Chuyện Nỏ Thần Chương 12


Chương 12
Ba bố con Đô Nồi can vua Thục đừng cho Triệu Đà cầu hôn cho con không được, liền về Chiêm Trạch làm ruộng.

Các ông Đinh Toán, Đinh Công Tuấn, anh em ông Phạm Chung, Phạm Túc, Phạm Hòa cũng bỏ đi cả. Họ Đinh ngược lên ngọn nước. Họ Phạm về Mi Linh. Đến khi Triệu Đà phát quân xâm lược, ba bố con Đô Nồi cùng người Chiêm Trạch lại lên thành Loa chống giặc. Đô Nồi cùng hai con là Đống và Vực đều chết trận. Gò đất to cạnh sông Đuống đầu làng Chiêm Trạch, đời sau gọi là gò Thánh Hóa. ... Cao Tứ, em Cao Lỗ, nghe tin quân Triệu tới, vội trở lại thành Loa, xông pha trận tiền, cản đường giặc cho vua Thục chạy. Cuối cùng, thế yếu, Cao Tứ gieo mình xuống sông Tô Lịch

(Truyền thuyết Hùng Vương-Hội Văn nghệ tỉnh Vĩnh Phú, 1981)

* * *

Những đàn ngựa, những cánh quân Triệu kéo đi bạt ngàn. Những ngọn giáo dựng sáng loáng trên đầu. Những cánh cung lủng liểng bên vai. Bao nhiêu bụi tre, bao nhiêu làng xóm bốc cháy. Người cõng con, người dắt trâu chạy. Một mũi tên bắn đuổi theo con trâu bồn. Đám quân Triệu xô tới, xỉa giáo xiên ngã con trâu. Hoa gạo đỏ gắt rụng lỗ chỗ, hoa tan tác đỏ, lẫn những vết máu suốt dọc đường. Quân trảy rối loạn cả với những đám người chạy trong lửa chạy trong lửa cháy làng ra.

- Đây đã đến đâu?

- Vào qua Vũ Ninh rồi.

- Gần Kẻ Chủ lắm, phải không?

- Đi tắt chỉ còn trong ngoài trống canh.

Tiếng quân reo vang. Quân Triệu miên man đi trong ánh lửa cháy các làng xóm. Cả đến những mảnh bè vó trên sông cũng bốc cháy cuồn cuộn. ở đầu làng kia, người chạy loạn đến đứng tụ ngoài bờ giếng. Chưa biết chạy đâu.

- Nghe nói nó còn tận xa.

- Đến nơi rồi đây này.

- Đau lòng chưa! Chỉ bởi chưng cả tin quá.

- Sao bảo con vua Triệu vào làm rể vua chủ thì thiên hạ thái bình!

- Vừa mới năm trước đi xem bao nhiêu lừa ngựa dẫn đồ cống của vua Triệu hàng năm tiến vua chủ. Năm trước đây thôi.

- Thế mới thâm.

- Chỉ có ông Cao Lỗ nói chẳng sai. Úy Đà nuốt xong Quế Lâm, Tượng Quận rồi nó nuốt đến ta. Thế mà quả nhiên.

- Giặc sang nhanh vậy, quân các cõi có kịp biết mà về sớm không?

- Ố i trời ơi!

- Quạ vỡ tổ bay ngang sông nhiều quá. Đồng rừng to thế kia, cơ chừng giặc đến sau lưng mất rồi.

Vua Thục dừng ngựa trong đám quân tuần thành nhìn xuống. Từ ngoài các bến nước trước cổng thành, chen nhau người chạy vào. Từng đàn trâu bồn giữa đám người bối rối. Lại hàng đàn trâu đương bơi loạn giữa dòng. Đã mấy hôm xao xác như thế, từ khi có tin quân Triệu tràn tới. Thật lạ, thật ngỡ ngàng, mới nghe có tin báo. Vua Thục điềm nhiên hỏi lại:

- Giặc nào?

Ông lạc tướng vừa chạy tin về, run rẩy thưa:

- Ú y Đà đã phát quân phạm vào cõi ta.

Vua Thục trố mắt nhìn ông lạc tướng:

- Quan quân nó áp tải đồ cống năm nay vừa mới về mà.

Ông lạc tướng càng run bắn người. Ngỡ như vua Thục nghe lạc tai. Không tin, vua chủ sắp hô lệnh đem chém ông. Nhưng vua Thục đã đứng phắt dậy, hai tay vụt ôm lên, như giằng hàm râu ra. Vua Thục thét to:

- Quân chó ngao phản trắc! Quân phản trắc! Nó quên mấy phen trốn chết năm xưa rồi.

Suốt đêm ấy, vua Thục trằn trọc. Những nông nỗi ngoài mười năm qua cứ hiển hiện, đuổi mất giấc ngủ vua chủ. ánh trăng vằng vặc trong khuya. Mùi hoa mộc, hoa cau ngoài hiên đưa vào, thơm nhẹ. Mà sao không như mọi khi, chỉ thấy gây gây. Đêm nay mùi hoa cau khó chịu như hoa ngái. Thân phận Úy Đà chưa đáng đi bằng đầu gối đến lạy trước mặt ta, ta đã đối xử độ lượng, có lòng đến nhường ấy mà vẫn chưa mở mắt được cho nó. Thế là làm sao? Nghĩ vậy, bất giác vua Thục nhớ lời ruột gan của anh em Cao Lỗ, của bố con Nồi hầu, những người thân tín ngày trước. Vua Thục nhìn chăm chắm vào khoảng không. Quả là những người ấy, con mắt có tầm, cái biết cao hơn ta. Nhưng mà được, được. Ta đã tha chết cho mày. Ta đã lấy cái gương yên vui của thiên hạ làm điều răn dạy mày, lại xem mày như tình trong nhà, thế mà mày cam tâm đến cạn tàu ráo máng thế. Được, mày lại phải phen nữa máu chảy đến trôi cả khiên, mày lại được thế. Vua Thục nghẹn ngào uất lên, ngồi xuống. Phải gọi các tướng của ta về ngay. Bên cạnh ta với nỏ thần lúc này phải đông đủ những người đã từng cùng ta nằm gai nếm mật. Ta sẽ đãi mỗi ông một sừng rượu. Ta nói: các ông đã trông thấy trước có ngày Úy Đà lại đến chịu chết bên sông kia. Các ông đã nhìn xa hơn cả vạn dặm ngoài cửa bể. Xin các ông hãy cùng tôi cạn sừng này rồi ta lên lệnh chiêng. Ngay giữa khuya, vua Thục gọi quân thủ túc vào.

- Mời các ông họ Đinh về.

Ngựa tức khắc lên ngược. Thuyền lệnh xuôi sông Thiếp sang sông Lú ra cửa sông Cái, chèo như tên bắn đi tìm anh em các tướng họ Phạm.

- Ai biết tướng quân Cao Lỗ đâu?

Mọi người lắc đầu.

- Về Chiêm Trạch báo tin bố con Nồi hầu. Nhân thể hỏi anh em Cao Lỗ, ông Đô Nồi có thể biết.

Quân quan chia nhau đi ngay trong đêm.

Tiếng ngựa đã vẳng xa, vua Thục mới chợp mắt. Những việc vừa thu xếp xong đã đưa được giấc ngủ chập chờn lại. Nhưng chỉ chốc lát, mõ canh lẫn trống trên thành đã nổi gấp gấp. Tiếng trống đồng rộn rã, tiếng trống sắp vào trận lại dựng vua Thục ngồi dậy. Ngay hôm ấy, vua chủ lên mặt thành sửa soạn, xem xét. Chưa bao giờ vua Thục cảm thấy nghiêm trọng với những đăm chiêu, những quả quyết như lần này. Vua Thục vẫn đinh ninh một niềm tin mãnh liệt. Nhưng hễ chợt nghĩ đến lòng người "lá mặt lá trái khôn lường" nhường ấy, phút chốc vua Thục lại bàng hoàng, lại sững sờ. Càng căm giận đến rởn tóc gáy, vua Thục càng mải mê đôn đốc mọi mặt, từ các phường ra ven hào, ven sông. Vua Thục lên thành. Đoàn người ngựa đã từ thành nội tấp nập lên trấn cửa thành các phía. Một ông quan võ cưỡi ngựa thổi tù và mở đường, Từng hàng các cô nàng múa tay gõ cồng dẹp đám. Các ngả đường trong đám thành đã vắng tanh. Cây gạo rụng hoa trên bãi cỏ, mỗi chỗ đỏ sẫm như vũng máu khô. Các phường như các lều chợ, nhà nào cũng đóng cửa im ỉm. Mới mấy hôm trước còn những người ra đứng quanh khuôn giếng lấy nước xúm xít bàn tán với người quảy gông cỏ cho tàu ngựa, người chạy vỡ chợ về. Bây giờ đã mất bóng đâu. Chỉ độc thấy những đoàn quân ròng rã kéo lên thành. Những chiếc xe quệt trâu tải tên nỏ, những thớt voi lầm lì khênh thạp xôi, tảng thịt trâu... Sau một dãy ngựa, đàn đi trước đàn đi sau vua chủ, có hai thớt voi, trên lưng xếp bề bộn mọi thứ" trầm hương, cảnh rượu, những gióng buộc một dây lợn sống. Lại cả chăn, chiếu, đệm. Vua chủ đi đốc chiến ngày đêm ở luôn trên thành. Trên thềm bàn cờ quân đá cuội gọt đã được bày sẵn từ bao giờ. Có lẽ bàn cờ quân cờ ấy vẫn nguyên thế ở chỗ ấy, từ ngoài mười năm trước, những hôm vua Thục và Cao Lỗ ung dung đánh cờ nghĩ mưu đợi đánh giặc Triệu. Một ông quan hầu bước lại bàn cờ -có lẽ ông lạc tướng đương mơ lại những ngày đánh giặc dữ dội mà thong dong năm xưa. Ông lạc tướng đánh bạo nói với vua Thục:

- Vua chủ cho mời đức ông Cao Lỗ về hầu cờ.

Vua Thục mỉm cười, ái ngại, ôm râu vuốt, gật đầu, toan nói: "Chưa có người hậu cờ là tại ta đây". Nhưng vua Thục chỉ nói:

- Đã đi hỏi tin rồi.

Vua Thục ra lệnh:

- Nổi chiêng hiệu lên xem các cõi về đủ chưa.

Chiêng rền từng tiếng. Các mặt thành, gióng giả liên hồi chiêng. Quan lạc tướng lắng nghe rồi nói:

- Tiếng đáp lệnh chỗ dồn dập, chỗ còn thưa.

- Chốc lại nổi chiêng nữa soát lại.

Ba hôm sau. Giữa trưa, một quan lạc tướng bỏ ngựa dưới tường thành hấp tập chạy lên.

- Quân Triệu vít chặt bên kia sông rồi. Đông hơn ngày trước nhiều lắm.

Vua Thục nói:

- Chưa thấy quân ta báo về.

- Giặc Triệu chẳng theo đường cái xuống. Mà bỗng chốc òa ra khắp các ngả, chặn hết lỗi các cõi.

- Tất phải có chim mồi dắt đất, giặc mới thuộc đường sá đến thế.

Vua Thục chợt cảm thấy đau nhói như gai đâm vào óc. Một điều cay đắng vụt tới. Vua Thục đã nghĩ ra. ừ, phải có đứa trong tay dắt đất... Nhưng vua Thục lại trấn tĩnh ngay.

- Nỏ các phía lên chưa?

- Nỏ lên hết rồi, đông ngập mặt thành rồi. Hai ông quan nhớn nhác, thì thào:

- Quái, nó ở đâu đến nhanh như chui dưới đất lên.

- Đã bảo có đứa dắt đất mà. Ong chui trong tay áo bao năm nay.

- Tôi lo lắm.

Vua Thục quát:

- Im ngay!

Hai ông quan xanh mắt, lủi xuống. Vua Thục gạt ngang cánh tay, ngước lên bệ nỏ thần rồi nói với tất cả hàng quan đã sẵn sàng quanh đấy:

- Các ông đứng cạnh núi cao cất giấu khí thiêng trời đất mà không có mắt a?

Rồi vua Thục sụp lạy dưới bệ đá. Các quan quì xuống sau lưng vua chủ, trang nghiêm, uy nghi. Từng đám quân đội thúng đến đổ trầm, quế xuống đống thơm đương khói nghi ngút tỏa qua mặt đám quân quan kính cẩn quì quanh bệ đá. Lớp này lui ra, lớp khác vào. Suốt mặt thành, mấy trăm lực sĩ đợi lượt lên kéo cánh nỏ đã tề tựu ăn ngủ ngay tại chỗ từ mấy hôm rồi. Người nào cũng vừa cởi phăng áo, chỉ đóng chiếc khố điều. Những cánh tay, những bắp vế để không mà cũng quằn quại như con trăn quăng mình. Trên ụ canh, các quan lên xuống, tin đưa liên tiếp, vang nổi lên tứ phía. Thuyền mảng trổ sang tua tủa như gỗ trôi. Thình lình, từng bọn quân Triệu lội ra kín mặt hào nước. Vua Thục vịn tay lên bậc bệ đá trên.

- Đốt trầm lên.

Tiếng cồng âm u trong khói trầm. Mọi người trên mặt thành lại phủ phục xuống. Một ông quan võ khiêng cảnh rượu, trèo lên đặt xuống trước thềm đá bệ nỏ thần rồi lại nhấc cảnh, khoan thai bước lên từng bậc. Hai tay nâng cao, ông nghiêng miệng cảnh. Rượu đổ ồng ộc, bắn tung tóe xuống lòng máng nỏ. Ông quan lạc tướng ngồi trên ụ canh trước mặt đứng dậy, bước lên một bậc thềm, xắn hai ống tay áo, đánh một hồi chiêng. Đôi hàng lực sĩ đã cúi khom khom như bò lên bậc đá. Rồi thoắt chia hai cánh, đứng núp dưới bóng bên cánh nỏ chĩa ra dài như hai cột đình cầu vút ngả xuống. Mỗi lực sĩ quì một bên gối. Ngót trăm tay từ từ giơ lên. Hai cánh nỏ uốn cong đưa lằn thừng dây nỏ vào mỏ lẫy. Cánh nỏ xuống từ từ, mồ hôi nổi cục trên lưng, trên vai. Những con mắt đỏ dọc trừng trừng đến nỗi như sắp lòi ra. Lằn thừng da trâu vừa lọt vào khe lẫy, cả hai hàng người buông tay, ngã vật. Mà cánh tay vẫn cứ thẳng đơ, gân cứng như đũa, không co lại được. Toán lực sĩ khác chạy vào, rẽ hai bên chực sẵn. Những ống bương cháy nổ lệnh ran các thành. Vua Thục giơ ngược tay, phất ống tay áo. Tiếng cồng càng liên hồi, mãnh liệt. Vua Thục từ từ đặt tay vào giữa lẫy nỏ. Hai đầu cánh nỏ bạt vút. Tiếng thừng da trâu căng ra réo như nước xói. Nhìn xuống lòng máng, những ống tên đồng vàng rực vẫn nằm yên dưới làn gió thừng nỏ bật qua. Vua Thục rùng mình lạnh suốt sống lưng. Nhìn lại lần nữa bộ nỏ thần nằm trên bệ. Hai cánh xoãi dài như con đại bàng đương bay qua bể.

Không có gì khác. Không thể như thế, không thể như thế. Năm năm, phường nỏ trên ngược vẫn về xem lại cánh nỏ, soi lại lòng máng. Phường đúc Hàm Hoan vẫn trảy ra gõ rìu soát từng ống tên đứng trong kho. Chỉ có một mình vua Thục ở cùng phường nỏ, phường đúc xem xét từng ly từng tí cho đến khi xong. Những việc tuyệt mật, trong thành ngoài nội không ai biết. Cửa thành cấm bao năm vẫn đóng im ỉm. Không ai tỏ tường mọi công việc vua chủ lo chăm chút cỗ nỏ thần. Cả mấy bờ tre, luồng mới kén ngâm được nửa cật. Hàng chục mảng ghép đem quấn da trâu tách kẽ mà khít chặt. Hàng trăm trai tráng khoẻ mạnh đã phải mang tật suốt đời vì cật sức thử cánh nỏ. Thân, máng, lẫy, như thế. Tuyệt nhiên, không suy suyển. Tháng tháng, đầu tuần trăng, một mình ta vẫn tự đeo tay nải hương trầm lên đây. Chỉ có mỗi mình ta. Không, vẫn nguyên từ ngày đặt nỏ thần lên bệ, như thế này. Tiếng chiêng lại thúc. Một đợt chiêng vang, quân reo nổi cồn các phía. Hai hàng lực sĩ vươn tay lên kéo. Cánh nỏ bật ra réo đinh tai giữa đám người vừa buông ra, kiệt sức, lả tả ngã xuống. Loạt tên đồng vẫn nằm trơ trong lòng máng! Vua Triệu, mồ hôi đầm đìa mặt, hàm râu ướt đẫm. Một quan lạc chạy lên:

- Ba ông họ Phạm đã về tới. Vua Thục ngước nhìn ra. Anh em Phạm Chung, Phạm Túc, Phạm Hòa đã lừng lững đứng trước mặt. Khí thế uy nghi hệt như ngày trước. Các ông mặc áo nái điều, ngực quấn giáp da trâu thuộc, tay cầm thanh đinh ba nhọn hoắt. Ba người cúi xuống:

- Chúng tôi đợi lệnh vua chủ.

Vua Thục kêu:

- Trời giúp ta rồi! Trời giúp ta rồi!

Tướng Phạm Hòa nói:

- Xin cho quân chúng tôi lên thành.

Vua Thục nói:

- Lên ngay, lên ngay. Cho người vào thay tay kéo nỏ đây.

Ba ông Phạm cùng bước ra. Mỗi người nâng tù và buộc nơi thắt lưng, ngửa mặt thổi từng hơi dài. Tiếng tù và uôm lên, vang vào vòm không. Đấy là tiếng hiệu cho các toán quan vừa từ Mi Linh, Chi Diên kéo tới. Trên các đường thành vòng cung, cửa cuốn, nhấp nhô, cuồn cuộn bóng người, mũi đinh ba, mũi giáo, đầu cánh nỏ, ống nỏ. Các khe bắn nỏ đầu tường thành được lắp san sát, không còn một lỗ trống hốc. Một toán quân lên thành giữa. Các tướng em Phạm Túc, Phạm Hòa hăm hở xuống bậc đá, theo quân nhảy thoăn thoắt sang các mặt thành. Tướng cả Phạm Chung bước lại trước mặt vua chủ, giữa đám quan hầu vừa khiêng lại mấy cảnh rượu. Phạm Chung xắn tay áo, xách tai cảnh trèo lên chót vót bệ đá cao nhất, đổ rượu vào giữa máng nỏ thần trên đỉnh, làm lễ rửa nỏ lần nữa. Lòng nỏ đồ sộ uốn cong như vòm cống. Cảnh rượu đổ xuống, cả dãy tên đồng nằm chăm chắm, như một hàng cột ngả ngang, bỗng sáng lên, soi gương được. Xung quanh im phắc. Tất cả ngước nhìn tướng Phạm Chung khởi lễ rửa nỏ. Khói trầm bốc từng đám xanh thẫm. Hai hàng lực sĩ rạp xuống lạy lên cỗ nỏ, rồi vươn tay. Những thớ thịt cánh tay, các đường gân trên má, trên trán, quanh cổ nổi lên. Dây nỏ từ từ trĩu xuống, vừa khớp được vào mép lẫy thì người buông tay lăn ra. Tiếng chiêng rền rền. Vua Thục vẫn đứng trên thềm đá, như lúc nãy. Vua Thục từ từ đặt tay vào máng lẫy. Gân tay vua chủ nổi cuồn cuộn, mồ hôi hột hai bên thái dương rỏ giọt xuống, lã chã trên mặt đá. Cả khuôn mặt và cánh ta vua Thục đỏ thậm, rồi trắng bạch... Cánh nỏ bật. Một luồn gió giật qua. Mọi người ngồi sụp xuống, rồi lại rùng rùng nhìn ngay lên. Cả dãy tên đồng vẫn nằm trơ trong lòng máng! Vua Thục gầm lên:

- Bắn nữa! Bắn! Chiêng lên! Chiêng lên!

Những lực sĩ kiệt sức lúc nãy còn lăn lóc quanh bệ đá. Hàng lực sĩ khác đã xô lên, tiến vào. Lại toán nữa liền theo, trèo qua những người nằm ngổn ngang. Tất cả đứng sẵn dưới cánh nỏ. Tiếng vua Thục ra từng lệnh vẫn rền như sấm:

- Đốt trầm! Đốt trầm! Khiêng cảnh rượu nữa! Chiêng lên! Chiêng!

Nỏ quân quan quanh thành bắn ra như mưa cũng không cản được đám quân Triệu nhốn nháo xô lên. Các chiến sĩ xông ra chặn, ngã trước mũi tên ngay chỗ ấy. Những người khác xỉa đinh ba tới tấp. Quân Triệu núp dưới vai đeo mộc lăn vào. Những phát nỏ bắn ra, cắm trên mộc quân Triệu lủa tủa như lông nhím mọc. Cả người cầm mộc, người giữ thành, chết đổ xô lấp đường lên thành. Những toán quân Triệu ấy ngã, lại toán khác nhảy vào. Đột nhiên, một cánh quân áo chàm khăn chàm cùng tướng Đinh toán đổ xô tới. Những chiến sĩ ấy từ vùng rừng núi đầu nguồn đã ròng rã ngày đêm về tới. Trông lên, quân Triệu đã vây thành chằng chịt vòng trong vòng ngoài đen kịt như vãi đỗ. Trong đêm tối, đóm đuốc sao sa như con trăn lấp lánh vảy sáng núc tròn quanh thành. Không còn lấp ló một ụ canh nào nữa. Đinh Toán hỏi Đinh Công Tuấn:

- Làm thế nào bây giờ?

Tuấn nói:

- Ta chỉ như hạt cát. Nhưng gió cuốn hạt cát lên sẽ thành núi cát.

Quân reo à à. Hai tướng họ Đinh dốc quân đánh thẳng vào quân Triệu. Đoàn quân như bơi giữa vòng sông máu, quân Triệu ngã ra. Tảng sáng, phá vây được tới đây, trông lại chỉ còn vài chục ngọn giáo và những cánh nỏ xơ xác. Đinh Công Tuấn đã nghỉm xuống chết chìm ở quãng xô xát nào. Vua Thục ứa nước mắt, gọi to:

- Đinh Toán! Đinh Toán!

Quân Triệu đã đội lên được bao nhiêu quãng thành. Trận đánh giáo mác đâm ngập mắt, suốt lưng. Người chết chồng đống ngay cạnh các bờ tường. Những người bị văng ra ngoài sông. Có người cầm giáo xỉa trước mặt rồi ngã xuống đấy. Có người một tay giơ khiên che mình, một tay quơ cảnh rượu, đập như nện búa. Không lắp tên vào máng nỏ được nữa, cứ giơ thân nỏ mà quật. Có người quăng cả chiếc chiêng đồng vào quân Triệu.

* * *

Vua Thục lảo đảo đứng dậy. Trong bóng tối, tên nỏ, gươm giáo xoang xoảng mù mịt trước mặt. Bỗng nghe một tiếng gọi to:

- Vua chủ! Vua chủ!

Vua Thục bừng mắt.

Quang cảnh bỗng lặng tờ. ở đâu, ta ở đâu, chứ không phải đương trong cuộc xô xát máu đỏ cuồn cuộn khắp các bậc thành. Sông Cái đỏ lừ mênh mang phẳng lặng. Những đóa hoa súng, đài tím, nở cánh trắng. Những chiếc lá trang xanh tròn xoe lát trên mặt nước. Con rùa khoan thai bơi quanh các khóm lá. Cao cao trên kia, chiếc chim bói cá đứng, ngắm xuống một xoáy nước. Vua Thục thảnh thơi ngồi trên thuyền. Như năm nào đoàn thuyền ngự của vua chủ ra sông Thiếp, sông Lú. Đi rót nước đồng ở lò Chiêm Trạch. Đi theo phường săn... Vua Thục lại trông thấy hàng dài những đoàn người kéo đất, đội đất, bóng người cắt bóng lên mặt thành.

- Vua chủ cứ quá khen làm cho tôi nghĩ mà thẹn thay. Nhờ được người tám cõi cùng một bụng. Không phân biệt ngôi thứ giường chiếu, các quan lạc cũng như người dắt ngựa. Thế thì việc khó đến thế nào chả xong.

- Có thành vững rồi, từ nay được ngủ yên.

- Tôi nghĩ chưa hết lo đâu.

- Ông bảo còn phải làm gì?

- Tôi nghe những người qua lại đất Triệu về nói bọn Úy Đà nuốt được Quế Lâm, Tượng Quận rồi. Bờ cõi ta vuông vắn nghìn dặm, thế nào chúng cũng đỏ mắt nhòm ngó.

Ngồi giữa thuyền, vua Thục thét to:

- Ông là ai? Ông có phải tướng quân Cao Lỗ không?

Người chèo thuyền không nói. Vua Thục bối rối:

- Có phải ông về cứu tôi sang sông?

Vua Thục kêu to:

- Cao Lỗ! Cao Lỗ!

Xung quanh mù mịt. Trời xám lẫn nước. Vua Thục nhắm nghiền mắt. Nghe mũi thuyền chạm vào mớm cát. Người chèo thuyền dắt tay vua Thục, bước lên bờ.

 

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo!

Các chương khác:

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/51662


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận