“Không sai! Nếu nói vậy, tướng quân chỉ có thể đưa quân Thanh Châu đi cứu Dự Châu mà thôi.” Từ Tĩnh nói.
Thương Dịch Chi nhíu mày, lại hỏi: “Nhưng người Bắc Mạt thật sự sẽ đánh lén Dự Châu sao?”
Từ Tĩnh cười cười, lấy tay chỉ lên bản đồ trên mặt bàn theo hướng từ dưới lên, khoa tay múa chân nói: “Nếu là đi xuống phía dưới này, tất sẽ không tấn công Thái Hưng, mà sẽ dẫn binh theo sườn phía Tây dãy núi Ô Lan yên lặng mà lên, vượt qua con dốc thoai thoải này xuyên qua hệ thống núi Ô Lan sau đó chuyển sang hướng nam, bất ngờ tập kích Dự Châu, chia cắt phía nam và bắc của Giang Bắc ta, khiến cho biên quân của ta ở Tĩnh Dương không thể quay trở lại. Dự Châu lại là vựa lúa của Giang Bắc, hiện giờ lại đúng vào thời điểm thu hoạch vụ thu, người Bắc Mạc quân trang nhẹ nhàng mà đến, trong quân lương thảo tất nhiên không đủ dùng, vì vậy tấn công Dự Châu sẽ tiện thể lấy luôn lương thảo của ta.”
“Không sai!” Thương Dịch Chi đấm mạnh một quyền lên bàn, khiến mọi người trong trướng đều hoảng sợ. Thương Dịch Chi thấy biểu tình kinh ngạc của mọi người, liền cố nén kích động trong lòng, sắc mặt bình tĩnh nói: “Tiên sinh nói có lý, viện binh Thanh Châu của ta sẽ tới Dự Châu, nghênh đón thiết kỵ của thát tử ngoài núi Ô Lan.”
Phó tướng là một hán tử thô lỗ hơn ba mươi tuổi tên là Hà Anh Dũng. Nghe Thương Dịch Chi nói vậy, trên mặt có chút do dự, nói: “Tướng quân, nhưng chúng ta nhận được quân lệnh của triều đình là phải khẩn cấp chi viện cho Thái Hưng, nếu bây giờ chúng ta thay đổi đi Thanh Châu, triều đình trách tội xuống thì phải làm sao?”
Từ Tĩnh cũng lẳng lặng nhìn Thương Dịch Chi, cười mà như không cười hỏi: “Tướng quân có dám phiêu lưu mạo hiểm không?”
Thương Dịch Chi nhìn phó tướng Hà Anh Dũng, lại nhìn Từ Tĩnh, nhướn mi cười nói: “Ngươi nói thiếu gia ta sợ hay không sợ đây?”
Từ Tĩnh cùng Thương Dịch Chi nhìn nhau cười to, không buồn để ý tới Hà phó tướng, khiến hắn ta chỉ có thể trợn trừng đôi mắt trâu mê hoặc nhìn hai người. Thương Dịch Chi ngừng cười, đột nhiên phát hiện A Mạch vẫn cúi đầu đứng ở trong trướng, không khỏi nhíu mày, lạnh giọng hỏi: “Sao ngươi vẫn còn ở đây?”
A Mạch sửng sốt, thầm nghĩ ngươi không bảo ta đi. Ngươi không phân phó, ta dám đi sao? A Mạch đang nghĩ xem nên làm thế nào để nói lời cáo từ với viên tướng quân này thì nghe thấy Thương Dịch Chi phân phó người thân vệ bên cạnh: “Dẫn hắn đi” Dừng lại một chút liếc mắt đánh giá A Mạch một cái, lại nói thêm: “Đưa về dưới trướng là tốt rồi.”
A Mạch không rõ viên tướng này nói đưa nàng về dưới trướng là có ý gì, mãi đến kia tên thân vệ dẫn đi, nàng mới biết ý của Thương Dịch Chi là cho nàng làm thân binh đi theo hắn.
Hơn hai mươi năm trước, quân đội Nam Hạ từng trải qua một sự cải cách lớn, lúc ấy Tĩnh quốc công từng đem Bộ Binh đổi thành Bộ Quốc Phòng, bên dưới biên chế thành quân khu, quân, sư. Khi ấy, cải cách này gặp phải sự phản đối mãnh liệt của các lão thần trong triều. Về sau Tĩnh quốc công lui về quy ẩn, trải qua hơn hai mươi năm, biên chế trong quân đội của Nam Hạ đã có nhiều thay đổi, đến mấy năm trước mới dần dần ổn định. Bộ Quốc Phòng lại bị đổi trở lại thành Bộ Binh, phía dưới biên chế chia làm quân, doanh, đội, ngũ. Mười người là một ngũ, trăm người là một đội, ngàn người là một doanh, quân thì có lớn có nhỏ, lớn thì mấy vạn người, nhỏ thì mấy ngàn người. Quân hàm lại chia ra thành Soái, Tướng, Giáo, Úy, Ngũ trưởng, Binh. Theo đó, từ cấp “Úy” trở lên là có thân binh tùy tùng.
Đường Thiệu Nghĩa mặc dù được xưng là giáo úy, nhưng thật ra quân hàm “Úy” này chẳng qua chỉ là một chức đội trưởng mà thôi. Quân hàm của Thương Dịch Chi tất nhiên cao hơn hắn nhiều, xem như là chủ tướng của một thành, thủ hạ có hơn hai vạn binh lính. Dựa theo tiêu chuẩn có thể dùng đến cả ngàn thân binh, bất quá ngàn thân binh này cũng không phải đều theo bên người hắn hầu hạ, mà còn đảm nhiệm cả nhiệm vụ làm cảnh vệ, thông tin, cần vụ cho chiến địa.
Vừa rồi Thương Dịch Chi nói “dưới trướng” tức là chỉ mấy chục người theo hầu bên cạnh hắn. Tên thân vệ dẫn A Mạch đi thay quần áo lúc nãy đã quay lại, bản thân hắn bất giác có chút đắc ý, cảm thấy mình quả thực đoán không sai, tên A Mạch này đúng là một tiểu tử tuấn tú, thật sự có khả năng trở thành huynh đệ của mình.
Tên thân vệ kia tự giới thiệu: “Ta gọi là Trương Sinh, ta xem ngươi so với ta nhỏ tuổi hơn, về sau gọi ta là Trương đại ca là được rồi.”
A Mạch khóe miệng khẽ mím lại, vì đột nhiên nhớ tới rất lâu trước kia mẫu thân từng kể cho nàng nghe một câu chuyện xưa, có một người cũng được gọi là Trương Sinh, hiện tại nghĩ đến đã không còn nhớ rõ chuyện xưa nói cái gì, chỉ mơ hồ nhớ bên trong còn có người gọi là Hồng Nương, nha hoàn cùng Thôi Oanh Oanh tiểu thư(1).
“Trương đại ca, ngài gọi ta là A Mạch là được rồi.” A Mạch nói.
“A Mạch? Họ gì?” Trương sinh hỏi.
“Họ Mạch.”
“Họ Mạch? Kêu A Mạch?” Trương Sinh có chút khó hiểu: “Mạch A Mạch?”
A Mạch khóe miệng lại co rúm lại, nhưng không nói gì, chỉ gật gật đầu. Mạch Tuệ, cái tên kia do cha mẹ tùy tiện đặt cho, giống như đã chẳng còn liên quan đến mình nữa, thôi thì cứ gọi là Mạch A Mạch đi.
Từ đêm đó, A Mạch trở thành cận vệ tạm thời sống yên ổn trong doanh trướng của Thương Dịch Chi. Trong doanh trướng này có hai mươi thân vệ binh, ngoại trừ mười tên trực đêm trong đại nội quân trướng, bên trong còn lại mười người ngủ chung. Cùng một đám đàn ông ngủ chung một chỗ, A Mạch có cảm giác rất quái dị. Nhưng cũng may là trên đường hành quân cắm trại, những người này chẳng những phải đảm bảo an toàn cho chủ tướng, mà còn phải nghe hắn sai sử, cho nên nào dám ngủ mê mệt, nên về cơ bản đều là gối đầu lên binh khí mà ngủ.
A Mạch cuối cùng đã có thể thở dài một hơi nhẹ nhõm.
Có lẽ là đối với A Mạch còn có chút đề phòng cho nên Trương Sinh an bài A Mạch ngủ ở trong cùng, cũng may hắn còn nhớ chuyện trên người A Mạch có rận, nên trên mặt tuy không tỏ vẻ gì, nhưng theo bản năng lại nằm dịch ra bên ngoài, cách A Mạch càng xa càng tốt.
A Mạch có chút kinh ngạc khi phát hiện ra phần lớn vệ binh của chủ tướng đều là những thiếu niên có khuôn mặt thanh tú. Nàng không thể không nghĩ ngợi một chút, cho rằng cái tên “bại hoại tướng quân” này có lẽ có chút sở thích đặc biệt. A Mạch không biết rằng nàng nghĩ như thế thật quá oan uổng cho “bại hoại tướng quân”, cho đến sau này, khi nàng trở thành một tên tiểu binh, chính thức đứng trong hàng ngũ quân doanh, đến khi nàng dùng kiếm cắt đứt yết hầu của một người, A Mạch mới hiểu được Thương Dịch Chi dùng những thiếu niên có diện mạo đẹp đẽ này trong doanh trướng của mình thật là là có ý tốt.
Doanh trướng của đội cận vệ ngay sát doanh trướng của chủ tướng, bên trong doanh trướng của chủ tướng ánh nến vẫn sáng. Thương Dịch Chi cùng các tướng lĩnh thủ hạ không biết đang thương nghị cái gì. Mà Từ Tĩnh cũng vẫn lưu lại trong trướng, A Mạch nghĩ ông ta có khả năng đã lấy được sự tín nhiệm của Thương Dịch Chi, tuy rằng mới chỉ ngắn ngủi có nửa ngày.
Ngày thứ hai, quân Thanh Châu nhổ trại. Trương Sinh đưa cho A Mạch một con ngựa lông đỏ sẫm, hỏi A Mạch có biết cưỡi ngựa hay không. A Mạch vốn định nói là không biết, song nhìn lướt qua thấy hầu hết binh lính đều đi bộ liền nhanh chóng gật đầu. Nhưng khi quay đầu lại nàng đã thấy hối hận, bởi vì Từ Tĩnh lại được ngồi trên xe.
Từ khi A Mạch bán con ngựa duy nhất của mình đến giờ thì đã gần nửa năm nàng chưa cưỡi ngựa. Nửa năm qua tuy rằng nàng vẫn bôn ba khắp nơi, nhưng làn da trên đùi non của nàng cũng đã nhẵn nhụi đi nhiều. Nay lại cưỡi ngựa, không tránh khỏi việc thở ngắn than dài. Nhưng lại an ủi chính mình, dù sao nếu phải chạy trốn thì bốn chân nhất định phải nhanh hơn hai chân. Nghĩ như vậy, nhưng nàng lại không có can đảm bỏ trốn. Trong quân, việc đối đãi với binh lính đảo ngũ chỉ có một loại đãi ngộ gọi là “đao tước diện”(2), cái này thì nàng đã từng nghe nói đến.
A Mạch vài lần cưỡi ngựa đi ngang qua xe ngựa của Từ Tĩnh, nhìn ông ta ám chỉ vài thứ, ý tứ nói là mục đích của ông ta đã đạt được rồi, thì hãy nghĩ đến chút tình nghĩa mà nói giúp với Thương Dịch Chi thả nàng đi.
Song lần nào Từ Tĩnh cũng chỉ nở nụ cười bí hiểm mà không hề tiếp lời.
Đại quân tiến lên với tốc độ rất chậm, tuy rằng Thương Dịch Chi hạ lệnh phải đẩy nhanh tốc độ hành quân, nhưng vẫn phải đi mất tới mười ngày đường mới đến nơi. Khi quân Thanh Châu tới được ngoài thành Dự Châu thì đã là giữa chín tháng.
Trên đường đi, Thương Dịch Chi đã phái quân sĩ cưỡi ngựa chạy tới Dự Châu báo tin trước, sau vài ngày tên lính đó trở về, nói bốn cửa thành Dự Châu đều đóng chặt, giống như gặp phải đại địch. Khi quân Thanh Châu đi tới dưới thành, thấy quả thực như thế, càng bực hơn nữa chính là quân coi giữ thành Dự Châu lại nhất quyết không chịu mở cửa thành, nói là sợ trong quân có trá, sợ thát tử Bắc Mạc giả trang.
Thương Dịch Chi nghe xong thì vô cùng giận dữ, phi ngựa tiến lên phía trước mà lớn tiếng quát mắng, nói con mẹ các ngươi, ngay cả người một nhà mà cũng không nhận được sao? Bổn đại gia đi từ xa đến giúp các ngươi, các ngươi liền dùng cái đức hạnh này để đón tiếp? Mau gọi chủ tướng thủ thành Dự Châu ra đây, nhìn xem đại gia có phải là thát tử Bắc Mạc hay không?
Đương nhiên, nguyên văn lời nói của Thương Dịch Chi không phải là mắng chửi như vậy, hắn dù sao cũng là kẻ được học qua đèn sách, ở kinh thành là một nhân tài kiệt xuất về ăn chơi trác táng, tuy rằng bại hoại, nhưng văn nho(3) vẫn là có một chút.
Trên tường thành, quân coi giữ nghe thấy vị tướng quân dưới thành nói như vậy,thì vội vàng chạy đi mời chủ tướng. Vi n chủ tướng kia họ Thạch tên Đạt Xuân, làm chủ tướng thành Dự Châu đã được bảy năm, trong suốt thời gian đó mới chỉ đến kinh thành hai lần, nhưng đều không gặp qua Thương Dịch Chi. Thương Dịch Chi lại mới tiếp nhận chức tướng quân thủ thành Thanh Châu, còn chưa kịp đến tới những thành thị lân cận la cà, cho nên hai người này chẳng ai nhận ra ai.
Thương Dịch Chi ở dưới thành hô to: bản tướng là chủ tướng thủ thành Thanh Châu Thương Dịch Chi, trên thành Thạch Đạt Xuân nào dám tùy tiện tin tưởng. Vì thế ông ta căn cứ vào nguyên tắc an toàn thứ nhất tắc hỏi lại: “Có bằng chứng gì không?”
Thương Dịch Chi giận đến nỗi thiếu chút nữa thì cẵn phải đầu lưỡi, thầm nghĩ ta chính là người sống đến đây, ngươi còn quản ta chứng minh thân phận sao? Muốn đòi loại bằng chứng nào đây? Chẳng lẽ còn phải đem ấn của ta đem cho ngươi nghiệm chứng sao? Đang nghĩ tới đây, không ngờ trên tường thành quả thực nói vọng xuống: “Nếu thật sự là Thương tướng quân, thỉnh đem ấn ra đây xem một chút.”
“Hắc! Giỏi! Giỏi lắm!” Thương Dịch Chi tức giận cười lớn. Ngay cả con ngựa đang cưỡi bên dưới tựa hồ cũng nóng rực lên, phát ra tiếng thở phì phì trong mũi, ở tại chỗ quay đi quay lại vài vòng. Thương Dịch Chi trong lúc xoay người tầm mắt vô tình nhìn thấy A Mạch đang đứng ở cách đó không xa, lập tức trở nên âm lãnh hai phần, hung hăng nhìn nàng một cái.
A Mạch trong lòng cả kinh, thầm nghĩ người này sẽ không vì giận chó đánh mèo đấy chứ? Nàng lập tức co rút người lại, muốn tránh khỏi ánh mắt hung ác của Thương Dịch Chi. Không ngờ lại nghe thấy âm thanh lạnh lùng của hắn: “A Mạch!” Hắn nghiến răng gọi.
“Đây!” A Mạch theo bản năng đáp lại, phía sau đó mơ hồ nghe thấy Trương Sinh nhỏ giọng mắng: “Phải nói “Có mặt”, không được nói “Đây”! Ngu ngốc! Nói bao nhiêu lần rồi!”
A Mạch hiện tại làm sao có sức cùng hắn so đo này đó, hai chân nhẹ thúc vào bụng ngựa, kinh hồn táng đảm tiến đến gần Thương Dịch Chi. Thương Dịch Chi đi đến sát tường thành, ngửa mặt nhìn về phía chủ tướng thành Dự Châu, hô to: “Xin hỏi tướng quân, giáo úy Đường Thiệu Nghĩa coi giữ thành Hán Bảo có ở trong thành không?”
————————
Chú thích:
(1) Trương Sinh, Hồng Nương, nha hoàn, Thôi Oanh Oanh: những nhân vật trong Tây Sương Ký.
(2) đao tước diện: khắc dao lên mặt
(3) văn nho: sự nho nhã của thư sinh