như thể sục sạo mọi ngóc ngách tìm lại một đạo lý đã thất truyền từ lâu, để rồi cuối cùng bặt dần đi, chỉ còn là một vang vọng giận dữ, yếu ớt nơi chân trời phía Tây. Và ngay sau đó, cơn mưa dữ dội cũng đột ngột tạnh, kéo theo một im lặng kỳ bí. Hoshino đứng dậy, mở cửa sổ cho không khí ùa vào. Mây giông đã tan, một lần nữa bầu trời lại bao phủ một màng mây trắng mỏng tang. Tất cả các ngôi nhà đều ướt sũng và những kẽ nứt trên tường nổi bật lên đen ngòm như những đường gân xanh của người già. Nước từ những dây điện nhỏ xuống thành vũng trên mặt đất. Chim chóc từ chỗ trú bay ra, vừa kêu ríu rít vừa đua nhau tìm lũ sâu bọ cũng đã túa ra sau khi dứt cơn giông.
Hoshino quay cổ từ bên này sang bên kia vài lần để kiểm tra cột sống của mình. Gã vươn vai một cái hết cỡ, ngồi xuống cạnh cửa sổ, nhìn ra ngoài, rồi rút bao Marlboro, châm một điếu.
“Ông thấy đấy, ông Nakata, sau bao cố gắng trầy vẩy để lật phiến đá và mở cửa vào, vẫn chẳng có gì phi thường xảy ra. Chẳng thấy cóc nhái, ma quỷ nào xuất hiện, chẳng có gì lạ kỳ hết. Về phần cháu thì chả sao, tất nhiên... Dàn cảnh thật ghê, sấm sét đùng đùng, nhưng cháu phải nói với ông rằng cháu hơi thất vọng đấy.”
Không thấy trả lời, gã ngoảnh lại. Nakata đang ngả người về đằng trước, hai tay chống sàn, mắt nhắm chặt. Nom lão như một con sâu ẻo lả.
“Có chuyện gì thế? Ông không sao chứ?” Hoshino hỏi.
“Xin lỗi, lão chỉ hơi mệt thôi. Nakata cảm thấy khó ở. Lão muốn nằm xuống, ngủ một lúc.”
Quả thật, mặt Nakata nom tái nhợt dễ sợ. Mắt trũng xuống, tay run bần bật. Dường như chỉ trong vài giờ, lão đã già đi ghê gớm.
“Thôi được, để cháu trải futon cho ông. Ông cứ tha hồ ngủ bao lâu tùy thích,” Hoshino nói. “Nhưng ông chắc là mình không sao chứ? Ông có thấy đau bụng không? Có buồn nôn không? Tai có ù không? Hay có lẽ ông muốn đi cầu? Có cần cháu gọi bác sĩ không? Mà ông có bảo hiểm không nhỉ?”
“Có, ngài Tỉnh trưởng có cho lão một thẻ bảo hiểm. Lão cất kỹ nó trong túi xắc."
“Thế thì tốt,” Hoshino vừa nói vừa lôi tấm futon trong tủ ra, trải. “Cháu biết bây giờ không phải lúc đi vào chi tiết, nhưng không phải là tỉnh trưởng Tokyo cho ông thẻ đâu. Đây là một tấm thẻ bảo hiểm y tế quốc gia, nên phải là chính phủ Nhật Bản cấp. Cháu không hiểu thấu đáo lắm, nhưng riêng về điểm này thì cháu chắc chắn. Đích thân tỉnh trưởng không lo từng chi tiết nhỏ cho đời sống của ông đâu, ông hiểu không? Vậy hãy tạm quên ông ta đi.”
“Nakata này hiểu. Ngài tỉnh trưởng không cho lão thẻ bảo hiểm. Lão sẽ cố tạm quên ngài đi. Dù sao, lão cũng không nghĩ là cần gọi bác sĩ. Lão chỉ cần ngủ một chút là sẽ ổn thôi.”
“Khoan đã. Ông sẽ không đánh một giấc ma-ra-tông ba mươi sáu tiếng liền tù tì như lần trước đấy chứ?”
“Lão không biết. Lão không quyết được là mình sẽ phải ngủ bao lâu.”
“Ờ, cũng có lý,” Hoshino thừa nhận. “Không ai làm thế. Thôi được, ông cứ ngủ bao lâu tùy thích. Ông đã qua một ngày vất vả. Nào là sấm sét đùng đùng, lại còn phải nói chuyện với phiến đá. Rồi thì mở cửa vào đâu chả biết. Không phải ngày nào cũng chứng kiến những sự việc như thế, đó là cái chắc. Ông đã phải động não rất nhiều, mệt là phải. Ông đừng lo lắng gì, cứ thư giãn và ngủ cho sướng mắt. Các chuyện khác cứ để Hoshino này giải quyết.”
“Đa tạ. Lão lúc nào cũng làm cậu vất vả. Nakata này không biết cảm ơn cậu thế nào cho vừa về những gì cậu đã làm. Nếu không có cậu đi cùng, lão ắt chẳng biết xoay xở ra sao. Mà cậu còn có công việc quan trọng phải làm chứ có chơi đâu.”
“Vâng, có lẽ thế,” Hoshino nói giọng ảo não. Quá nhiều chuyện xảy ra khiến gã quên bẵng nhiệm vụ của mình. “Giờ ông nhắc đến, cháu mới nhớ: quả thật cháu phải mau về làm việc thôi. Sếp của cháu lúc này hẳn đang lôi đình thịnh nộ, cháu dám cá thế. Cháu đã gọi điện thoại cho ông ấy xin nghỉ phép mấy ngày giải quyết chuyện riêng, nhưng từ bữa đó, cháu chưa gọi lại. Khi nào cháu về, thể nào ông ấy cũng xạc cho một trận.”
Gã châm một điếu Marlboro mới, ung dung nhả khói. Gã nhìn một con quạ đậu trên chóp một cột điện thoại và nhăn mặt nhệch mồm làm trò giễu nó. “Nhưng cần quái gì! Ông ấy muốn nói gì thì nói – có hét sùi bọt mép cháu cũng mặc. Ông ạ, cháu đã làm quần quật quá sức mình bao năm, như trâu kéo cày. Này, Hoshino, chúng ta đang thiếu người, chịu khó chạy một chuyến đêm đến Hiroshima nhé! Vâng, thưa sếp, tôi lên đường đây... Bảo sao làm vậy, chẳng bao giờ kêu ca phàn nàn. Bởi thế nên lưng mới đau khốn đau khổ. Nếu ông không chữa cho cháu thì tình hình ắt đã mỗi ngày một tệ. Cháu mới hai lăm hai sáu, thế thì tại sao phải hủy hoại sức khỏe vì một công việc thảm hại thế này, phải không? Thỉnh thoảng nghỉ mấy ngày thì có gì là sai trái? Cơ mà, ông Nakata ạ, cháu...”
Hoshino chợt nhận ra là ông già đã ngủ ngon lành. Mắt nhắm nghiền, mặt ngửa lên trần, môi mím chặt, Nakata đang thở bình yên, phiến đá lật sấp nằm cạnh gối.
Chà, mình chưa thấy ai ngủ say lẹ như ông lão, Hoshino nghĩ thầm, thán phục.
Thừa thì giờ, gã nằm duỗi dài xem tivi một lúc nhưng rồi không chịu nổi cái chương trình buổi chiều quá nhạt nhẽo, gã bèn quyết định ra ngoài. Gã không còn đồ lót sạch, cần phải mua thêm vài cái. Gã không thích giặt đồ. Thà mua mấy chiếc quần đùi rẻ tiền còn hơn ngồi giặt ba cái đồ cũ bẩn, gã luôn nghĩ thế. Gã đến quầy nhà trọ trả tiền cho ngày hôm sau và bảo họ người bạn đồng hành của gã đang ngủ, chớ có đánh thức ông dậy. “Mà có cố đánh thức cũng chả được đâu,” gã nói thêm.
Gã lang thang dọc các phố, hít cái mùi thơm sau mưa trong không khí, vẫn trong trang phục quen thuộc: sơ mi Hawai, mũ Chunichi Dragons, kính râm Ray Bans mắt xanh. Gã mua một tờ báo ở ki-ốt cạnh ga, xem kết quả trận đấu – Dragons thua Hiroshima trên sân khách – lướt qua chương trình chiếu bóng và quyết định đi xem bộ phim mới nhất của Jackie Chan. Vừa vặn sắp đến giờ chiếu. Gã ghé trạm cảnh sát hỏi đường, hóa ra rạp ở ngay gần đấy, nên gã đi bộ đến, mua vé, vào rạp, vừa xem vừa nhai lạc.
Ra khỏi rạp, trời đã tối. Gã chưa đói lắm, nhưng vì không nghĩ ra việc gì khác để làm, gã quyết định đi ăn tối. Gã vào một tiệm gần đó, gọi sushi và bia. Gã mệt hơn là gã tưởng và chỉ uống hết nửa suất bia.
Cũng phải thôi, gã nghĩ. Nhấc cái phiến đá nặng như núi ấy, làm sao mà không mệt. Mình có cảm giác như mình là chú cả trong Ba Chú Lợn Con. Tên Sói gian ác chỉ cần hà hơi thổi phù một cái là mình bay đến tận Okayama.
Gã rời tiệm sushi và bắt gặp một điểm pachinko. Loáng cái, gã đã thua hai nghìn yen. Hôm nay không phải là ngày của mình, gã nghĩ vậy, không chơi nữa và đi lòng vòng. Gã chợt nhớ là vẫn chưa mua đồ lót. “Khỉ thật, mà mình ra phố cốt là để làm việc ấy,” gã nghĩ thầm. Gã vào một cửa hàng giảm giá trong khu phố buôn bán, mua một mớ quần đùi, áo phông và bít tất. Cuối cùng, giờ đây, mình đã có thể vứt đồ lót bẩn đi được rồi. Gã quyết định đã đến lúc sắm một chiếc sơ mi Hawai mới, nhưng sau khi lùng sục mấy cửa hàng, gã kết luận rằng loại mặt hàng này ở Takamatsu không hợp “gu” gã. Mùa hè cũng như mùa đông, bao giờ gã cũng chỉ mặc loại này, nhưng thế không có nghĩa là gã xài bất kỳ kiểu sơ mi Hawai nào.
Gã dừng ở một hiệu bánh, mua ít bánh mì, phòng khi nửa đêm, Nakata thức dậy đói bụng, và cả một hộp nước cam nữa. Sau đó, gã đến một ngân hàng, dùng thẻ ATM rút năm mươi nghìn yen. Kiểm tra số dư, gã thấy hãy còn khối. Mấy năm vừa rồi quá bận rộn nên gã chẳng có mấy thời gian để tiêu tiền.
Lúc này trời đã tối mịt và gã bỗng thấy thèm một tách cà phê. Gã nhìn quanh, thấy một biển hiệu cà phê ngay bên ngoài khu phố chính. Đó là một tiệm cà phê kiểu cổ thuộc loại ít thấy bây giờ. Gã bước vào, ngồi thoải mái trên một chiếc ghế bành êm ái và gọi một tách cà phê. Nhạc thính phòng thánh thót bay ra từ bộ loa Anh chắc nịch bằng gỗ bồ đào. Hoshino là người khách duy nhất. Gã ngả người trên ghế và lần đầu tiên sau một thôi dài, cảm thấy hoàn toàn thoải mái. Mọi thứ trong tiệm đều tự nhiên, làm người ta cảm thấy bình an, dễ chịu. Cà phê, rót trong một chiếc tách sang nhã, đặc sánh và ngon tuyệt. Hoshino nhắm mắt lại, nhẹ nhàng hít vào và lắng nghe tiếng đàn dây xoắn xuýt quyện với dương cầm. Trước đây, gã hầu như không nghe nhạc cổ điển, nhưng bản nhạc này làm gã nguôi dịu và rơi vào một tâm thế hướng nội.
Ngả người trên chiếc ghế êm ái, mắt lim dim, chìm đắm trong tiếng nhạc, một số ý nghĩ chợt đến trong đầu gã – phần lớn là liên quan đến bản thân gã. Nhưng càng nghĩ về bản thân, gã càng thấy đời mình có vẻ thiếu thực chất. Gã bắt đầu cảm thấy mình như một thứ phụ tùng vô nghĩa.
Xưa nay, mình vốn là một fan cuồng nhiệt của Chunichi Dragons, nhưng rốt cuộc, đội này là cái gì đối với mình? Chẳng hạn, họ thắng đội Giants, thì điều đó có làm cho mình trở thành người tốt hơn không? Làm sao có thể thế được? Vậy thì việc quái gì mình cứ suốt ngày háo hức kích động như thể đó là một bộ phận nối dài của bản thân mình?
Ông Nakata bảo con người ông trống rỗng. Có thể thế, theo chỗ mình biết. Nhưng cái đó thì việc quái gì đến mình? Ông bảo là hồi bé ông bị tai nạn nên đâm ra trống rỗng thế. Nhưng mình thì có bao giờ bị tai nạn gì đâu. Nếu ông Nakata trống rỗng thì mình còn tệ hơn cả trống rỗng! Chí ít ông cũng còn có cái gì của mình, một cái gì đặc biệt khiến mình bỏ tất cả để theo ông đến tận Shikoku. Đó là cái gì, mình cũng chả biết, nhưng mà...
Hoshino gọi thêm một tách cà phê.
“Cậu thích cà phê của bản hiệu?” ông chủ tóc bạc tiến lại, hỏi (đó là một cựu quan chức của bộ Giáo dục – cố nhiên Hoshino làm sao biết được. Sau khi về hưu, ông trở về thành phố quê hương Takamatsu, mở tiệm giải khát này, phục vụ cà phê tuyệt hảo và nhạc cổ điển).
“Tuyệt. Hương vị rất thơm.”
“Tự tay tôi rang hạt cà phê. Chọn lọc từng hạt một.”
“Thảo nào mà ngon thế.”
“Nhạc không làm cậu phiền chứ?”
“Nhạc ấy à?” Hoshino đáp. “Không, nhạc hay đấy chứ. Tôi không phiền chút nào. Hoàn toàn không. Ai chơi đấy?”
“Tam tấu Rubinstein-Heifetz-Feuermann 1, được mệnh danh là dàn Tam Tấu Triệu Đô. Những nghệ sĩ siêu việt. Đĩa thu từ năm 1941 mà đến nay âm thanh vẫn sáng không xỉn đi chút nào.”
“Quả là thế. Những cái hay cái đẹp không bao giờ già cỗi, phải không?”
“Một số người lại thích bản tam tấu Archduke này được chơi theo cách cổ điển hơn, cấu trúc chặt chẽ hơn. Như cách của dàn tam tấu Oistrach 2 ấy.”
“Không, tôi nghĩ đĩa này là tuyệt,” Hoshino nói. “Nó có một cái gì... biết nói thế nào nhỉ?... một cái gì thật dịu dàng.”
“Rất cảm ơn,” ông chủ nói, như thể nhân danh dàn Tam Tấu Triệu Đô mà nhận lời khen ấy, và trở về đứng sau quầy.
Trong khi thưởng thức tách cà phê thứ hai, gã quay trở lại với những suy ngẫm ban nãy. Nhưng mình đang giúp ích cho ông Nakata mà. Mình đọc tài liệu cho ông và chung cục, chính mình đã tìm ra phiến đá. Giúp ích được cho ai là một điều tốt, thế mà trước đây mình hồ như chưa bao giờ cảm nhận thấy... Mình đã bỏ việc, đi đến tận Shikoku, dính vào những chuyện điên rồ, hết chuyện này đến chuyện khác, nhưng mình tuyệt đối không hề hối tiếc.
Mình cảm thấy rơi vào đúng chỗ hoàn toàn phù hợp. Ở bên ông Nakata, mình không cần phải bận tâm với câu hỏi Ta là ai? Nói thế này có lẽ hơi quá, nhưng mình dám chắc các Phật tử và các thánh tông đồ của Chúa Jêsu cũng có cảm nhận giống nhau, đại loại như: Khi ở bên Đức Phật, bao giờ ta cũng cảm thấy phù hợp. Quên những lý sự về văn hóa, chân lý, mọi thứ phức tạp ấy đi. Chỉ cần thứ cảm hứng kia thôi.
Hồi nhỏ, ông nội thường kể những truyện về môn đồ của Đức Phật cho mình nghe. Trong số đó có một người tên là Myoga. Anh ta tối dạ đến nỗi không nhớ nổi một câu kinh sutra. Các bạn đồng môn luôn luôn trêu chọc anh. Một hôm, đức Phật bảo anh: “Myoga, con không được sáng dạ lắm, vậy con không cần phải học kinh. Thay vào đó, ta muốn con ngồi ở cửa vào và đánh giày cho mọi người”. Vốn tính ngoan ngoãn vâng lời, Myoga không cãi lại thầy, cứ thế mười năm, hai mươi năm liền đánh giày cho mọi người. Rồi một hôm, Myoga bỗng Ngộ và trở thành một trong những Phật tử lớn nhất. Đó là một chuyện mà Hoshino luôn luôn nhớ, vì trước nay, gã vẫn nghĩ lầm lũi mấy chục năm đánh giày cho kẻ khác thì quả là một cuộc đời vét đĩa nhất. Chắc đây là chuyện đùa, gã nghĩ. Nhưng bây giờ suy xét kỹ, gã bắt đầu thấy nó có một hàm ý khác. Cách nào đi nữa, đời vẫn là vét đĩa. Điều đó, dạo bé, gã không hiểu ra, có thế thôi.
Những ý nghĩ đó chiếm lĩnh đầu óc gã cho đến khi bản nhạc kết thúc. Bản nhạc dường như đã tạo đà cho gã suy tưởng.
“Này,” gã gọi ông chủ. “Bản nhạc này tên là gì nhỉ, tôi quên mất rồi."
“Tam tấu Archduke của Beethoven.”
“Mác-duke?”
“Ác. Archduke. Beethoven viết tác phẩm này tặng Đại công tước Rudolph của nước Áo. Do vậy, người ta gọi thế, chứ đó không phải tên chính thức của nó. Rudolph là con trai của Hoàng Đế Leopold đệ nhị. Ông rất có năng khiếu âm nhạc và được Beethoven dạy piano và nhạc lý từ năm mười sáu tuổi. Ông sùng bái Beethoven. Đại công tước Rudolph không thành danh cả với tư cách nhà soạn nhạc lẫn với tư cách nghệ sĩ dương cầm, nhưng ông đứng đằng sau giúp đỡ Beethoven vốn vụng về không biết xoay xở ra sao trong giới xã giao. Nếu không có ông Beethoven ắt cơ cực hơn nhiều.”
“Những người như thế là cần thiết trong đời, phải không?”
“Hết sức cần thiết.”
“Nếu tất cả mội người đều là thiên tài thì thế giới loạn xà ngầu mất. Phải có người canh chừng, lo toan công chuyện chứ.”
“Đúng. Một thế giới đầy thiên tài ắt nảy sinh nhiều vấn đề.”
“Tôi thực sự thích bản nhạc này.”
“Một tác phẩm tuyệt vời. Nghe mãi không chán. Tôi nghĩ đó là bản tinh tế nhất trong tất cả các tam tấu piano của Beethoven. Ông viết nó năm bốn mươi tuổi và sau đó không viết thêm bản tam tấu nào nữa. Chắc ông coi là mình đã đạt tới đỉnh trong thể loại này.”
“Tôi nghĩ là tôi hiểu ông muốn nói gì. Đạt tới đỉnh là điều quan trọng trong mọi sự,” Hoshino nói.
“Mong lại có dịp đón tiếp cậu.”
“Vâng, tôi sẽ trở lại.”
Khi Hoshino về nhà trọ, Nakata, đúng như dự đoán, vẫn ngủ li bì. Đã có kinh nghiệm, nên lần này gã không lấy làm lạ. Cứ để ông lão muốn ngủ bao lâu thì ngủ, gã quyết định. Phiến đá vẫn đó, ngay cạnh gối. Hoshino đặt túi bánh mì xuống cạnh đó. Gã đi tắm, thay đồ lót mới, vo tròn đồ cũ bỏ vào một cái túi giấy vứt vào sọt rác. Gã nằm lên tấm nệm futon của mình và chẳng mấy chốc đã ngủ ngon lành.
Sáng hôm sau, gã dậy đúng trước chín giờ. Nakata vẫn ngủ, hơi thở đều đặn, nhẹ nhàng.
Hoshino xuống ăn sáng, dặn cô hầu phòng đừng đánh thức bạn đồng hành của mình. “Không cần phải dọn phòng đâu,” gã nói.
“Bác ấy ngủ lâu thế có sao không ạ?” cô hầu phòng hỏi.
“Đừng lo, ông ấy không chết đâu. Ông ấy cần ngủ để lấy lại sức thôi. Tôi biết đích xác thế nào là tốt nhất cho ông ấy mà.”
Gã mua một tờ báo ở ga, ngồi trên một ghế băng, giở xem mục chiếu phim trong ngày. Một rạp ở gần ga đang có chương trình hồi cố các tác phẩm của Francois Truffaut. Hoshino không biết Truffaut là ai, thậm chí không biết đó là nam hay nữ, nhưng một buổi chiếu liền hai phim là cách tốt để giết thì giờ cho đến tối, nên gã quyết định đi xem. Chương trình gồm hai bộ phim Les 400 coups (Sống văng mạng) và Tirez sur le pianiste (Hãy bắn vào người chơi piano). Chỉ có một dúm khán giả trong rạp. Hoshino tuyệt nhiên không phải là dân nghiền điện ảnh. Thỉnh thoảng gã mới đi xem một phim hành động hoặc võ thuật. Cho nên những tác phẩm đầu tay này của Truffaut có chỗ khó hiểu đối với gã, tiết tấu thì lề mề như thường thấy ở các phim cổ. Tuy nhiên, gã thích tâm thế độc đáo và không khí chung của phim, cách mô tả thế giới nội tâm của các nhân vật. Ít nhất cũng không đến nỗi chán. Mình sẵn sàng xem thêm vài phim nữa của tay này, gã nghĩ thầm.
Ra khỏi rạp, gã thả bộ đến khu phố buôn bán và lại vào tiệm cà phê đêm qua. Ông chủ nhận ra gã. Hoshino ngồi vào chỗ cũ và gọi cà phê. Cũng như hôm trước, gã là người khách duy nhất. Dàn máy stereo đang phát ra một khúc nhạc do dàn dây biểu diễn.
“Concerto số 1 cho cello của Haydn, người độc tấu là Pierre Fournier,” ông chủ giải thích khi bưng cà phê đến cho Hoshino.
“Âm thanh rất tự nhiên,” Hoshino bình luận.
“Đúng thế,” ông chủ tán thành. “Pierre Fournier là một trong những nhạc công yêu thích nhất của tôi. Như một thứ tiên tửu, ngón đàn của ông có một hương vị và một tố chất làm ấm bầu nhiệt huyết và khiến ta phấn chấn. Tôi luôn gọi ông là Thầy Fournier để tỏ lòng tôn kính. Dĩ nhiên, tôi không đích thân quen biết ông, nhưng tôi luôn cảm thấy như đó là thầy tôi.”
Lắng nghe tiếng cello sang nhã vào dào dạt của Fournier, Hoshino như được đưa trở về thời thơ ấu. Dạo ấy, mình thường ra sông bắt cá, chẳng lo nghĩ gì, gã nhớ lại. Mỗi ngày đến thế nào thì mình sống thế ấy, mình là một cái gì. Cứ tự nhiên thế thôi. Nhưng rồi một hôm, tất cả bỗng thay đổi, cuộc sống khiến mình không là cái gì nữa. Thật kỳ lạ... Người ta sinh ra là để sống, phải không nào? Nhưng càng sống, mình càng mất đi cái gì ở bên trong mình, và rốt cuộc, mình trở thành trống rỗng. Và mình dám chắc là càng sống, mình sẽ càng trống rỗng hơn, vô giá trị hơn. Ở đây, có một cái gì đó không ổn. Đời lại cứ phải xoay ra như thế sao? Liệu mình có thể xoay chiều đổi hướng được không?
“Xin lỗi...” Hoshino gọi ông chủ đang đứng ở quầy.
“Tôi có thể giúp gì?”
“Không biết ông có thì giờ và có thể đến ngồi trò chuyện với tôi một lúc được không? Tôi muốn biết thêm về tay Haydn này.”
Ông chủ vui thích có dịp làm một bài thuyết trình mini về thân thế và âm nhạc của Haydn. Về cơ bản, ông là một người dè dặt, nhưng hễ đề cập đến âm nhạc cổ điển thì ông rất hùng biện. Ông giải thích là trong cuộc đời dài của mình, Haydn đã phục vụ nhiều vị quân vương, sáng tác không biết bao nhiêu tác phẩm theo đơn đặt hàng. Haydn vốn tính thực tế, dễ mến, khiêm nhường và rộng lượng, ông nói, nhưng cũng là một con người phức tạp với một vùng bóng tối lặng lẽ trong nội tâm.
“Haydn là một tính cách bí hiểm. Không ai thực sự biết được những cảm xúc mãnh liệt ẩn kín trong lòng ông. Tuy nhiên, sinh ra trong thời phong kiến, ông buộc phải khéo léo che giấu bản ngã của mình dưới cái vẻ ngoài tươi tỉnh, phục tùng. Nếu không, ông ắt bị đè bẹp. Nhiều người chê ông không bằng Bach và Mozart, cả về tác phẩm lẫn cách sống. Đành rằng ông cũng có cách tân, nhưng chưa bao giờ đích thực là người tiên phong cả. Nhưng nếu nghe thật chăm chú, ta có thể cảm nhận thấy một khát vọng sâu kín vươn tới cái tôi hiện đại. Như một vang vọng xa xăm đầy mâu thuẫn, nó hiện diện và lặng lẽ đập trong nhạc của Haydn. Hãy lắng nghe hòa âm này chẳng hạn. Rất em nhẹ, nhưng mang một tinh thần khăng khăng, hướng nội đầy một niềm ham hiểu biết trẻ trung.”
“Như phim của Francois Truffaut.”
“Chính xác,” ông chủ reo lên vui thích, vỗ vai Hoshino theo phản xạ tự nhiên. “Cậu nói trúng phắp. Cậu thấy được phim của Truffaut cũng xộn rộn cái tinh thần ấy. Một tinh thần khăng khăng, hướng nội đầy một niềm ham hiểu biết trẻ trung,” ông nhắc lại.
Khi bản concerto Haydn chấm dứt, Hoshino yêu cầu ông cho nghe lại bản tam tấu Archduke do Rubinstein, Heifetz và Feuermann chơi. Trong khi nghe, gã lại chìm đắm trong suy nghĩ. “Chậc, mình cóc cần chuyện gì xảy ra, cuối cùng gã quyết định. Chừng nào còn sống, mình sẽ tiếp tục theo ông Nakata. Kệ thây công việc!"--------------------------------
1
Arthur Rubinstein (1887-1982), nghệ sĩ piano Mỹ, gốc Ba Lan; Jascha Heifetz (1901-1987), nghệ sĩ violon Mỹ gốc Nga; Emanuel Feuermann (1902-1942), nghệ sĩ cello Mỹ gốc Ukraina. Cả ba đều được xếp vào hàng đầu thế giới.