QUYếT địNH QUYẾT ĐỊNH
Về điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 327/CT ngày 15/9/1992 của chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ)
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Để thực hiện Chương trình 327 tập trung, đạt hiệu quả cao, phù hợp thực tiễn;
Xét đề nghị của Ban chỉ đạo Chương trình 327 Trung ương và các Bộ trưởng: Lâm nghiệp, Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội, Xây dựng, Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Uỷ ban Dân tộc và Miền núi trong phiê họp ngày 13 tháng 6 năm 1995;
QUYẾT ĐỊNH:
A- MỤC TIÊU, PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH 327
Điều 1.
Từ năm 1996 trở đi, Chương trình 327 thực chất là chương trình quốc gia về tạo mới và bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Chương trình này thực hiện theo dự án, chủ yếu theo phương thức lâm nông kết hợp, lấy hộ gia đình dự án làm động lực thực hiện, chủ dự án là "bà đỡ" làm dịch vụ hai đầu cho hộ, nhằm bảo đảm năng lực phòng hộ bền vững của quốc gia; góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai, củng cố quốc phòng, an ninh, sử dụng có hiệu quả đất đai, từng bước nâng cao đời sống và gắn lợi ích của hộ với lợi ích quốc gia.
Việc phủ xanh đồi núi trọc để tạo mới rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, lấy trồng mới là chủ yếu, chỉ khoanh nuôi tái sinh rừng nơi thực sự có hiệu quả, phải thực hiện tập trung, dứt điểm để tạo thành rừng phòng hộ liền khoảnh, liền vùng.
Việc bảo vệ rừng chủ yếu là đối với rừng đặc dụng; rừng phòng hộ chỉ bảo vệ có trọng điểm, những nơi xung yếu còn bị chặt phá rừng làm rẫy. Đối với rừng hiện có nói chung, thì Bộ Lâm nghiệp, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo, sử dụng các tổ chức, lực lượng kiểm lâm, các nguồn vốn khác... để bảo vệ.
Việc trồng mới rừng sản xuất và trồng rừng phân tán, không thuộc Chương trình 327.
Việc phủ xanh đồi núi trọc chủ yếu bằng cây công nghiệp, cây ăn quả, đồng cỏ chăn nuôi đại gia súc, không thuộc chương trình 327. Các dự án nông lâm công nghiệp được khẳng định có diện tích rừng phòng hộ khoảng 30% và diện tích cây công nghiệp, cây ăn quả có tán che phủ như cây rừng cộng lại chiếm từ 50% trở lên so với diện tích dự án, vẫn được đầu tư theo Chương trình 327.
Về công tác định canh định cư là một vấn đề lớn về kinh tế - xã hội của miền núi, sử dụng nguồn vốn riêng không thuộc Chương trình 327. Từ năm 1996 trở di, tất cả các dự án định canh định cư độc lập đang được đầu tư bằng nguồn vốn 327 đều tách khỏi Chương trình 327.
Đối với hộ đồng bào dân tộc du canh du cư đốt phá rừng làm rẫy nằm trong địa bàn của các dự án lâm nông và nông lâm hiện có thuộc rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, vẫn do các dự án này phụ trách và được thực hiện theo quy chế như các dự án 327 khác.
B- QUY MÔ, CƠ CẤU, MẬT ĐỘ VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI RỪNG PHÒNG HỘ,
RỪNG ĐẶC DỤNG
Điều 2.
Bộ Lâm nghiệp cùng Uỷ ban Nhân dân tỉnh quy hoạch và xác định rõ lâm phần của rừng phòng hộ, rừng đặc dụng của từng tỉnh, và cả nước theo hướng sau đây:
Rừng phòng hộ, với tổng diện tích trên 8 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên hiện có khoảng 4,5 triệu ha, trọng tâm là rừng phòng hộ đầu nguồn của các sông lớn, các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện của quốc gia, rừng phòng hộ xung yếu ven biển (tách từ quyết định 773/TTg sang) và một số đồi núi trọc tập trung có ý nghĩa môi sinh phòng hộ quan trọng ở đồng bằng.
Rừng đặc dụng, với tổng diện tích từ 1 đến 1,2 triệu ha, mà chủ yếu là rừng tự nhiên hiện có, gồm các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên và một số khu bảo tồn di tích lịch sử trọng yếu.
Từ năm 1996 đến 2010, phấn đấu tạo mới rừng để phủ xanh được hầu hết đồi núi trọc quy hoạch cho rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, bình quân mỗi năm trồng mới và khoanh nuôi tái sinh rừng đạt khoảng 250 ngàn ha; đồng thời thực hiện các chính sách cần thiết để bảo vệ cho được diện tích rừng phòng hộ, rừng đặc dụng hiện có.
Điều 3:
Cơ cấu, mật độ cây trồng đối với rừng phòng hộ đầu nguồn là trồng hỗn giao theo sinh thái nhiều tầng gồm nhiều loài cây rừng bản địa gỗ quý, chủ yếu lấy giống từ rừng nguyên sinh với mật độ bình quân 1.600 cây/ha. Trong đó, khoảng 40% là các loài cây rừng bản địa và 60% cây phụ trợ, kể cả cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản lâu năm như nhãn, mít, xoài, hồi... Hoặc trồng theo sinh thái đan xen: băng rừng băng cỏ; băng rừng băng cây công nghiệp, cây ăn quả, băng rừng băng cây lương thực... Đối với rừng phòng hộ ven biển, rừng ngập mặn... thì mật độ cây trồng cao hơn (nhưng đơn giá trồng rừng thấp hơn). Đối với một số ít dự án rừng đặc dụng, thực hiện trồng rừng theo luận chứng kinh tế kỹ thuật được duyệt.
Để bảo đảm lợi ích của Nhà nước với lợi ích của người nhận khoán rừng, Bộ Lâm nghiệp xây dựng, trình Chính phủ chính sách đối với bảo vệ và tạo mới rừng phòng hộ, rừng đặc dụng theo hướng như sau:
Trồng rừng mới: toàn bộ cây rừng bản địa thuộc sở hữu của Nhà nước; còn các loại cây rừng phụ trợ khi được khai thác, thì người trồng rừng được hưởng 2/3 và Nhà nước 1/3 sản phẩm, nhưng việc khai thác cây phụ trợ này phải thực hiện đúng theo quy trình kỹ thuật.
Bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng: người nhận khoán được hưởng một tỷ lệ hợp lý về giá trị tăng trưởng của rừng do công bảo vệ, chăm sóc rừng mà có.
Ngoài ra, người nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh, trồng rừng được hưởng các sản phẩm do trồng xen dưới tán rừng và được hưởng toàn bộ hoa, quả trên cây rừng (nếu có).
C- CƠ CẤU VỐN, CƠ CHẾ CẤP PHÁT, THANH QUYẾT TOÁN VỐN:
Điều 4:
Nhà nước dành các nguồn vốn: ngân sách trong nước, vốn viện trợ và vốn vay của nước ngoài (nếu có) cho chương trình 327 và điều hoà các nguồn vốn đó cho từng ngành, từng địa phương một cách hợp lý; tỉnh nào có nhiều vốn viện trợ nước ngoài về rừng thì giảm hoặc ngừng đầu tư bằng vốn Chương trình 327; các nguồn vốn của các chương trình có liên quan không được ghi chung vào Chương trình này. Nguồn vốn của chương trình quốc gia về rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, gồm: vốn đầu tư, cho vay, kinh phí chuyển, dãn dân, và quản lý phí, khuyến lâm, khuyến nông đều tập trung vào một đầu mối để giao kế hoạch và cấp phát qua hệ thống kho bạc Nhà nước. Tất cả nguồn vốn của các dự án 327 của các ngành, kể cả quốc phòng, nội vụ, đoàn thanh niên... đều thống nhất giao cho tỉnh, trừ một số dự án cần thiết trực thuộc Bộ.
Tuỳ điều kiện cụ thể, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, Bộ trưởng chuyên ngành có trách nhiệm giao kế hoạch phù hợp đối với từng dự án hướng chung như sau:
Vốn đầu tư trực tiếp về rừng và vốn cho hộ dự án vay hỗ trợ để sản xuất lâm nông kết hợp chiếm khoảng 74% vốn chương trình. Trong đó, tiền đầu tư khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh, chăm sóc, trồng mới rừng phòng hộ, rừng đặc dụng 60%; tiền chi phí cho 3 khâu: đo đạc tạm để giao đất trồng rừng, khoản khoanh nuôi tái sinh, bảo vệ rừng; thiết kế theo quy trình trên thực địa, nghiệm thu trồng rừng mới khoảng: 1,5 - 2% tiền cho hộ dự án vay không lãi để hỗ trợ trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, làm kinh tế vườn, chăn nuôi đại gia súc: 12%.
Ngoài vốn được Nhà nước đầu tư và cho vay, hộ dự án phải tiết kiệm, sử dụng lao động và tiền vốn của mình để phát triển mạnh kinh tế gia đình.
Việc chuẩn bị cây giống, đặc biệt là cây rừng bản địa là cực kỳ quan trọng và có tính quyết định cho mục tiêu trồng rừng, vì vậy hàng năm, Nhà nước ưu tiên dành một tỷ lệ đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu giống, xây dựng một số khu rừng nguyên sinh thành rừng để giống; chỉ đạo việc gieo ươm giống cây bản địa đa dạng, có chất lượng phù hợp với từng tiểu vùng. Nhà nước đầu tư ứng trước tiền chuẩn bị giống cây rừng năm đầu, từ năm thứ hai trở đi chủ dự án phải trích tiền giống trong đơn giá trồng rừng của năm đó để luân chuyển chuẩn bị cây giống cho năm sau.
Vốn đầu tư hỗ trợ với các chuyên ngành về xây dựng hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng, bình quân 12% vốn chương trình.
Kinh phí sự nghiệp chuyển, dãn dân theo yêu cầu cụ thể của từng dự án, bình quân chung khoảng 6% vốn chương trình.
Kinh phí quản lý: 8% vốn chương trình, trong đó các ngành ở trung ương 0,8%; các ngành ở tỉnh, huyện trực tiếp chỉ đạo 1,2% và chủ dự án không được dưới 6%.
Điều 5:
Hàng năm cơ quan có trách nhiệm và chủ dự án phải xác định và công khai đến hộ đơn giá đầu tư/ha đối với trồng, chăm sóc, khoanh nuôi tái sinh, bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Riêng về trồng rừng mới: tiền tạo cây giống và tiền phân bón cây rừng bản địa không quá hộ 1/3 đơn giá; tiền công trồng và chăm sóc năm thứ nhất khoán cho hộ 2/3. Chủ dự án phải tạo điều kiện cho hộ dự án ươm được giống, lo phân bón để hộ hưởng được toàn bộ đơn giá. Các khoản chi phí 3 khâu: đo đạc tạm, thiết kế theo quy trình trên thực địa, nghiệm thu đã tính riêng, không được tính vào đơn giá trồng rừng. Cơ quan chuyên ngành cấp trên chủ yếu làm chức năng quy hoạch, hướng dẫn, duyệt dự toán, kiểm tra việc thực hiện; uỷ nhiệm chủ dự án được sử dụng kỹ sư khuyến lâm của mình thiết kế trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng theo quy trình trên thực địa và thực hiện.
Điều 6:
Bộ Tài chính và kho bạc Nhà nước các cấp phải bảo đảm đủ nguồn vốn, cấp phát hàng tháng các khoản tiền khoán khoanh nuôi tái sinh, chăm sóc, bảo vệ rừng, tiền chi phí quản lý, khuyến lâm, khuyến nông; cấp phát, cho vay theo thời vụ và yêu cầu của chủ dự án đối với các khoản tiền: chuẩn bị giống, trồng rừng, cho hộ vay trồng cây công nghiệp, làm kinh tế vườn, chăn nuôi đại gia súc.
Điều 7
Chương trình quốc gia về rừng phòng hộ, rừng đặc dụng là đầu tư và cho vay trực tiếp đến hộ nên không áp dụng hoàn toàn theo Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản kèm theo Nghị định 177/CP, mà được thực hiện theo quy định riêng như sau:
Đối với các hạng mục đầu tư về rừng, trồng cây công nghiệp chủ dự án căn cứ dự án được duyệt và kế hoạch hàng năm, đơn giá để lập dự toán; sau khi dự toán được cấp trên trực tiếp của chủ dự án duyệt, thì khoán cho các hộ thực hiện. Hệ thống kho bạc Nhà nước chỉ căn cứ dự toán trồng rừng được duyệt mà ứng vốn kịp thời vụ khoảng 70%; sau khi có kết quả nghiệm thu của cơ quan chuyên ngành thì cấp nốt 30% và quyết toán vốn.
Đối với công trình hạ tầng, phúc lợi công cộng của dự án có vốn đầu tư dưới 150 triệu đồng/công trình như đường dân sinh, thuỷ lợi nhỏ, lớp học, trạm xã, thì chủ án được sử dụng thiết kế định hình, lập dự toán, trình cơ quan cấp trên trực tiếp của dự án duyệt. Đối với các loại công trình trên nhưng yêu cầu kỹ thuật phức tạp và vốn đầu tư trên 150 triệu đồng/công trình, thì phải thực hiện theo Nghị định 177/CP.
Bộ Tài chính và kho bạc Nhà nước các cấp thực hiện đúng điều 10 của Quyết định 327, không được trừ tiền tiết kiệm; thực hiện nghiêm việc thu hồi vốn vay của chương trình 327 theo chu kỳ cây, con kể từ khi có sản phẩm hàng hoá, vốn vay thu hồi năm nào, phải có kế hoạch sử dụng và được bổ sung vào nguồn vốn vay của chương trình.
D. TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
Điều 8:
Căn cứ nội dung của Quyết định này, hướng dẫn mới về tổ chức quản lý của ngành, và trên cơ sở các dự án hiện có, không gây đảo lộn, mà Bộ chuyên ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải rà soát, thẩm định, sắp xếp lại các dự án đúng lâm phần rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, theo hướng lấy đại bàn huyện làm đơn vị quy hoạch dự án. Qui mô mỗi dự án rừng phòng hộ trên địa bàn huyện từ 10.000 - 50.000 ha. Huyện nào có diện tích rừng phòng hộ trên 50.000 ha thì có thể có hai dự án, cá biệt mới ba dự án - Trường hợp trên địa bàn nhiều huyện liền nhau mà tổng diện tích rừng phòng hộ của các huyện cộng lại dưới 10.000 ha, thì thành một dự án trực thuộc một huyên hoặc tỉnh.
Sau khi sắp xếp lại dự án theo địa bàn huyện như nói trên, các dự án qui mô nhỏ, phân tán thuộc các ngành lâm, nông nghiệp hoặc do các Bộ Quốc phòng, Nội vụ, Đoàn thanh niên, Hội Nông dân Việt Nam làm chủ dự án, đang được đầu tư bằng nguồn vốn 327, thì chuyển thành một điểm của dự án trên địa bàn huyện.
Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với tất cả các dự án trên địa bàn huyện, kể cả các dự án thuộc ngành trung ương, tỉnh, đồng thời chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các dự án trực thuộc huyện.
Các dự án lâm nông hoặc nông lâm công nghiệp rừng phòng hộ, rừng đặc dụng được thực hiện chế độ sự nghiệp kinh tế, nhưng không được sử dụng vốn của chương trình 327 để chi vào các khoản: khấu hao tài sản cố định, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các khoản chi khác không liên quan trực tiếp đến chương trình 327.
Củng cố ban quản lý dự án với biên chế gọn, nhẹ; chọn đúng chủ dự án, đội ngũ cán bộ khuyến lâm, khuyến nông gồm những kỹ sư, cán bộ trẻ, có trình độ, tâm huyết, giải quyết kinh phí, phương tiện cần thiết cho dự án để hoạt động đến hộ gia đình.
Sơ, tổng kết các dự án mô hình để tiếp tục hoàn chỉnh và mở rộng mô hình mới.
Điều 9:
Các ngành lâm, nông nghiệp cùng ngành địa chính chỉ đạo việc giao đất, khoán rừng đến gia đình trong các dự án rừng phòng hộ, rừng đặc dụng theo cơ cấu: đất lâm nghiệp (kể cả bằng cỏ), đất trồng cây công nghiệp và đất làm kinh tế vườn... để hộ ổn định đầu tư sản xuất ngay từ đầu.
Điều 10.
Tăng cường trách nhiệm và quyền hạn của các ngành, các cấp đối với chương trình quốc gia về rừng phòng hộ, rừng đặc dụng:
Ngành Lâm nghiệp, phối hợp với ngành nông nghiệp chủ trì chương trình quốc gia về rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về qui hoạch, kế hoạch, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, qui trình quy phạm, thẩm định dự án, chính sách và kiểm tra việc thực hiện chương trình.
Ngành Nông nghiệp phối hợp với ngành lâm nghiệp, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh về qui hoạch, kế hoạch, chính sách, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, thẩm định và kiểm tra việc thực hiện phủ xanh bằng cây công nghiệp, cây ăn quả, cỏ, chăn nuôi đại gia súc trong dự án nông lâm công nghiệp. Chỉ đạo cơ quan điều động lao động dân cư của Bộ và của tỉnh lập kế hoạch, xây dựng chính sách về chuyển, dãn dân đến các dự án thuộc chương trình 327 và kiểm tra việc thực hiện.
Các ngành khác có liên quan như: giao thông, thuỷ lợi, xây dựng, năng lượng, y tế, giáo dục... phải sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước giao cho chuyên ngành mình để ưu tiên đầu tư xây dựng hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng trong vùng dự án mà thuộc chuyên ngành mình phụ trách.
Ngành Kế hoạch căn cứ đề nghị của các ngành, các địa phương và ý kiến của Ban Chỉ đạo chương trình 327 để tổng hợp trình Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về kế hoạch, ngân sách 5 năm và hàng năm của chương trình này. Sau khi kế hoạch được duyệt, theo đề nghị phân bố vốn của Bộ chuyên ngành, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước thông báo tổng hợp cho các ngành, cấp tỉnh và theo dõi việc thực hiện. ở tỉnh, căn cứ đề nghị của các sở chuyên ngành về phân bố vốn cho các dự án, Uỷ ban Kế hoạch tỉnh tổng hợp, trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để giao kế hoạch cho từng dự án.
Ngành Tài chính, Kho bạc Nhà nước các cấp căn cứ chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, điều hành nguồn vốn cho chương trình 327 kịp thời và đủ; thực hiện cấp phát vốn đầu tư, vốn vay đến từng dự án, hộ dự án đúng đối tượng, bảo đảm yêu cầu, thời vụ và chịu trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc thực hiện, thanh quyết toán vốn, thu hồi vốn vay của chương trình như đã quy định tại các điều 4, 5, 6, 7 của Quyết định này.
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, có vai trò quyết định, chịu trách nhiệm toàn diện trước Chính phủ về quản lý, tổng hợp, điều hành chương trình 327 và phối hợp, lồng ghép các chương trình khác có liên quan trên địa bàn; sử dụng đúng quyền hạn và trách nhiệm của các sở có liên quan, tăng cường bộ phận chuyên trách để giúp tỉnh chỉ đạo, điều hành chương trình có hiệu quả.
Điều 11.
Ban chỉ đạo chương trình 327 các cấp, chỉ làm chức năng điều hoà, phối hợp liên ngành; kiểm tra có trọng điểm việc thẩm định các dự án và việc thực hiện chương trình.
Ban Chỉ đạo chương trình 327 Trung ương do Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách khối phụ trách chung; thành phần Ban chỉ đạo cơ bản như cũ, chỉ giảm hai thành viên: Uỷ ban Dân tộc và Miền núi, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Đồng chí đặc phái viên của Chính phủ, giúp Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ kiểm tra, theo dõi việc thực hiện chương trình và chỉ đạo một số tỉnh, dự án trọng điểm.
Ban Chỉ đạo chương trình 327 cấp tỉnh do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh phụ trách khối làm trưởng ban; thành viên Ban chỉ đạo gồm các ngành của tỉnh có liên quan do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định.
Điều 12.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, các Bộ có liên quan hướng dẫn đúng nội dung quyết định này để kịp chuẩn bị và thực hiện kế hoạch từ năm 1996 trở đi.
Điều 13.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ban hành; các quy định khác tại Quyết định 327 và các văn bản có liên quan mà không trái với Quyết định này vẫn còn giá trị thực hiện.
Điều 14.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.