Thực hiện Chỉ thị số 442/TTg ngày 3/7/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 1997, Bộ Tài chính hướng dẫn việc đánh giá tình hình thực hiện NSNN năm 1996 và xây dựng, tổng hợp dự toán năm 1997 như sau:
Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 1996, nhìn chung đạt kết quả khá: Sản xuất, lưu thông hàng hoá, xuất nhập khẩu duy trì được tốc độ tăng trưởng khá và phát triển theo chiều hướng tích cực; lạm phát được kiểm chế; nhiều mặt xã hội có chuyển biến tốt. Tuy nhiên, còn nổi lên một số khó khăn tồn tại là: Thu ngân sách tuy có tiền bộ nhưng nhiều khoản thu còn đạt thấp so với dự toán đầu năm như thu thuế xuất, nhập khẩu, thu cấp quyền sử dụng đất, thu từ khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh; tình hình thất thu, trốn thuế, buôn lậu chưa được ngăn chặn có hiệu quả; triển khai kế hoạch xây dựng cơ bản chậm; sản lượng sản xuất một số sản phẩm đạt thấp so với dự kiến, tồn đọng lớn đã ảnh hưởng đến nhịp độ tăng trưởng và thu ngân sách nhà nước.
Để phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán ngân sách Nhà nước Quốc hội đã thông qua, các Bộ, địa phương căn cứ chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra, kế hoạch thu, chi ngân sách nhà nước được giao đầu năm, kết quả thực hiện 6 tháng đầu năm, đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội; tình hình sản xuất - kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm và thu chi ngân sách cả năm 1996 thuộc Bộ, địa phương mình quản lý; đồng thời đề ra các biện pháp chỉ đạo, điều hành trong 6 tháng cuối năm nhằm hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch cả năm và làm cơ sở cho việc xây dựng dự toán ngân sách nhà nước năm 1997. Cụ thể:
I. Về thu
1. Đối với các doanh nghiệp nhà nước: Phấn đầu khai thác tối đa năng lực sản xuất, tăng sản lượng, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành tăng khả năng cạnh tranh mở rộng thị trường tiêu thụ...; quản lý chặt chẽ giá thành và phí lưu thông, chỉ cho phép các doanh nghiệp tăng tỷ lệ trích khấu hao cơ bản với điều kiện đơn vị phải bảo đảm nộp thuế lợi tức cho ngân sách nhà nước không thấp hơn mức thực hiện năm 1995.
2. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Tổ chức kiểm tra tình hình hoạt động của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các đơn vị, văn phòng đại diện hoạt động thương mại; Kiểm tra nắm chắc số lượng đơn vị, chú ý đưa vào diện quản lý thu thuế đối với những đơn vị đã hết thời hạn miễn, giảm thuế theo luật định; diện tích đất, vốn và tài sản được giao, trong đó vốn góp trong nước, thời điểm bắt đầu đi vào sản xuất - kinh doanh, sản lượng sản xuất, doanh số kinh doanh, đối tượng phải nộp thuế thu nhập... để tính thu theo đúng Luật định và theo quy định của giấp phép đầu tư.
3. Các địa phương phối hợp với ngành hải quản và thuế kiểm tra chặt chẽ khâu xuất, nhập khẩu (số lượng, giá trị, chủng loại mặt hàng) để tính thuế; tăng cường kiểm tra chống buôn lậu, trốn thuế, bao gồm cả hàng hoá nhập ngoại đã vào nội địa nhưng không chứng minh được đã nộp đủ thuế nhập khẩu; thực hiện các biện pháp bắt buộc các đơn vị nộp ngay vào ngân sách nhà nước số thuế còn nợ đã quá thời hạn phải nộp.
4. Đối với khu vực tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp dịch vụ ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp tư nhân: Tổ chức kiểm tra giấy phép kinh doanh, địa diểm, ngành nghề kinh doanh, số hộ kinh doanh thực tế và tình hình đăng ký nộp thuế... Thu hồi giấy phép kinh doanh đối với những hộ kinh doanh không đúng ngành nghề theo giấy phép kinh doanh, những hộ không đăng ký kê khai nộp thuế, nhất là đối với các doanh nghiệp tư nhân; triển khai thực hiện tổng kiểm tra và điều chỉnh doanh thu để đưa hết số hộ thực tế có kinh doanh vào quản lý và thu thuế, điều chỉnh doanh thu tính thuế sát với giá cả thị trường và quy mô sản xuất - kinh doanh, trên cơ sở đó tính thu thuế theo đúng Luật định, đặc biệt các hộ kinh doanh lớn thuộc các ngành: thương nghiệp dịch vụ nhà hàng, khách sạn, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải...
5. Đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp: Căn cứ sổ bộ thuế xác định số phải thu nộp ngân sách nhà nước trong năm để đôn đốc nộp kịp thời cho ngân sách nhà nước. Rà soát nắm lại diện tích đất nông nghiệp, diện tích đã quản lý thu thuế, diện tích đã hết hạn miễn giảm thuế, dự kiến diện tích tăng thêm để quản lý thu. Về giá thóc tính thuế: Các địa phương căn cứ giá cả thị trường và tham khảo giá thóc trong khu vực để xác định giá thóc tình thuế cho phù hợp và sát giá cả thị trường.
6. Đối với các khoản thu từ nhà và đất: Các địa phương tập trung chỉ đạo nắm chắc quỹ đất ở từng xã, phường, có quy hoạch, kế hoạch sử dụng, trên cơ sở đó đẩy mạnh việc bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước, cấp quyền sử dụng đất đúng quy định, phấn đấu thu đạt và vượt mức Quốc hội thông qua để tạo nguồn đầu tư cơ sở hạ tầng; tính và thu thuế nhà đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo đúng chế độ quy định.
7. Đối với các khoản thu khác của ngân sách nhà nước: Căn cứ phát sinh thực tế thu đầy đủ và thu kịp thời vào ngân sách nhà nước, phân tích và thuyết minh rõ từng khoản thu có tính chất thường xuyên và không thường xuyên giữa các năm để tính dự toán năm 1997.
Qua đánh giá tình hình thực hiện thu nộp ngân sách 6 tháng đầu năm, ước thu ngân sách nhà nước cả năm trên cơ sở những biện pháp phấn đầu tăng thu 6 tháng cuối năm, truy thu hết những khoản thu tồn đọng theo quyết toán năm 1995, tồn đọng 6 tháng đầu năm; thu đầy đủ, kịp thời những khoản thu phát sinh phải nộp ngân sách nhà nước 6 tháng cuối năm. Phân tích kết quả thu nộp ngân sách cả năm, tìm ra những nguyên nhân tác động đến thu ngân sách nhà nước năm 1996 làm cơ sở tính dự toán năm 1997, như: Tình hình sản xuất kinh doanh; tốc độ tăng trưởng kinh tế; biến động cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản phẩm; tác động của giá cả; tác động của cơ chế, chính sách; tác động chủ quản của công tác quản lý thu, tình hình chấp hành chế độ thu nộp... Đánh giá kết quả thu ngân sách nhà nước cả năm trên địa bàn phải phân tích rõ kết quả số thu từng sắc thuế đối với từng khu vực kinh tế để làm căn cứ tính toán phân cấp quản lý ngân sách.
II. Về chi
Căn cứ nhiệm vụ cả năm được giao, tiến độ và tình hình thực hiện các nhiệm vụ, trên cơ sở đó ước thực hiện chi ngân sách đảm bảo chi đúng chế độ, đúng nhiệm vụ được giao, hạn chế các khoản chi mua sắm, sửa chữa chưa thật cần thiết, thực hành tiết kiệm để ưu tiên kinh phí cho những nhiệm vụ thiết thực, có hiệu quả. Đánh giá thực hiện phải phân tích kỹ những việc đã làm được, việc chưa làm được, những lĩnh vực còn lãng phí, tìm ra nguyên nhân và biện pháp điều hành thực hiện trong 6 tháng cuối năm và làm cơ sở tính toán dự toán 1997. Trong đó chú ý một số biện pháp:
1. Từ nay đến cuối năm, không giải quyết bổ sung chi ngân sách ngoài kế hoạch, trừ trường hợp thật sự bức bách như phòng chống và khắc phục thiên tại, lũ lụt. Các Bộ, ngành, địa phương và đơn vị phải thực hành tiết kiệm, sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để bảo đảm cho nhu cầu chi cấp thiết mới phát sinh. Những nhu cầu chi đã có quyết định, nhưng chưa được bố trí kinh phí trong kế hoạch ngân sách đầu năm thì soát xét để dãn tiến độ và bố trí trong dự toán ngân sách năm 1997.
2. Về xây dựng cơ bản: Rà soát lại danh mục và vốn đã bố trí cho các công trình trong kế hoạch giao đầu năm, các Bộ, ngành, địa phương tập trung chỉ đạo thực hiện kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản đã được giao, hoàn thành các thủ tục về đầu tư xây dựng cơ bản để làm căn cứ cấp vốn. Đối với khối lượng XDCB năm 1995 đã hoàn thành những chưa được thanh toán, dùng nguồn của kế hoạch năm 1996 để thanh toán dứt điểm. Đối với kế hoạch năm 1996, trên cơ sở đánh giá khối lượng thực hiện 6 tháng đầu năm và khả năng thực hiện cả năm, số đã cấp phát thanh toán và khả năng cấp phát thanh toán trong 6 tháng cuối năm; từ đó xác định khối lương phải chuyển sang thanh toán trong năm 1997 cho từng công trình. Những công trình đến 31/12/1996 thực hiện vượt kế hoạch, phải bố trí trong kế hoạch năm 1997 để có nguồn thanh toán; những công trình không thực hiện hết kế hoạch, nếu cần tiếp tục thực hiện, phải bố trí vào kế hoạch năm 1997.
3. Đối với các chương trình quốc gia: Ưu tiên cấp phát kinh phí cho các chương trình quốc gia theo đúng kế hoạch và tiến độ thực hiện, trên cơ sở đó ước thực hiện cả năm, phân tích rõ từng nuồn kinh phí (nguồn NSNN, viện trợ, tín dụng, dân đóng góp...). Cơ quan chủ quản chương trình quốc gia tổ chức tổng kết đánh giá hiệu quả của từng chương trình: Mục tiêu cần đạt được; thời gian thực hiện; nội dụng thực hiện; kết quả đã thực hiện đến hết năm 1996..., từ đó có kiến nghị cụ thể về cơ chế quản lý, sắp xếp lại chương trình.
4. Đối với các khoản chi thường xuyên: Căn cứ kế hoạch được giao đầu năm, tiến độ thực hiện các nhiệm vụ và khả năng ngân sách để ước thực hiện cả năm cho sát tình hình thực tế của Bộ, địa phương và khả năng nguồn thu cho phép. Từng lĩnh vực chi phân tích vụ thể cơ cấu chi về tiền lương, phụ cấp tiền lương, các khoản chi bắt buộc tính trên cơ sở tiền lương, các khoản chi nghiệp vụ thường xuyên và các khoản chi đột xuất (như mua sắm, sửa chữa, cứu đói, khắc phục thiên tại, lũ lụt...) để làm cơ sở tính toán bố trí dự toán năm 1997.
5. Đối với các khoản chi đầu tư cơ sở hạ tầng của các địa phương từ nguồn thu cấp quyền sử dụng đất, thu bán nhà ở, xổ số kiến thiết, thuế sử dụng đất nông nghiệp trồng lúa, các địa phương căn cứ tình hình thu để bố trí và cấp phát chi cho phù hợp. Trường hợp thu không đạt kế hoạch thì điều chỉnh giảm chi tương ứng, chỉ thực hiện chi khi thực tế có thu để tránh nợ khối lượng không có nguồn thanh toán.
III. Đối với các khoản thu ngân sách Nhà nước, theo chế độ đơn vị được để lại tự chi toàn bộ hay một phần; các khoản thu theo quyết định của Chính phủ được đầu tư trở lại cho các Bộ, địa phương, như thu phạt vi phạm trật tự, an toàn giao thông, thu phạt và tịch thu hàng buôn lậu; các khoản phụ thu về tiền điện, bưu điện... để tăng đầu từ cho ngành điện, bưu điện: các Bộ, địa phương chỉ đạo đơn vị đánh giá kỹ tình hình thực hiện thu, chi theo đúng chế độ chung của Nhà nước, trên cơ sở đó phân tích việc chấp hành thu, nội dung chi một số năm gần đây để có kiến nghị sửa đổi, bổ sung cơ chế cho năm 1997 và các năm sau theo đúng quy định của Luật ngân sách Nhà nước.
Trên cơ sở ước thực hiện thu, chi ngân sách cả năm 1996, các Bộ, địa phương tổ chức đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội và ngân sách từ năm 1991 dến năm 1996 của Bộ, địa phương mình, nêu lên những mặt làm được, chưa làm được, những tồn tại và phân tích các nguyên nhân cụ thể, chủ trọng kiểm điểm sâu sắc những ưu và nhược điểm trong việc bố trí và điều hành ngân sách. Từ đó đề ra nhiệm vụ và rút ra những kinh nghiệm cho việc xây dựng và chỉ đạo điều hành dự toán ngân sách năm 1997 và các năm tiếp theo.
I. Năm 1997, năm thứ hai của kế hoạch 5 năm 1996-2000, là năm triển khai Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VIII và thực hiện Luật ngân sách nhà nước. Tình hình những năm qua và năm 1996 cho thấy một số thuận lợi cơ bản là:
Nền kinh tế tiếp tục ổn định và phát triển với tốc độ khá; lạm phát được kiềm chế và có xu hưởng giảm. Cơ chế quản lý kinh tế mới đang phát huy kết quả tốt, hệ thống và văn bản pháp luật về thu NSNN và quản lý kinh tế - xã hội đã được ban hành tương đối hoàn chỉnh đang phát huy tác dụng.
Tuy nhiên, bước vào năm 1997 cũng nổi nên một số khó khăn là:
Thu ngân sách, nhất là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mấy năm nay không đạt kế hoạch, nên tồn nợ vay trong nước của ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển chưa có nguồn thanh toán từ các năm trước dồn lại lớn.
Yêu cầu chi đầu tư XDCB và chi giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội và quốc phòng an ninh đều đòi hỏi lớn, để tạo điều kiện vừa phát triển sản xuất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững vừa cải thiện và phát triển các lĩnh vực văn hoá - xã hội tốt hơn. Trong khi đó tổng sản phẩm quốc nội và nguồn tài chính còn hạn hẹp.
Cơ cấu về chi lương, các khoản có tính chất lương, chi cho người về hưu, mất sức lao động và các đối tượng chính sách xã hội trong NSNN quá lớn do biên chế cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng, đoàn thể, đặc biệt là khối sự nghiệp hưởng kinh phí NSNN rất lớn và hậu quả của thời gian dài bao cấp về bảo hiểm xã hội đang là gánh nặng đối với NSNN. Quỹ lương lớn, nhưng mức tiền lương thực tế của những người hưởng lương và trợ cấp xã hội bị giảm do trượt giá đang đòi hỏi phải giải quyết.
Căn cứ nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1996-2000 và những thuận lợi, khó khăn nêu trên, việc xây dựng dự toán NSNN năm 1997 phải đáp ứng các mục tiêu và yêu cầu sau:
1. Ngân sách nhà nước năm 1997 phải bố trí nhằm thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra; thực hiện có hiệu quả 11 chương trình và lĩnh vực phát triển; tiếp tục tạo môi trường thuận lợi cho nền kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như trong từng ngành, từng vùng lãnh thổ, theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn liền với việc thực hiện chương trình ổn định vững chắc kinh tế - xã hội. Nghiên cứu ban hành cơ chế và thực hiện các biện pháp tiến hành xã hội hoá mạnh mẽ các lĩnh vực văn hoá - xã hội; đối với từng lĩnh vực phải chọn ra các mục tiêu để tập trung ưu tiên đầu tư tạo bước chuyển biến mới về văn hoá, văn nghệ, phát thanh, truyền hình, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác dân số kế hoạch hoá gia đình và các mặt xã hội khác, đặc biệt phải tạo được bước phát triển mạnh mẽ về giáo dục đào tạo, thực hiện một bước mục tiêu nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu trước mắt và lâu dài.
Dự báo một số chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế năm 1997 so với năm 1996 như sau:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 9-10%;
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,5-4,9%;
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14-15%;
Giá trị các ngành dịch vụ tăng 12-13%;
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 28%; - Tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 23%.
2. ổn định và củng cố sức mua của đồng tiền; giữ lạm phát ở mức thấp hơn mức tăng trưởng kinh tế để tạo thuận lợi cho kinh tế phát triển ổn định với tốc độ cao hơn (dự kiến chỉ số tăng giá cả năm 1997 dưới 10%, tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ ở mức 11.000 đ/USD).
3. Chính sách thuế đã sửa hạ thấp về mức thu; miễn giảm cho các doanh nghiệp kinh doanh trên địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, các doanh nghiệp của thương binh, người tàn tật... Vì vậy phải có biện pháp thu đầy đủ theo đúng Luật, và khai thác mọi nguồn thu, chống thất thu; đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên ở mức hợp lý và tiết kiệm, trả được nợ theo cam kết và ưu tiên cho đầu tư phát triển.
4. Mọi khoản thu, chi NSNN đều phải phản ánh hết vào dự toán NSNN và quản lý qua Kho bạc nhà nước, kể cả các khoản phí, lệ phí và các khoản thu trước đây theo chế độ đơn vị được để lại thu để chi; đưa toàn bộ các khoản vay nước ngoài của Chính phủ và các khoản viện trợ vào cân đối trong thu chi NSNN để quản lý và theo dõi trả nợ, kể cả những khoản Chính phủ vay về cho vay lại.
5. Ưu tiên cho đầu tư phát triển, nhất là chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, theo phương hướng chỉ đạo dành khoảng 70% thuế và phí cho chi thường xuyên, 30% cho đầu tư phát triển và trả nợ. Bố trí chi, trước hết đảm bảo ưu tiên cho giáo dục đào tạo và đảm bảo có trọng điểm cho các lĩnh vực khác; phấn đấu ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người.
6. Bố trí chi phải trên tinh thần tiết kiệm, hạn chế chi mua sắm trang thiết bị đắt tiền, việc xây dựng trụ sở phải tính toán kỹ cân đối trên từng địa bàn.
7. Bố trí nguồn tăng Quỹ dự trữ tài chính để chủ động trong điều hành ngân sách. Dự phòng ngân sách ở mức hợp lý theo quy định của Luật NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi cho chính sách mới, chi đột xuất. 8- Bội chi ngân sách nhà nước phải tương ứng với khả năng chắc chắn vay trong nước và vay ưu đãi nước ngoài. Không vay thương mại nước ngoài, không phát hành và vay trong nước thời hạn ngắn, lãi suất cao cho bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước. Mức bội chi NSNN (không kể vay nước ngoài về cho vay lại) phải thấp hơn 3% GDP.
- II. Những nội dung chủ yếu trong tính toán các khoản thu ngân sách Nhà nước năm 1997
Các Bộ, địa phương, căn cứ tình hình thu nộp NSNN và kết quả sản xuất kinh doanh năm 1996, khả năng sản xuất - kinh doanh của các đơn vị cơ sở năm 1997; căn cứ các văn bản pháp luật hiện hành về thu để tính dự toán thu NSNN năm 1997 trên cơ sở mức tăng trưởng kinh tế (9-10%); chỉ số tăng giá dưới 10%; tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng chống thất thu, yêu cầu đối với dự toán thu năm 1997 phải đạt mức tăng bình quân 20-22% so với thực hiện năm 1996. Trong quá trình tính toán dự toán, chú ý một số điểm sau đây:
1- Đối với khu vực kinh tế quốc doanh:
Về thuế doanh thu: Tính theo Thông tư số 97 TC/TCT ngày 30/12/1995 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật thuế doanh thu và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế doanh thu.
Việc giảm thuế doanh thu năm 1996 cho các cở sở kinh doanh trên địa bàn miền núi: Đối tượng được giảm, mức giảm và thời gian giảm thuế doanh thu áp dụng theo Thông tư số 24 TC/TCT ngày 10/5/1996 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc giảm thuế doanh thu năm 1996 đối với cơ sở kinh doanh trên địa bàn miền núi đối với ngân sách năm 1997 trong khi chờ chủ trường của Chính phủ đề nghị tạm tính toán số giảm thuế cụ thể cho từng trường hợp theo thông tư trên, thuyết minh đầy đủ việc giảm thuế năm 1996 và số dự kiến năm 1997.
Tính toán tác động tăng, giảm thu do thực hiện luật khuyến khích đầu tư trong nước. Tính toán xác định cụ thể phần tăng thu do tăng năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mới; đầu tư mở rộng mới sản xuất kinh doanh.
Về thuế tiêu thu đặc biệt: Tính theo Thông tư số 98 TC/TCT ngày 30/12/1995 của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và các luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Tính thu tại nơi sản xuất.
Về thu sử dụng vốn ngân sách: Căn cứ tình hình vốn lưu động có đến cuối năm 1996; Tình hình tăng, giảm tài sản cố định, số KHCB thuộc nguồn vốn nhà nước để lại cho đơn vị tự đầu tư; tình hình bảo toàn vốn hàng năm... xác định lại nguồn vốn của ngân sách để tính thu theo chế độ. Đối với số vốn doanh nghiệp đã nhận nợ với Nhà nước trong xí nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh với nước ngoài như: giá trị nhà xưởng, công trình xây dựng, tiền thuê mặt đất, mặt nước, TSCĐ vô hình... đều phải tính tiền thu sử dụng vốn ngân sách theo hướng dẫn tại Thông tư số 19-TC/TCĐN ngày 9/6/1992 của Bộ Tài chính, thuế suất là 3% năm.
Về khấu hao cơ bản: Trên cơ sở xác định nguyên giá TSCĐ qua việc dự kiến tăng, giảm trong năm; Mức KHCB tính theo Quyết định số 507 TC/ĐTXD ngày 22/7/1986 của Bộ Tài chính và các văn bản hướng dẫn bổ sung. Chỉ đạo cho phép các đơn vị tăng tỷ lệ trích KHCB so với mức trích cơ bản nếu đơn vị có đủ điều kiện theo quy định tại Quyết định số 51/TTg ngày 21/1/1995 của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính số 36 TC/TCDN ngày 27/4/1995 và đơn vị phải bảo đảm nộp thuế lợi tức không thấp hơn mức thực hiện năm 1996.
Về thuế lợi tức: Tính toán lợi tức chịu thuế trên cơ sở tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất - kinh doanh theo chế độ. Riêng đối với các đơn vị có lãi lớn do khách quan còn phải nộp thuế lợi tức bổ sung theo Luật định. Khi xác định lợi tức chịu thuế năm 1997 chú ý các khoản lỗ năm trước được chuyển sang theo chế độ quy định; những TSCĐ đã khấu hao hết nhưng vẫn còn sử dụng, không được trích khấu hao vào giá thành, phí lưu thông.
2. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Ngành thuế phối hợp chặt chẽ với UBND các cấp, với hệ thống quản lý vốn và tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp và các ngành có liên quan nắm chắc số đơn vị đã được cấp giấy phép trên địa bàn tỉnh, số đơn vị đã đi vào hoạt động, số đơn vị đã hết thời hạn miễn, giảm thuế, dự kiến số mới đi vào hoạt động trong năm 1997, tình hình và quy mô sản xuất - kinh doanh của từng doanh nghiệp để tính đúng, tính đủ các khoản thu theo Luật định và theo quy định của giấy phép đầu tư cấp cho từng doanh nghiệp. Trong việc tính toán thu, cần lưu ý:
Đối với khoản thu hoàn vốn ngân sách: Các doanh nghiệp đã nhận nợ với Nhà nước theo hướng dẫn tại Thông tư số 19 TC/TCĐN ngày 09/06/1992 của Bộ Tài chính, Cục thuế phải lập kế hoạch thu hoàn vốn ngân sách đối với khoản vốn của nhà nước góp vào liên doanh.
Đối với các trường hợp chuyển nhượng vốn góp của các chủ đầu tư các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải tính thuế lợi tức theo Thông tư số 96 TC/TCT ngày 30/12/1995 của Bộ Tài chính.
Thuế đối với các nhà thầu nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam không theo Luật đầu tư nước ngoài: Rà soát lại các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Nắm chắc tổng vốn đầu tư, thời điểm khởi công xây dựng các công trình trên địa bàn quản lý để đưa vào tính kế hoạch thu thuế doanh thu và thuế lợi tức đối với các nhà thầu nước ngoài theo hướng dẫn tại Thông tư số 37 TC/TCT ngày 10/5/1995 của Bộ Tài chính.
3. Đối với khu vực tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp tư nhân:
Căn cứ tình hình thực hiện năm 1996 và trên cơ sở điều tra xác định số hộ thực tế có hoạt động sản xuất - kinh doanh, doanh số tính thuế để tính toán thu năm 1997. Dự kiến thu cần lưu ý:
Đưa hết số hộ thực tế có hoạt động sản xuất - kinh doanh vào đăng ký và quản lý thu thuế.
Trên cơ sở điều tra doanh số tính thuế xác định đúng doanh số tính thuế, căn cứ khả năng phát triển sản xuất - kinh doanh năm 1997 và tính hình giá cả để tính doanh số thu thuế bình quân năm 1997 làm cơ sở tính các loại thuế đối với khu vực này; chú ý chống thất thu đối với các doanh nghiệp được thành lập theo Luật công ty, nhất là đối với các đơn vị có quy mô lớn, khách sạn nhà hàng...
Đối với hoạt động chuyển nhượng vốn của các chủ đầu tư trong các doanh nghiệp được thành lập theo Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân tính thu thuế lợi tức theo hướng dẫn tại Thông tư số 96 TC/TCT ngày 30/12/1995 của Bộ Tài chính.
Thu lệ phí trước bạ: Tính toán thu theo tỷ lệ thu lệ phí trước bạ quy định tại Nghị định số 193-CP ngày 29/12/1994 của Chính phủ quy định về lệ phí trước bạ. Trong đó chú ý đưa vào kế hoạch thu đối với các trường hợp bán xe máy, phương tiện trên sông, biển... nhưng chưa làm thủ tục pháp lý; Những trường hợp theo chế độ của Nhà nước cho phép hợp thức hoá quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất mà việc mua bán trước đây qua nhiều chủ không làm thủ tục đầy đủ. Đối với tài sản đã đăng ký chủ sở hữu mà mang đi góp vốn liên doanh thì phải nộp lệ phí trước bạ theo hướng dẫn tại Thông tư số 93 TC/TCT ngày 21/12/1995 của Bộ Tài chính.
4. Thuế sử dụng đất nông nghiệp:
Căn cứ Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, các văn bản hướng dẫn Luật và Bộ thuế đã được lập để tính thu. Chú ý tính toán bổ sung đối với diện tích đến năm 1997 hết thời hạn miễn giảm, đưa vào thu thuế; Tính thu đầy đủ đối với đối tượng và diện tích phải chịu thuế vượt hạn điền.
Về giá thóc tính thu thuế sử dụng đất nông nghiệp: Căn cứ vào giá hiện nay trên thị trường và dự kiến chỉ số giá năm 1997 đối với từng nhóm hàng nông sản để xác định giá cho phù hợp, bảo đảm không thấp hơn 10% giá thị trường tại địa phương.
5. Đối với những khoản thu phí và lệ phí:
Dự tính cho năm 1997 sát với tính hình thực tế của từng Bộ, địa phương và đơn vị theo chế độ thu hiện hành. Trong tính toán, chú ý:
Tính đầy đủ các khoản phí và lệ phí theo chế độ Nhà nước cho phép thu. Không tính thu và không được thu những khoản phí và lệ phí các Bộ, địa phương và đơn vị cơ sở tự đặt ra, trái với quy định chung của Nhà nước. Những khoản này phải xử lý hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định. Qua tình hình thực tế thực hiện, kiến nghị sửa đổi, bổ sung về đối tượng thu, mức thu cho hợp lý.
Thực hiện đúng Thông tư số 46 TC/TCT ngày 24/6/1993 tất cả các khoản phí và lệ phí phải phản ánh hết vào NSNN từ khâu kế hoạch và quản lý qua Kho bạc Nhà nước, kể cả những khoản phí và lệ phí theo chế độ đơn vị được để lại toàn bộ hay một phần để chi (Dự toán chi từ nguồn này cũng phải tính toán phản ánh đầy đủ trong dự toán chi của đơn vị).
Các Bộ, địa phương và đơn vị phải tính toán, thuyết minh cụ thể từng khoản thu phí, lệ phí theo danh mục và số thu một số năm và dự kiến 1997; Tình hình sử dụng (nộp NSNN, để lại đơn vị chi tiêu). Tính toán cụ thể và báo cáo riêng danh mục và số thu phí, lệ phí phường, xã.
6. Đối với các khoản thu từ nhà và đất:
Thuế chuyển quyền sử dụng đất tính theo Thông tư số 78 TC/TCT ngày 30/9/1994 của Bộ Tài chính.
Thu tiền cho thuế đất: Tính theo Nghị định số 18/CP ngày 13/2/1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được nhà nước giao đất, cho thuê đất và công văn số 1546 TC/TCT ngày 13/5/1996 của Bộ Tài chính hướng dẫn triển khai thu tiền cho thuế đất, cụ thể là:
Diện tích tính tiền thuê đất: Đối với các đơn vị đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho thuê đất thì diện tích tính tiền thuê đất là diện tích đất ghi trong quyết định của cơ quan có thẩm quyền; đối với các đơn vị đang sử dụng đất vào sản xuất kinh doanh, hiện đang nộp thuế đất thì tạm thời lấy diện tích tính thuế nhà đất.
Giá cho thuê đất được tính theo quy định tại điều 2 và điều 6 bản quy định khung giá cho thuê đất ban hành kèm theo Quyết định số 1357 TC/QĐ/TCT ngày 30/12/1995 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Thu tiền bán nhà ở tính theo Nghị định số 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở và Nghị định số 21/CP ngày 16/4/1996 về sửa đổi bổ sung điều 5 và điều 7 của Nghị định số 61/CP.
7. Về thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Dự kiến tính thu thuế XNK năm 1997 căn cứ vào kế hoạch kim ngạch XNK, cơ cấu khối lượng các mặt hàng XNK, thuế suất theo quy định hiện hành và giá tính thuế theo từng nhóm, mặt hàng sát với thị trường.
Tính toán tách riêng số thu phạt và tịch thu hàng buôn lậu; thu lệ phí Hải quan; phụ thu của quỹ bình ổn giá.
8. Các khoản thu khác của NSNN:
Căn cứ tình hình thực hiện các năm trước, ước thực hiện năm 1996 để dự tính thu năm 1997 trên cơ sở phấn đấu tăng thu, tận thu, thu đúng, thu đủ theo chế độ cho NSNN.
9. Về vay nợ và viện trợ của nước ngoài:
Các Bộ, địa phương căn cứ vào các dự án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, các hiệp định đã ký kết với nước ngoài có khả năng thực hiện rút vốn trong năm 1997; Căn cứ tình hình thực hiện từng dự án đến cuối năm 1996 để tính toán xây dựng kế hoạch vay nợ, viện trợ năm 1997. Trong đó:
Phân tích cụ thể theo từng dự án: Tổng mức vay và viên trợ, thời gian thực hiện, kim ngạch đã thực hiện đến cuối năm 1996, dự tính thực hiện và rút vốn trong năm 1997.
Phân tích theo cơ cấu vốn từng dự án: Bằng tiền mặt, bằng hàng hoá, chuyển giao kỹ thuật, chuyên gia, đào tạo...
Phân tích theo mục đích sử dụng: Sử dụng cho cấp phát đầu tư XDCB, cho chi thường xuyên về hành chính sự nghiệp (giáo dục, y tế, văn hoá...), cho vay.
Dự tính kế hoạch 1997 chia làm hai danh mục: Những dự án và tổng số vốn chắc chắn thực hiện được trong năm 1997; Những dự án và tổng số vốn không có khả năng chắc chắn.
Dự toán thu NSNN trên địa bàn phải phân tích chi tiết: Theo từng sắc thuế đối với các thành phần kinh tế; các loại phí, lệ phí do trung ương quản lý, do cấp tỉnh, thành phố, quận, huyện quản lý, do cấp xã, phường, thị trấn quản lý; các khoản thu theo chế độ được để lại một phần hay toàn bộ cho đơn vị chi; các khoản thu khác của từng cấp ngân sách... để làm căn cứ tính phân cấp quản lý ngân sách.
III. Những nội dung chủ yếu trong tính toán các khoản chi ngân sách nhà nước năm 1997.
1. Chi đầu tư xây dựng cơ bản:
Xây dựng kế hoạch danh mục các công trình đầu tư xây dựng cơ bản theo các nguồn vốn:
Nguồn NSNN cấp phát bao gồm cả nguồn vốn đầu tư XDCB tập trung và nguồn đầu tư từ xổ số kiến thiết, thuế sử dụng đất nông nghiệp trồng lúa, tiền thuê đất và cấp quyền sử dụng đất, tiền bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước...
Nguồn vay nợ hoặc viện trợ nước ngoài.
Nguồn tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
Tín dụng với lãi suất bình thường.
Nguồn liên doanh với các đơn vị trong nước.
Nguồn liên doanh với nước ngoài và đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Nguồn vốn tự có của đơn vị.
Nguồn vốn của Nhà nước để lại đơn vị tự đầu tư (kể cả đầu tư bằng nguồn KHCB, phần lợi nhuận sau khi nộp thuế được giữ lại theo chế độ quy định).
Vốn NSNN chủ yếu đầu tư cho các công trình thuộc kết cấu hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn; bố trí danh mục công trình đúng đối tượng, theo từng nguồn vốn, đúng mục đích và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên. Chỉ đưa vào kế hoạch những công trình có đầy đủ thủ tục đầu tư theo quy định; những công trình đưa vào kế hoạch phải có nguồn đảm bảo chắc chắn; Ưu tiên bố trí đủ nguồn để thanh toán khối lượng đầu tư XDCB đã hoàn thành từ năm 1996 trở về trước chưa được thanh toán, bố trí đủ vốn đối ứng cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, các công trình chuyển tiếp để sớm đưa vào sử dụng theo tiến độ được duyệt, không bố trí đầu tư tràn lan kém hiểu quả; Đối với các công trình mới khởi công cần cân nhắc kỹ, chỉ bố trí vốn cho các công trình thật sự quan trọng, cấp bách. Hạn chế đầu tư cho các công trình trụ sở.
Dự toán chi đầu tư XDCB năm 1997 lập chi tiết cho từng công trình theo từng nguồn vốn nêu trên và theo hai danh mục: Các công trình chuyển tiếp và các công trình mới khởi công. Từng công trình cần phân tích rõ:
Khối lượng hoàn thành các năm trước chuyển sang năm 1997 thanh toán.
Khối lượng thực hiện trong năm 1997.
Khối lượng chuyển sang năm 1998 thanh toán.
Đối với các công trình đầu tư bằng các nguồn: Thu cấp quyền sử dụng đất, thu bán nhà ở, xổ số kiến thiết, thuế sử dụng đất nông nghiệp trồng lúa, phụ thu; một phần lợi nhuận phía Việt Nam được hưởng từ khai thác dầu thô để lại cho Tổng công ty dầu khí... cũng phải lập dự toán chi và chỉ được thực hiện khi có đủ các thủ tục đầu tư theo quy định hiện hành về quản lý vốn đầu tư và xây dựng và phải căn cứ tiến độ thực hiện của các nguồn thu tương ứng.
2. Về cấp vốn lưu động:
Trong dự toán và điều hành ưu tiên cho những doanh nghiệp mới đi vào hoạt động; những doanh nghiệp chế biến hàng nông sản thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất hàng xuất khẩu... làm ăn có hiệu quả, chấp hành nghiêm chỉnh chế độ thu nộp NSNN, kể cả nộp BHXH, bảo hiểm y tế theo quy định... Bố trí kế hoạch cấp vốn lưu động sau khi đã đề xuất các biện pháp xử lý điều hoà từ nơi thừa sang nơi thiếu.
3. Chi dự trữ:
Các Bộ, địa phương và đơn vị được Chính phủ giao nhiệm vụ dự trữ những vật tư, hàng hoá cần thiết cho quốc gia và dự trữ lưu thông bình ổn giá phải tiến hành kiểm kê, đánh giá lại chất lượng, số lượng hiện có. Căn cứ tình hình thực tế, danh mục các mặt hàng dự trữ quốc gia quy định tại Quy chế quản lý dự trữ quốc gia ban hành kèm theo Nghị định số 10/CP ngày 24/2/1996 của Chính phủ và yêu cầu về dự trữ trình Chính phủ về mặt hàng và số lượng cần phải dự trữ, kế hoạch đổi hàng hoặc bán những vật tư, hàng hoá không cần dự trữ, vượt lượng cần thiết, kế hoạch tăng dự trữ. NSNN bố trí dự toán chi để tăng dự trữ khi có quyết định của Chính phủ.
4. Chi trợ giá các mặt hàng chính sách:
Đối với các mặt hàng chính sách đưa lên miền núi phục vụ đồng bào dân tộc: Về đối tượng, mặt hàng và cự ly vật chuyển được trợ giá áp dụng theo công văn số 1960/KTTH ngày 15/4/1994 của Chính phủ về một số chính sách đối với việc đưa hàng hoá lên miền núi phục vụ đồng bào dân tộc, công văn số 7464/KTTH ngày 30/12/1995 của Chính phủ về chính sách trợ giá cước vận chuyển hàng hoà lên miền núi và các văn bản hướng dẫn của Bộ, ngành liên quan; về mức trợ giá tính toán theo quy định của Ban Vật giá Chính phủ.
Các Bộ, địa phương căn cứ vào tình hình thực tế của từng địa phương và cơ chế trên, dự kiến nơi mua hàng để tính dự toán chi trợ giá năm 1997; dự toán chi phải thuyết minh rõ: Số đối tượng, lượng tiêu dùng, cự ly vận chuyển, mức trợ giá. Riêng mặt hàng muối Iốt tính chung trong chương trình quốc gia về phòng chống bướu cổ.
Các khoản chi trợ giá giữ giống gốc, gia súc, gia cầm, trợ giá báo chí, nhà xuất bản... thực hiện theo chế độ hiện hành, các Bộ, địa phương tính toán kỹ, xác định rõ số lượng, giá thành, chi phí vận chuyển..., mức trợ giá cụ thể cho từng mặt hàng, con giống, tờ báo, nhà xuất bản theo đúng chế độ.
5. Chi hành chính - sự nghiệp:
Dự kiến chi năm 1997 phải trên cơ sở phân tích kỹ tình hình thực hiện năm 1996, loại bỏ các khoản chi không đúng chính sách chế độ, những khoản chi đột xuất riêng của năm 1996; Thực hiện tiết kiệm chống lãng phí. Ưu tiên bố trí kinh phí để trả lương và các khoản chi theo lương; Đối với các khoản chi nghiệp vụ thường xuyên bố trí ở mức tối thiểu cần thiết; Các khoản chi khác như mua sắm, sửa chữa, chi đoàn ra, đón đoàn vào... bố trí theo khả năng cân đối ngân sách; Hạn chế tối đa việc mua sắm các tài sản đắt tiền chưa cấp bách; hạn chế hội họp, sơ kết, tổng kết...
Dự toán chi ngân sách lập cho từng đơn vị cơ sở và chi tiết theo các mục: Chi lương; Các khoản chi bắt buộc tính trên cơ sở tiền lương theo chế độ nhà nước (BHXH, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn...); Chi nghiệp vụ thường xuyên; Chi đoàn ra và vào; Chi mua sắm sửa chữa (kê chi tiết từng mục và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên đối với từng đơn vị trực thuộc); Chi bằng tiền Việt Nam và chi bằng ngoại tệ. Những khoản chi bằng ngoại tệ tính theo tỷ giá 11.000 đ/USD. Trong tính toán bố trí kế hoạch cần chú ý:
Về mức chi hành chính sự nghiệp: Tính theo mức chi tại phụ lục số 1 kèm theo thông tư này.
Về tiền lương: Tính theo chế độ hiện hành, kể cả nâng bậc lương hàng năm. Đối với các khoản tính bắt buộc theo lương: Bảo hiểm xã hội tính 15% quỹ lương (phần cơ quan sử dụng lao động đóng), bảo hiểm y tế tính 2% quỹ lương (phần cơ quan sử dụng lao động đóng), kinh phí công đoàn tạm tính bằng 2% quỹ lương.
Những khoản Chính phủ đã quyết định, nhưng năm 1996 chưa thực hiện được hoặc phải thực hiện trong năm 1997, cần phải đưa vào dự toán để chủ động khi điều hành, tránh tình trạng bỏ sót khi thực hiện phải trình bổ sung ngoài dự toán.
Không tính chi các khoản do ngành, địa phương tự quy định ngoài chế độ chung của Nhà nước; Các Bộ không được dự tính khoản chi hỗ trợ các địa phương, ngược lại các địa phương cũng không được tính khoản chi hỗ trợ cho các Bộ, ngành trung ương trái với phân cấp quản lý ngân sách và Luật NSNN.
Bố trí chi phải trên tinh thần tiết kiệm triệt để, hạn chế chi mua sắm trang thiết bị đắt tiền như ô tô con, máy điều hoà nhiệt độ... - Các công trình xây dựng mới, cải tạo và sửa chữa dùng vốn sự nghiệp hoặc kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia phải thực hiện theo đúng Quyết định số 92/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý, chống lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong đầu tư, xây dựng và chế độ hiện hành về quản lý đầu tư và xây dựng. Chỉ bố trí kế hoạch các công trình xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa lớn đã có thủ tục được duyệt theo quy định.
Chi sự nghiệp kinh tế: Bố trí tập trung ưu tiên các công việc phục vụ phát triển nông nghiệp, giao thông, chú ý vùng núi, vùng xa khó khăn. Phân tích rõ nội dung từng công việc phải thực hiện và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên; nêu rõ các căn cứ tính toán, như: Khối lượng công việc phải thực hiện, định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi và tổng số chi.
Chi giáo dục - đào tạo: Bố trí kế hoạch kết hợp với việc sắp xếp lại mạng lưới trường lớp một cách hợp lý và chủ trương xã hội hoá giáo dục, đào tạo. Tính đủ thu học phí, huy động nhân dân đóng góp và các khoản thu khác để đầu tư cho giáo dục - đào tạo. Nêu rõ các căn cứ tính toán, như: dân số theo vùng, số học sinh có mặt, số tuyển mới, số ra trường, số học sinh bình quân; mức chi và tổng số chi cho từng cấp học (giáo dục phổ thông; đại học, cao đẳng và trên đại học; đào tạo trung cấp; dạy nghề; đào tạo lại và bồi dưỡng).
Chi sự nghiệp y tế: Bố trí chi trên cơ sở sắp xếp lại mạng lưới cơ sở khám chữa bệnh, đẩy mạnh và mở rộng diện thực hiện bảo hiểm y tế, sử dụng có hiệu quả nguồn thu viện phí để bảo đảm yêu cầu chi; phân tích rõ chi phòng bệnh và chi chữa bệnh, các nguồn bảo đảm cho chi khám chữa bệnh (nguồn ngân sách cấp, thu viện phí, bảo hiểm y tế, viện trợ...).
Chi sự nghiệp văn hoá, thông tin: Các Bộ, địa phương phải rà soát lại nhiệm vụ, chương trình hoạt động bảo đảm thiết thực và có hiệu quả, nhưng phải trên cơ sở khai thác tích cực các nguồn thu. Ưu tiên bố trí kinh phí thực hiện phủ sóng phát thanh và truyền hình trên phạm vi cả nước và từng bước nâng cao chất lượng các tiết mục nghệ thuật, chất lượng phát sóng phát thanh và truyền hình, các nhiệm vụ chi văn hoá thông tin cơ sở.
Chi khoa học, công nghệ và môi trường:
Ưu tiên bố trí kinh phí thực hiện các chương trình, đề tài quốc gia của kế hoạch 5 năm 1996-2000.
Đối với đề tài cấp Bộ, ngành, địa phương: Chỉ bố trí cho các đề tài thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản, khoa học xã hội và chính trị. Các đề tài trực tiếp phục vụ sản xuất dùng nguồn từ quỹ phát triển khoa học của đơn vị hoặc thực hiện theo đặt hàng của doanh nghiệp.
Đối với các dự án sản xuất thử, thử nghiệm: Đánh giá hiệu quả thực hiện các dự án; tổng số đầu tư cho các dự án từ năm 1991 đến nay, số phải thu hồi trong năm 1997 theo đúng chế độ. Trên cơ sở đó, năm 1997 dùng nguồn thu hồi của dự án cũ để đầu tư cho các dự án mới; từ năm 1997 không bố trí thêm kinh phí từ NSNN để hỗ trợ các dự án sản xuất thử, thử nghiệm.
Các khoản chi khác, như chi hoạt động bộ máy các cơ quan khoa học, chi hợp tác quốc tế... bố trí theo chế độ hiện hành.
Chi về lương hưu và trợ cấp xã hội: Tính toán thuyết minh rõ số đối tượng (đối tượng cũ, đối tượng mới), mức chi theo chế độ hiện hành. Đối với chi lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, bệnh nghề nghiệp, NSNN bảo đảm chi cho những người nghỉ hưởng chế độ từ 31/12/1994 trở về trước; đối với những người nghỉ hưởng chế độ từ 1/1/1995 trở về sau do quỹ BHXH bảo đảm kinh phí chi trả.
Chi quản lý hành chính, Đảng, đoàn thể: Căn cứ vào biên chế được duyệt và mức chi bình quân cho từng khu vực để tính toán. Đối với các địa phương khi tính kế hoạch tách riêng các khoản chi quản lý nhà nước; chi cho ngân sách Đảng; chi hỗ trợ cho các tổ chức đoàn thể, hội quần chúng.
Đối với các khoản chi đặc thù riêng của từng ngành, như chi trang phục theo chế độ, chi cho công tác thi hành án, sản xuất huân, huy chương... phải thuyết minh chi tiết tình hình thực hiện năm 1996, dự kiến năm 1997 cho từng khoản chi.
Đối với các khoản chi từ nguồn thu phí, lệ phí theo chế độ được để lại cho đơn vị chi, các đơn vị phải lập dự toán như các khoản chi khác, theo mức chi hướng dẫn tại thông tư này và phản ánh vào dự toán thu, chi ngân sách của đơn vị.
6. Đối với các chương trình quốc gia:
Cơ quan chủ quản chương trình quốc gia tổ chức đánh giá hiệu quả thực hiện đến hết năm 1996; rà soát lại nội dung của từng chương trình, thời gian thực hiện, kết quả đã thực hiện (cả về nhiệm vụ và kinh phí), tổng mức kinh phí đầu tư (chia ra các nguồn)... trên cơ sở đó sắp xếp lại từng mục tiêu trong từng chương trình theo hướng: Các mục tiêu có tầm quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mang tính liên ngành cả về phạm vi ảnh hưởng và tổ chức thực hiện thì bố trí cân đối ngân sách, chỉ đạo điều hành từ trung ương, nhưng phân bổ kế hoạch và giao cho địa phương thực hiện; các mục tiêu mang tính chi thường xuyên, như chống xuống cấp, mua sắm, sửa chữa, các mục tiêu mang tính chất của riêng ngành, địa phương thì cân đối trực tiếp vào chi thường xuyên của các Bộ, địa phương để các Bộ, địa phương chủ động thực hiện.
Ưu tiên bố trí kinh phí thực hiện các chương trình theo kế hoạch tổng thể được duyệt. Không mở rông thêm chương trình.
Riêng đối với chương trình "Cho vay giải quyết việc làm", chương trình "Phủ xanh đồi núi trọc", chương trình "Đất trống vùng đồng bằng và bãi bồi ven biển", cơ quan chủ quản chương trình rà soát lại tổng mức vốn đã đầu tư, trong đó tổng mức cho vay có thu hồi, kiến nghị tổng mức dự nợ cho vay của chương trình để có cơ sở bố trí kinh phí bổ sung trong năm 1997.
7. Đối với các khoản chi khác:
Căn cứ vào tình hình cụ thể của từng đơn vị, từng Bộ, địa phương để tính chi, đảm bảo chi đúng chế độ, tiết kiệm, thuyết minh chi tiết cụ thể ước thực hiện năm 1996, dự kiến năm 1997 và các căn cứ tính toán cho từng khoản chi.
IV. Về phân cấp quan lý ngân sách
Căn cứ tình hình thực hiện ngân sách năm 1995, năm 1996, dự toán thu NSNN trên địa bàn, chi NSĐP năm 1997 và dự kiến thu, chi ngân sách năm 1998, 1999, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập và kiến nghị với Chính phủ tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa NSTW và ngân sách cấp tỉnh quy định tại khoản 2 Điều 28 của Luật NSNN, số bổ sung từ NSTW cho ngân sách cấp tỉnh để ổn định từ năm 1997 đến năm 1999. Đồng thời:
Căn cứ điểm 2 Điều 31, điểm 2 Điều 33, điểm 2 Điều 35 của Luật NSNN; căn cứ trình độ quản lý chi đầu tư XCBD của các cấp chính quyền địa phương, nguồn thu ngân sách của từng cấp và điều kiện cụ thể của địa phương mình, quy định tạm thời về phân cấp chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của địa phương làm căn cứ để xây dựng dự toán ngân sách năm 1997 trình Hội đồng nhân dân quyết định cùng với việc quyết định dự toán ngân sách năm 1997.
Hướng dẫn cho các cấp chính quyền địa phương về tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách cấp tỉnh với ngân sách từng quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh và ngân sách từng phường, xã, thị trấn quy định tại khoản 3 Điều 30, các khoản 2, 3 Điều 32 và khoản 2 Điều 34 của Luật NSNN; số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để các cấp chính quyền địa phương làm căn cứ xây dựng dự toán ngân sách.
V. Tổ chức thực hiện:
1. Năm 1997 là năm đầu thực hiện Luật Ngân sách nhà nước và tính toán để ổn định phân cấp quản lý ngân sách cho các năm sau, nên các cấp chính quyền chưa có đủ các căn cứ về phân cấp quản lý nguồn thu, các nhiệm vụ chi, tỷ lệ phân chia các khoản thu và số bổ sung từ ngân sách cấp trên để quyết định dự toán ngân sách cấp mình trước khi Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước. Vì vậy, UBND các cấp căn cứ Chỉ thị số 442/TTg ngày 3/7/1996 của Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn tại thông tư này và hướng dẫn của cấp trên, căn cứ vào số kiểm tra thu, chi ngân sách, lập dự toán ngân sách cấp mình gửi cấp trên để tổng hợp, lập dự toán ngân sách nhà nước; khi Quốc hội thông qua dự toán ngân sách nhà nước, Chính phủ sẽ giao thu, chi ngân sách, tỷ lệ phân chia các nguồn thu và số bổ sung cho các địa phương, UBND các cấp trình HĐND quyết định dự toán và phân bổ ngân sách cấp mình phù hợp với kế hoạch cấp trên giao.
Trong quá trình lập và tổng hợp dự toán thu NSNN, cơ quan thuế các cấp, Cục Hải quan các tỉnh và cơ quan quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thuộc UBND để xây dựng dự toán thu NSNN trên địa bàn sát đúng với thực tế của địa phương. Cơ quan thuế ở địa phương phối hợp với cơ quan tài chính, cơ quan quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp lập dự toán thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý gửi cơ quan thuế cấp trên, UBND và cơ quan tài chính cùng cấp; Cục hải quan các tỉnh lập dự toán thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thuộc phạm vi quản lý và các khoản thu khác liên quan đến xuất nhập khẩu gửi Tổng cục hải quan, UBND tỉnh, đồng gửi Sở Tài chính - Vật giá.
Cơ quan quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp theo phân cấp quản lý lập dự toán thu, chi đối với từng doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn, tổng hợp báo cáo cơ quan cấp trên, Uỷ ban nhân dân và cơ quan tài chính đồng cấp.
2. Tiến độ xây dựng và tổng hợp dự toán NSNN năm 1997:
Chậm nhất đến ngày 10/8/1996 các Bộ, địa phương xây dựng và tổng hợp dự toán thu, chi NSNN thuộc Bộ, địa phương mình quản lý gửi Bộ Tài chính để tổng hợp trình Chính phủ.
Bộ Tài chính sẽ thảo luận về dự toán thu, chi ngân sách 1997 với các Bộ, địa phương và các Tổng công ty lớn (Điện, than, thép, dầu khí, xi măng, hàng hải, hàng không dân dụng, bưu chính viễn thông, cao su, cà phê, lương thực, dệt may, giấy, thuốc lá...) trong thời gian từ ngày 10/8/1996 đến 20/9/1996. Lịch làm việc cụ thể, Bộ Tài chính sẽ thông báo sau.
Từ giữa tháng 9/1995 Bộ Tài chính tổng hợp, hoàn chỉnh dự toán NSNN và thuyết minh chi tiết về dự toán thu, chi của từng Bộ, địa phương trình Chính phủ, các Uỷ ban của Quốc hội để trình Quốc hội khoá IX, kỳ hợp thứ 10.
3. Về biểu mẫu báo cáo dự toán NSNN năm 1997:
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan khác thuộc Chính phủ xây dựng, tổng hợp và lập dự toán NSNN 1997 theo hệ thống biểu mẫu quy định theo phụ lục số 2 đính kèm; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng, tổng hợp và lập dự toán NSNN năm 1997 theo hệ thống biểu mẫu quy định tại phụ lục số 3 đính kèm thông tư này. Đối với các Bộ, địa phương có khoản chi đặc thù riêng cần lập các biểu số liệu tính toán cho phù hợp.
Yêu cầu các Bộ, địa phương bảo đảm đầy đủ các nội dung cần báo cáo, kèm theo thuyết minh chi tiết căn cứ xây dựng dự toán từng khoản thu, chi NSNN năm 1997.
4. Tổng cục Thuế, Tổng cục Đầu tư và phát triển, Tổng cục quản lý vốn và tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp, Kho bạc nhà nước trung ương có nhiệm vụ hướng dẫn chi tiết Thông tư này để thực hiện trong hệ thống và xây dựng, tổng hợp dự toán thu, chi NSNN thuộc lĩnh vực được giao.
5. Các Bộ, địa phương hướng dẫn các đơn vị trực thuộc điều hành, đánh giá việc thực hiện thu, chi NSNN năm 1996 và xây dựng dự toán NSNN năm 1997. Trong quá trính xây dựng dự toán NSNN năm 1997, nếu có chính sách chế độ mới, Bộ Tài chính sẽ hướng dẫn bổ sung. Khi triển khai thực hiện, nếu có khó khăn vưỡng mắc, đề nghị các Bộ, địa phương phản ánh về Bộ Tài chính để xử lý kịp thời.
1. Mức chi ngân sách về giáo dục, văn hóa thông tin, thể dục thể thao, phát thanh truyền hình, y tế (Áp dụng phân bổ ngân sách cho các địa phương)
Biểu số 13: Dự toán chi hỗ trợ đồng bào Chăm, Khơme và đồng bào dân tộc ít người đặc biệt khó khăn năm 1997
Biểu số 14: Dự toán trợ cước vận chuyển các mặt hàng chính sách miền núi năm 1997
Biểu số 15: Tổng hợp dự toán chi chương trình mục tiêu Quốc gia do NSTW cấp ủy quyền cho địa phương năm 1996.