Ca dao: Mồng một lưỡi trai, Mồng hai lá lúa (mạ), Mồng ba câu liêm, Mồng bốn lưỡi liềm, Mồng năm liềm giật, Mồng sáu thật trăng, Mười rằm trăng náu, Mười sáu trăng treo, Mười bảy sảy giường chiếu, Mười tám trăng lẹm, Mười chín dụn dịu, Hai mươi giấc tốt, Hăm mốt nửa đêm, Hăm hai bằng tai, Hăm ba bằng đầu, Hăm bốn ở đâu, Hăm lăm ở đấy, Hăm sáu đã vậy, Hăm bảy làm sao, Hăm tám thế nào, Hăm

Nội dung chi tiết

Mồng một lưỡi trai
Mồng hai lá lúa (mạ)
Mồng ba câu liêm
Mồng bốn lưỡi liềm
Mồng năm liềm giật
Mồng sáu thật trăng
Mười rằm trăng náu
Mười sáu trăng treo
Mười bảy sảy giường chiếu
Mười tám trăng lẹm
Mười chín dụn dịu
Hai mươi giấc tốt
Hăm mốt nửa đêm
Hăm hai bằng tai
Hăm ba bằng đầu
Hăm bốn ở đâu
Hăm lăm ở đấy
Hăm sáu đã vậy
Hăm bảy làm sao
Hăm tám thế nào
Hăm chín thế ấy
Ba mươi không trăng

Văn hóa nông nghiệp qua ca dao, tục ngữ

VIỆT KHUÊ (t.h)

Nền văn hóa nông nghiệp, sản xuất lúa nước truyền thống của dân tộc ta đã để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa, sinh hoạt, lao động. Trải qua bao thế hệ cha ông ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất và dự báo những hiện tượng tự nhiên như nắng, mưa, gió rét, bão lụt có ảnh hưởng đến mùa màng, thời vụ. Những kinh nghiệm máu xương của bao đời được tích tụ trong những câu tục ngữ, ca dao về trồng lúa, trồng cây, chăn nuôi… Đây chính là bài học quý giá mà người nông dân Việt Nam xưa kia truyền lại cho các thế hệ cháu con.

Khi chưa có khoa học khí tượng, cha ông ta đã biết dựa vào quá trình quan sát thời tiết, sự vật và rút ra được những quy luật ngắn gọn, cụ thể về những biến động mưa, nắng:

“Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa”

“Mây kéo xuống biển thì nắng chang chang,
Mây kéo lên ngàn thì mưa như trút”

“Mống đông vồng tây, chẳng mưa dây cũng bão giật”

“Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa”

“Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão”

“Én bay thấp mưa ngập cầu ao,
Én bay cao mưa rào lại tạnh”

“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”

“Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước”…

Nếu như người dân đồng bằng nhìn chim én bay, chuồn chuồn lượn để dự đoán thời tiết thì người dân trung du lại dựa vào chú ong để đoán định:

“Ong về mần nhiều, liệu chiều kiếm củi”

“Ong vàng làm thấp, bão sấp bão ngửa”

Về khí hậu nóng, lạnh trong các tháng cũng được đánh dấu mốc trong ca dao, tục ngữ:

“Gió bấc hiu hiu, sếu kêu thì rét”

“Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân”

“Tháng tám nắng rám trái bưởi”

“Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm”.

Các nét đặc biệt của các tháng trong năm được truyền qua bao đời

“Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng”

“Ngày tháng mười chưa cười đã tối”

“Buồn về một nỗi tháng giêng,
Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài.
Buồn về một nỗi tháng hai,
Đêm ngắn ngày dài, thua thiệt người ta.
Buồn về một nỗi tháng ba,
Mưa dầm, nắng lửa, người ta lừ đừ.
Buồn về một nỗi tháng tư,
Con mắt lừ đừ, cơm chẳng muốn ăn.
Buồn về một nỗi tháng năm,
Chửa đặt mình nằm, gà gáy chim kêu

Sự luân chuyển của thời gian cũng được miêu tả chính xác, sinh động:

“Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng”

“Nắng chóng trưa, mưa chóng tối”

“Mồng một lưỡi trai, mồng hai lá lúa.
Mồng ba câu liêm, mồng bốn lưỡi liềm 
Mồng năm liễm giật, mùng sáu thật trăng…”

“Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo”
“Gió nam đưa xuân sang hè”

 

Để gieo cấy thành công, đúng thời vụ và bội thu người dân phảI quan sát tỉ mỉ các hiện tượng tự nhiên trong một quá trình nhất định, ghi nhớ các kỹ thuật canh tác để rút thành cẩm nang kinh nghiệm sản xuất cho bao thế hệ.

Muốn gieo trồng, cày bừa không phải cứ tùy tiện thích trồng lúc nào là trồng. Mà phải dựa vào các điều kiện thuân lợi của tự nhiên:

“Mồng chín tháng chín có mưa,
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn.
Mồng chín tháng chín không mưa,
Thì con bán cả cày bừa đi buôn”

“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm, phất cờ mà lên”

“Phân tro không bằng no nước”

“Tỏ trăng mười bốn được tằm
Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm”

“Thiếu tháng hai mất cà,
Thiếu tháng ba mất đỗ,
Thiếu tháng tám mất hoa ngư,
Thiếu tháng tư mất hoa cốc”

Dựa vào tự nhiên, tuân thủ theo nguyên tắc “mùa nào thức nấy” đã ăn sâu trong suy nghĩ, kinh nghiệm lao động:“Anh ơi! Cố chí canh nông,

Chín phần ta cũng dự trong tám phần.
Hay gì để ruộng mà ngăn,
Làm ruộng cấy lúa, chăn tằm lấy tơ.
Tằm có lứa, ruộng có mùa.
Chăm làm trời cũng đền bù có khi…”

“Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà

Tháng ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô
Tháng tư đi tậu trâu bò
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm…”

“Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ,
Tua rua, bằng mặt, cất bát cơm chăm”

“Đất thiếu trồng dừa, đất thừa trồng cau”
”Thưa ao tốt cá”

“Nhai kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa”

“Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”
“Năm trước được cau, năm sau được lúa”

“Tháng giêng trồng trúc, tháng lục trồng tiêu”

“Mạ úa cấy lúa chóng xanh,
Gái dòng chóng đẻ sao anh hững hờ?”

“Nhờ trời mưa gió thuận hoà.
Nào cầy nào cấy, trẻ già đua nhau.
Chim, gà, cá, lợn, cành cau,
Mùa nào thức nấy giữ màu nhà quê”

“Làm ruộng ăn cơm nằm,
Chăn tằm ăn cơm đứng”

“Hễ mà hoa quả được mùa,
Chắc là nước bể, nước mưa đầy trời.
Ai ơi nên nhớ lấy lời.
Trông cơ trời đất, liệu thời làm ăn”

Các giống vật nuôi gắn liền với đời sống nông nghiệp cũng được người dân Việt lựa chọn, chăm sóc kĩ càng để chúng đem lại lợi ích cao nhất, thiết thực nhất, đặc biệt là hình ảnh con trâu, biểu tượng gắn liền với nhà nông được nhắc đến một cách rất quí trọng:

 

“Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày giữ nghiệp nông gia.
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công!
Bao giờ cây lúa còn bông, thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”.
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”

“Trâu gầy cũng tày bò giống”

“Trâu năm sáu tuổi còn nhanh,
Bò năm sáu tuổi đã tranh về già,
Đồng chiêm xin chớ nuôi bò,
Mùa đông tháng giá, bò dò làm sao!”

“Nuôi gà phải chọn giống gà,
Gà ri bé giống nhưng mà đẻ mau
Nhất to là giống gà nâu,
Lông dày thịt béo về sau đẻ nhiều”

“Chó khôn tứ túc huyền đề.
Tai hơi cúp, đuôi thì hơi cong.
Giống nào mõm nhọn đít vồng,
Ăn càn cắn bậy ấy không ra gì”

“Giàu nuôi lợn nái, lụi bại nuôi bồ câu”.

“Lợn đói một năm không bằng tằm đói một bữa”.

“Làm ruộng có năm, nuôi tằm có lứa”

“Dâu non ngon miệng tằm”…Với những câu ca dao, tục ngữ có vần có điệu, duyên dáng, sinh động, dễ nhớ…cha ông ta đã gửi gắm tình cảm gắn bó, hòa mình với thiên nhiên, đồng thời ấp ủ khát vọng chinh phục, cải tạo thiên nhiên, đó là những cách nghĩ, nếp sinh hoạt, lao động sản xuất của người dân nông nghiệp. Người Việt xưa luôn có ý thức về việc đúc rút, gìn giữ, lưu truyền những kinh nghiệm quí báu cho các thế hệ nối tiếp.

 

 

 

 

Ngày nay tuy khoa học kỹ thuật đã tiến bộ vượt bậc, con người đã dự báo chính xác các hiện tượng tự nhiên một cách nhanh chóng, chính xác và các biện pháp khắc phục trở ngại do tự nhiên mang lại, bay cao bay xa chinh phục những chân trời mới. Việc sản xuất nông nghiệp được áp dụng khoa học kỹ thuật cho thu hoạch tối ưu, có thể sản xuất nhiều mùa trong năm… Song thiết nghĩ thành tựu ấy vẫn được dựng xây trên cái nền cơ bản xa xưa: kinh nghiệm dân gian

VIỆT KHUÊ (t.h)

Đại Chúng
Mồng một lưỡi trai, Mồng hai lá lúa (mạ), Mồng ba câu liêm, Mồng bốn lưỡi liềm, Mồng năm liềm giật, Mồng sáu thật trăng, Mười rằm trăng náu, Mười sáu trăng treo, Mười bảy sảy giường chiếu, Mười tám trăng lẹm, Mười chín dụn dịu, Hai mươi giấc tốt, Hăm mốt nửa đêm, Hăm hai bằng tai, Hăm ba bằng đầu, Hăm bốn ở đâu, Hăm lăm ở đấy, Hăm sáu đã vậy, Hăm bảy làm sao, Hăm tám thế nào, Hăm

Các mục liên quan:



Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận