tắc quản lý tiền mặt. Cuối học kỳ và cuối năm học, người phụ trách tài chính phải báo cáo công khai tình hình thu, chi trước hội đồng nhà trường, báo cáo với uỷ ban hành chính xã và phòng Giáo dục huyện, đồng thời, lên bảng tài chính công khai cho toàn trường biết.

Cần bảo đảm cân đối giữa thu và chi trong từng năm học. Nếu đã tận thu học phí mà vẫn chưa đủ chi thì đề nghị trích quỹ công ích hợp tác xã. Nếu đã chi các khoản (trong điều 23) mà còn thừa thì phải giữ lại để chi cho năm học sau, tuyệt đối không được sử dụng số tiền thừa đó một cách vô nguyên tắc như liên hoan hoặc chi cho giáo viên, học viên, v.v... Khi nhà trường giải thể, toàn bộ tài chính và tài sản của nhà trường phải nộp cho Nhà nước. Uỷ ban hành chính xã có trách nhiệm kiểm tra việc thu, chi của nhà trường.

Điều 25. Cơ sở vật chất trường bổ túc văn hoá tại chức nông thôn cần được xây dựng, quản lý chu đáo, chặt chẽ. Nếu có điều kiện thì phấn đấu xây dựng cơ sở vật chất riêng, nhất là các lớp học của cán bộ (trường sở, bàn, ghế, đồ dùng dạy học, khu vực thí nghiệm, thực hành chăn nuôi, trồng trọt...). Phải có sổ sách ghi đầy đủ các tài sản chung của trường, thường kỳ kiểm kê, có biện pháp xử lý thích đáng các tài sản bị tiêu hao hoặc mất mát. Biện pháp này được quy định theo Nghị định số 49-CP ngày 9-4-1968 của Hội đồng Chính phủ và Thông tư số 128-TT/LB ngày 24-7-1968 của Liên Bộ Tài chính - Lao động - Công đoàn và văn bản bổ sung số 148/KHTV ngày 7-6-1968 của Bộ Giáo dục.

 

Chương X
THỰC HIỆN

Điều 26. Bản quy chế này có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Các quy định trước đây trái với quy chế này đều không có giá trị.


Nguồn: vbpl.vn/TW/Pages/vbpq-thuoctinh.aspx?ItemID=1694&Keyword=


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận